Phần thứ nhất ĐÁnh giá TÌnh hình tổ chức thực hiện luật hợp tác xã NĂM 2003


Xu hướng phát triển hợp tác xã với bản chất của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp



tải về 1.21 Mb.
trang2/10
Chuyển đổi dữ liệu11.07.2016
Kích1.21 Mb.
#1665
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

2. Xu hướng phát triển hợp tác xã với bản chất của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp

Kết quả điều tra hợp tác xã năm 2008 cho thấy xu hướng thứ hai là mô hình tổ chức hợp tác xã trong lĩnh vực công nghiệp giống với bản chất của tổ chức doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp: năm 2007 có 4.744 hợp tác xã với gần 1 triệu xã viên, nhưng cung cấp tới hơn 90% doanh thu cho thị trường và tạo việc làm cho chỉ 6% xã viên. Các hợp tác xã với bản chất doanh nghiệp này sẽ mang tính chất đích thực hợp tác xã nhiều hơn khi kết nạp ngày càng nhiều hơn người lao động trong hợp tác xã của mình để trở thành là đồng chủ sở hữu trong hợp tác xã, hoặc thu hút ngày càng nhiều khách hàng làm xã viên hợp tác xã.

Chính phủ kiến nghị lựa chọn xu hướng thứ nhất vì tổ chức hợp tác xã theo xu hướng này là phổ biến, có đặc trưng riêng khác hẳn với tổ chức doanh nghiệp, thực hiện đúng nội hàm “hợp tác”, phù hợp với lý luận chung và kinh nghiệm quốc tế về hợp tác xã, phù hợp với chủ trương của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác xã. Do vậy, phải sửa đổi, bổ sung khung pháp luật và chính sách hiện hành để làm rõ hơn bản chất của tổ chức hợp tác xã, định hướng cho các hợp tác xã hiện đang hoạt động theo xu hướng thứ hai tổ chức lại dần dần mang bản chất tổ chức hợp tác xã nhiều hơn.

Nếu quan niệm bản chất tổ chức hợp tác xã theo xu hướng thứ hai thì không cần thiết phải có Luật Hợp tác xã riêng, mà chỉ cần bổ sung một số quy định phù hợp vào Luật Doanh nghiệp hiện hành; đồng thời, hợp tác xã loại này thực chất không thể gọi là hợp tác xã mà là tổ chức công ty theo Luật Doanh nghiệp.



III. KẾT QUẢ TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT HỢP TÁC XÃ NĂM 2003

1. Kết quả ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật hợp tác xã

Luật hợp tác xã năm 2003 đã được Quốc hội thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003, chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2004 cùng các Nghị định, Thông tư, văn bản khác hướng dẫn thực hiện Luật đã tạo hành lang pháp lý rõ ràng, khá đồng bộ, cụ thể, thuận lợi cho hợp tác xã phát triển, bước đầu góp phần tạo bước chuyển biến trong nhận thức của các tầng lớp nhân dân về mô hình tổ chức hợp tác xã, theo đó hợp tác xã trở thành mô hình liên kết sản xuất, tương trợ nhau để cùng phát triển, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, trong điều kiện cơ chế kinh tế thị trường. Đã có 8 Nghị định của Chính phủ, 8 Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ cùng nhiều Thông tư và các văn bản hướng dẫn của các Bộ, ngành có liên quan được ban hành (Phụ lục kèm theo).

Các địa phương đã tổ chức học tập quán triệt Luật Hợp tác xã và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật, đồng thời chỉ đạo triển khai thực hiện, như phân công nhiệm vụ cho các cấp, các ngành một cách cụ thể, kiểm tra, đôn đốc và giám sát trong việc thực hiện Luật Hợp tác xã. Một số địa phương đã xây dựng và ban hành một số văn bản hướng dẫn phù hợp với địa phương mình; thành lập ban chỉ đạo đổi mới, nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn; hoặc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế tập thể 5 năm (giai đoạn 2006 - 2010) và hàng năm.

2. Thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã

2.1. Kết quả thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã

Theo báo cáo, các bộ, ngành trung ương và hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện chính sách khuyến khích, hỗ trợ hợp tác xã theo Nghị định 88/2005/NĐ-CP ngày 11/07/2005 của Chính phủ. Một số địa phương đã ban hành giải pháp riêng nhằm hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã phù hợp với khả năng và đặc điểm của địa phương; ban hành Nghị quyết, kế hoạch hành động để đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể.

Nhiều hợp tác xã chuẩn bị thành lập được phòng kinh tế huyện phối hợp với Liên minh hợp tác xã phổ biến Luật, hướng dẫn xây dựng điều lệ, phương án sản xuất - kinh doanh, tổ chức hội nghị thành lập. Liên minh hợp tác xã tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã phối hợp với các ngành chức năng tích cực tham mưu triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã. Hàng năm Uỷ ban nhân dân cấp huyện và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế tập thể, từng bước đưa kế hoạch phát triển kinh tế tập thể vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của huyện, tỉnh.

Tuy nhiên, các hợp tác xã chỉ mới được hưởng một số chính sách, như: thuê quyền sử dụng đất bãi bồi, vay vốn từ nguồn quỹ quốc gia giải quyết việc làm hoặc được hỗ trợ đào tạo nghề; chưa được thụ hưởng nhiều các chính sách khác như chuyển giao khoa học - công nghệ, vay vốn tín dụng, đầu tư cơ sở hạ tầng, thông tin tiếp cận thị trường…

Kết quả cụ thể thực hiện chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển hợp tác xã như sau:

a) Hỗ trợ thành lập mới, đào tạo, bồi dưỡng hợp tác xã

Giai đoạn 2007 - 2012, kinh phí hỗ trợ từ ngân sách trung ương cho các bộ, ngành, địa phương để thực hiện chính sách hỗ trợ bồi dưỡng, đào tạo, thành lập mới hợp tác xã là 201 tỷ đồng.



- Hỗ trợ thành lập mới hợp tác xã:

Theo báo cáo của 50/63 tỉnh, thành phố, giai đoạn 2006 - 2010 ước có khoảng 25.903 tổ chức kinh tế tập thể (bao gồm tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã) được hỗ trợ, tư vấn thành lập với kinh phí khoảng 15.634 triệu đồng; trong đó năm 2010 ước tư vấn, hỗ trợ thành lập khoảng 5.756 tổ chức kinh tế tập thể (5.072 tổ hợp tác, 671 hợp tác xã và 13 liên hiệp hợp tác xã). Đa số các ban sáng lập hợp tác xã đều được hướng dẫn, hỗ trợ theo đúng trình tự, thủ tục thành lập mới hợp tác xã.

Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo liên minh hợp tác xã tỉnh, các sở, ngành, Uỷ ban nhân dân cấp huyện vận động và tổ chức các dịch vụ tư vấn hỗ trợ, tổ chức tập huấn cho các sáng lập viên xây dựng điều lệ, phương án sản xuất - kinh doanh, hoàn thiện các thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh hợp tác xã.

- Chính sách đào tạo, bồi dưỡng:

Theo báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế tập thể 5 năm giai đoạn 2006 - 2010 của 50/63 tỉnh, thành phố, tính đến 2010 ước có khoảng 114.187 lượt cán bộ hợp tác xã được hỗ trợ bồi dưỡng (khoảng 114.187 lượt cán bộ hợp tác xã nông nghiệp và 137.658 lượt cán bộ hợp tác xã phi nông nghiệp) với kinh phí khoảng 137.658 triệu đồng; 11.441 lượt cán bộ hợp tác xã được hỗ trợ đào tạo từ sơ cấp đến đại học, sau đại học với kinh phí khoảng 11.499 triệu đồng. Năm 2010 bồi dưỡng được khoảng 27.854 lượt cán bộ, tăng hơn 5.000 lượt so với năm 2009; đào tạo 4.515 lượt cán bộ, tăng gần 2.000 lượt cán bộ so với năm 2009.

Theo kết quả điều tra hợp tác xã năm 2008, trong giai đoạn 2005 - 2007 số lượt người được tham gia đào tạo và bồi dưỡng, bao gồm cả cán bộ quản lý hợp tác xã và cán bộ kỹ thuật đều tăng liên tục, năm sau cao hơn năm trước. Trong lĩnh vực đào tạo, số lượt cán bộ kỹ thuật được tham gia đào tạo gấp 1,2 lần số lượt cán bộ quản lý; trong việc bồi dưỡng, số lượt người làm kỹ thuật được bồi dưỡng gấp 2 lần số lượt cán bộ quản lý. Hàng năm số lượt người của các hợp tác xã được tham gia bồi dưỡng nâng cao kiến thức gấp hơn bốn lần số lượt người của các hợp tác xã được đào tạo. Số hợp tác xã nhận được hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật cũng tăng liên tục trong giai đoạn 2005 - 2007, từ 7.949 hợp tác xã năm 2005 lên 9.381 hợp tác xã năm 2007, tăng 1.432 hợp tác xã hay tương đương với 18% so với năm 2005.

Theo báo cáo tình hình thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2003, hầu hết các địa phương tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cho hợp tác xã theo Nghị định 88/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ khuyến khích phát triển hợp tác xã; mở một số lớp đào tạo cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế tập thể ở các cấp huyện và tỉnh, giúp nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý và các kiến thức cần thiết cho hợp tác xã; chủ động kết hợp nguồn kinh phí hỗ trợ của trung ương với nguồn kinh phí của địa phương để tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ hợp tác xã và xã viên hợp tác xã; một số tỉnh giao liên minh hợp tác xã tỉnh phối hợp với các sở, ngành liên quan thực hiện công tác này. Một số địa phương đã thực hiện chính sách tăng cường cán bộ chuyên môn cho hợp tác xã, như tỉnh An Giang, năm 2001 có chủ trương thí điểm miễn học phí cho sinh viên Đại học An Giang theo các ngành kinh tế, kỹ thuật nông nghiệp với điều kiện ra trường làm việc cho hợp tác xã tối thiểu 5 năm. Đến tháng 2/2003 có 232 sinh viên trường Đại học An Giang làm đơn tình nguyện sau khi ra trường về công tác tại hợp tác xã tối thiểu là 5 năm.

Ngoài nguồn ngân sách hỗ trợ của Nhà nước, một số địa phương như thành phố Hồ Chí Minh tranh thủ nguồn tài trợ quốc tế trong việc tổ chức các khoá đào tạo, bồi dưỡng. Đến cuối năm 2008, Liên minh hợp tác xã thành phố Hồ Chí Minh đã tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về Luật hợp tác xã và về quản lý cho 6.894 cán bộ, nhân viên hợp tác xã; hỗ trợ trực tiếp cho 02 cán bộ có trình độ đại học làm việc cho 01 hợp tác xã nông nghiệp (ngoài hưởng lương từ hợp tác xã còn được hỗ trợ 800.000 đồng/tháng/người).

Các tỉnh khu vực Bắc Trung Bộ, trước khi Nghị định 88/2005/NĐ-CP được ban hành, đã dành phần ngân sách đáng kể hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý hợp tác xã theo Đề án đào tạo 3 chức danh cho cán bộ quản lý hợp tác xã. Ngoài ra, các chi cục hợp tác xã - phát triển nông thôn, liên minh hợp tác xã các tỉnh còn tranh thủ các nguồn lực khác phục vụ cho mục tiêu này. Ví dụ, Nghệ An đầu tư cho chính sách đào tạo từ 5 - 8 tỷ đồng/năm, kinh phí huy động từ nguồn khác 500 - 700 triệu đồng/năm, riêng năm 2008 đầu tư bằng ngân sách của tỉnh và nguồn xã hội hóa lên tới 35 tỷ đồng.



b) Chính sách đất đai

Theo kết quả điều tra hợp tác xã năm 2008, hợp tác xã cả nước quản lý và sử dụng 697.362.165 m2 đất, bình quân mỗi hợp tác xã quản lý và sử dụng 48.094 m2. Tuy nhiên, số diện tích đất của hợp tác xã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 94.124.214 m2 (khoảng 13,5%), chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với diện tích đất do hợp tác xã quản lý và sử dụng. Trong đó, vùng có số diện tích đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hợp tác xã lớn nhất là vùng Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 21,46%, vùng có số diện tích đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hợp tác xã ít nhất là vùng Tây Bắc, chiếm 3,45% cả nước. Trung bình một hợp tác xã có diện tích đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 6.491,33 m2. Hợp tác xã ở các vùng Tây Nguyên có diện tích được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bình quân một hợp tác xã lớn nhất, trung bình 33.000 m2, trong khi đó, hợp tác xã thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng có diện tích được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bình quân một hợp tác xã thấp nhất, trung bình chỉ 2.500 m2.

Xét theo lĩnh vực, hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực lâm nghiệp có diện tích đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lớn nhất, sau đó đến hợp tác xã thuộc lĩnh vực thủy sản và hợp tác xã thuộc lĩnh vực nông nghiệp. Hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tín dụng có diện tích đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bình quân thấp nhất.

Một số ít địa phương đã tạo điều kiện về mặt bằng giúp hợp tác xã xây dựng văn phòng, nhà xưởng và các cơ sở hạ tầng khác, thực hiện chính sách miễn giảm tiền thuê đất có thời hạn. Uỷ ban nhân dân tỉnh một số địa phương đã chỉ đạo Sở Tài nguyên môi trường phối hợp với Liên minh hợp tác xã tỉnh rà soát, thống kê, hướng dẫn các thủ tục, đồng thời cấp quyền sử dụng đất cho các hợp tác xã.



  1. Chính sách tín dụng

Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ước năm 2011 có 405 hợp tác xã được tiếp cận, hỗ trợ về tín dụng với số tiền được vay là 131.947 triệu đồng, tăng khá so với năm 2010; giai đoạn 2006 - 2010 có khoảng 1.679 hợp tác xã được vay vốn tại các tổ chức tín dụng với tổng số vốn vay khoảng 312.664 triệu đồng. Từ năm 2009, số tiền các hợp tác xã được vay từ các tổ chức tín dụng tăng lên khá nhiều so với các năm trước đó; tuy nhiên, số tiền vay và số hợp tác xã được vay vốn từ ngân hàng còn rất ít, chưa đáp ứng được nhu cầu của các hợp tác xã.

Theo kết quả điều tra hợp tác xã năm 2008, tổng dư nợ tín dụng thương mại của các tổ chức tín dụng đối với kinh tế tập thể, mà chủ yếu là hợp tác xã đến 2008 chiếm 7,6% tổng dư nợ nền kinh tế; khoảng 18% số hợp tác xã nông nghiệp có nhu cầu đã được vay vốn ngân hàng; tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân hàng năm đối với kinh tế tập thể đạt gần 40%, cao hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng chung của nền kinh tế; tỷ trọng dư nợ cho vay kinh tế tập thể so với tổng dư nợ đã tăng từ 3,9% năm 2002, lên 6,99% năm 2004, 8,65% vào năm 2006 và đạt 7,6% vào thời điểm 30/6/2008. Tỷ lệ nợ xấu đã giảm dần từ 5,2% năm 2002 xuống 4,2% năm 2004 và 3,9% vào cuối năm 2007.

Về tín dụng đầu tư phát triển, trong giai đoạn 2005 - 2007 tổng số vốn các hợp tác xã trong cả nước được vay với lãi suất ưu đãi khoảng 1.000 tỷ đồng, chủ yếu thuộc các lĩnh vực: trồng rừng, trồng cây ăn quả, chăn nuôi, chế biến nông lâm thủy sản, đóng mới, cải hoán tàu thuyền đánh bắt hải sản, các dự án thuộc các làng nghề… Một số dự án của các tổ chức kinh tế tập thể sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước đã bước đầu phát huy hiệu quả, tạo công ăn việc làm cho hàng vạn lao động, tăng thu nhập cho người dân, góp phần làm thay đổi bộ mặt nông nghiệp, nông thôn; giúp các hợp tác xã, tổ hợp tác thuộc đối tượng được vay vốn tại các đô thị đầu tư vào các ngành nghề.

Một số địa phương đã, đang tiến hành thành lập quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác xã trong việc phát triển sản xuất, kinh doanh của mình. Theo báo cáo của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, cho đến nay, đã có 24 tỉnh, thành phố thành lập được Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã với tổng vốn hoạt động khoảng 600 tỷ đồng.



d) Chính sách thuế

Theo báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế tập thể 5 năm giai đoạn 2006 - 2010 của 50/63 tỉnh thành phố, năm 2010 có khoảng 170 hợp tác xã được ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần thu nhập từ các hoạt động dịch vụ phục vụ xã viên với tổng số tiền lên tới 2.499 triệu đồng; số hợp tác xã được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp là 263 hợp tác xã với số tiền khoảng 2.867 triệu đồng. Cục thuế một số địa phương đã thực hiện miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các hợp tác xã có đủ điều kiện. Thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai thực hiện chính sách miễn giảm thuế thu nhập, thuế môn bài theo quy định tại Nghị định 88/2005/NĐ-CP, Nghị định 164/2003/NĐ-CP và Thông tư 128/2003/TT-BTC, Thông tư 88/2004/TT-BTC; một số hợp tác xã nông nghiệp đã được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần thu nhập từ hoạt động dịch vụ trực tiếp phục vụ đời sống xã viên.



đ) Chính sách hỗ trợ ứng dụng đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, khuyến nông, khuyến ngư và khuyến công

Theo báo cáo của Bộ Công thương, từ năm 2006 đến năm 2011 có gần 200 dự án của các tỉnh đăng ký cho các hợp tác xã thụ hưởng trực tiếp hoặc tham gia phối hợp triển khai chương trình, bao gồm các dự án về đào tạo nghề; xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật, áp dụng chuyển giao công nghệ mới; hỗ trợ đầu tư, mở rộng cơ sở vật chất và nâng cao năng lực sản xuất,v.v.

Năm 2008, thực hiện chính sách khuyến công đối với kinh tế tập thể, Bộ Công thương đã phối hợp với các đơn vị liên quan triển khai chương trình cho các hợp tác xã được vay vốn với tổng kinh phí là 18.422 triệu đồng, tập trung chủ yếu là áp dụng chuyển giao công nghệ mới, mở rộng năng lực sản xuất cho các hợp tác xã. Ngoài ra, chương trình triển khai cho nhiều hợp tác xã được tham gia các lớp đào tạo nghề thủ công truyền thống, như gốm sứ, mây tre đan, sơn mài, trạm bạc, chiếu cói, dệt thổ cẩm…; tham gia xây dựng các mô hình trình diễn kỹ thuật, áp dụng chuyển giao công nghệ mới, mở rộng năng lực sản xuất, kinh doanh.

Theo kết quả điều tra hợp tác xã năm 2008, giai đoạn 2005 - 2007, số hợp tác xã trong cả nước được Quỹ khuyến nông, khuyến ngư hỗ trợ vay vốn với số kinh phí là 12.412 triệu đồng; trong đó, năm 2005 là 3.299 triệu đồng chiếm 26,6%, năm 2006 là 4.338 triệu đồng chiếm 34,9% và năm 2007 là 4.775 triệu đồng chiếm 38,5% vốn vay với lãi suất ưu đãi.

Hàng năm, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo các ngành chức năng trực thuộc tỉnh (Sở Khoa học công nghệ, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,…) chuyển giao cho các hợp tác xã nông nghiệp và các tổ chức kinh tế tập thể về công nghệ sinh học, giống mới, công nghệ chế biến và bảo quản sau thu hoạch, hỗ trợ chuyển đổi cây trồng, vật nuôi; dịch vụ khuyến công, khuyến thương, khuyến ngư,… tác động tích cực đến việc đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh của hợp tác xã.

Đồng Nai đã tích cực tổ chức tuyên truyền tập huấn, hội thảo khuyến công, khuyến nông; xây dựng thương hiệu rau an toàn; chuyển giao khoa học - kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản, cây, con giống; hỗ trợ đề án sản xuất thử nấm mèo tại huyện Thống Nhất; đề án đầu tư lò sấy nông sản, hệ thống tưới phun và lưới chống côn trùng…; thực hiện đề án phát triển làng nghề mây tre lá, dệt thổ cẩm, gốm sứ, gỗ mỹ nghệ… Ninh Thuận xây dựng thương hiệu nho an toàn, bồi dưỡng kỹ năng tiếp thị, tạo điều kiện cho các hợp tác xã nâng cao năng lực và hội nhập thị trường. Thành phố Hồ Chí Minh cấp kinh phí nghiên cứu một số đề tài khoa học có liên quan đến hoạt động của hợp tác xã, chỉ đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Hội Nông dân thành phố phối hợp với Liên minh hợp tác xã mở các lớp khuyến nông, khuyến ngư cho các dự án nuôi bò sữa, nuôi tôm, trồng rau sạch... Hợp tác xã rau an toàn Long Hoà, tỉnh Tiền Giang đã công bố 31 quy trình sản xuất rau an toàn, được đầu tư và chuyển giao kỹ thuật sản xuất trong nhà lưới, xây dựng 3 hệ thống tưới phun nước cho rau với diện tích 3.200m2; tổ chức điểm trình diễn rau an toàn với tổng diện tích 20ha; hiện đang chuẩn bị xây dựng nhà sơ chế rau an toàn cho hợp tác xã; tổ chức các lớp tập huấn cho bà con nông dân.



e) Chính sách hỗ trợ tiếp thị, mở rộng thị trường

Theo báo cáo của Bộ Công thương, hàng năm các hợp tác xã đã được hưởng lợi từ Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia thông qua đầu mối triển khai là Liên minh hợp tác xã Việt Nam. Trong giai đoạn 2006 - 2009, Liên minh hợp tác xã Việt Nam đã chủ trì thực hiện 26 chương trình, ngân sách nhà nước hỗ trợ khoảng 35,7 tỷ đồng với nhiều nội dung thiết thực như in sách, tư liệu giới thiệu 500 hợp tác xã có tiềm năng xuất khẩu, tập huấn về công tác xuất khẩu, tổ chức cho nhiều doanh nghiệp, trong đó có hợp tác xã đi nghiên cứu thị trường và tham dự hội chợ tại nhiều nước. Năm 2011 có khoảng 141 hợp tác xã được hỗ trợ tham gia hoạt động xúc tiến thương mại với tổng số tiền hỗ trợ khoảng 1.103 triệu đồng.

Theo kết quả điều tra hợp tác xã năm 2008, giai đoạn 2005 - 2007, cả nước có 10.338 lượt người của các hợp tác xã tham gia các hoạt động của Chương trình xúc tiến thương mại. Số lượt người tham gia xúc tiến thương mại của hàng năm đều tăng lên, cụ thể năm 2006 tăng 135% so với năm 2005 và năm 2007 tăng 108% so với năm 2006. Điều đó, cho thấy sức cuốn hút, sự tác động rất lớn của chính sách xúc tiến thương mại đối với sự phát triển của các hợp tác xã, đặc biệt là các hợp tác xã có hoạt động xuất khẩu.

Trong số các hoạt động của xúc tiến thương mại giai đoạn 2005 - 2007, hoạt động có số lượt người tham gia nhiều nhất là hoạt động thông tin thương mại và tuyên truyền xuất khẩu với 3.981 số lượt người tham gia và hoạt động đào tạo nâng cao năng lực và kỹ năng kinh doanh xuất khẩu với 2.460 số lượt người tham dự. Những hoạt động có số lượt người tham gia ít nhất là hoạt động quảng bá thương hiệu sản phẩm với 1.158 số lượt người tham gia và hoạt động tư vấn xuất khẩu với 426 số lượt người tham gia. Như vậy, công tác thông tin thương mại và tuyên truyền xuất khẩu và đào tạo nâng cao năng lực và kỹ năng kinh doanh xuất khẩu cho cán bộ hợp tác xã là rất quan trọng cần được tăng cường trong những năm tới.

Ở các địa phương, một số Trung tâm Xúc tiến thương mại và đầu tư tỉnh đã tạo điều kiện để hợp tác xã quảng bá thương hiệu, tìm đối tác thương mại, nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ, quản lý, và tiêu thụ sản phẩm; tổ chức cho các hợp tác xã thăm quan học tập tìm kiếm thị trường đầu vào, đầu ra cho các sản phẩm, tạo điều kiện cho các hợp tác xã tham gia các hội chợ thương mại trong tỉnh, khu vực và toàn quốc.

Đồng Nai thường xuyên tổ chức, hướng dẫn cho hợp tác xã tham gia hội chợ triển lãm trong và ngoài nước từ Quỹ xúc tiến thương mại của tỉnh và của Trung ương. Thành phố Hồ Chí minh hỗ trợ tổ chức hội chợ, triển lãm “Sản phẩm làng nghề truyền thống và quà tặng Việt Nam” năm 2005, năm 2006 để quảng bá sản phẩm thủ công mỹ nghệ, làng nghề của hợp tác xã; cử cán bộ Liên minh hợp tác xã thành phố đi xúc tiến thương mại tại một số nước.



f) Chính sách hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, đời sống của cộng đồng xã viên và tham gia các chương trình kinh tế - xã hội

Giai đoạn 2005 - 2007, tổng số vốn hợp tác xã trong cả nước được hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng là 5.603 triệu đồng. Trong đó, năm 2005 là 1.809 triệu đồng; năm 2006 là 1.859 triệu đồng và năm 2007 là 1.935 triệu đồng. Hình thức hỗ trợ nhiều nhất là hỗ trợ bằng tiền mặt với 3.398 triệu đồng và hình thức hỗ trợ ít nhất là hỗ trợ bằng ngày công lao động với 387 triệu đồng. Qua các năm, mức hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng đều tăng lên, cụ thể năm 2006 tăng 103% so với năm 2005 và năm 2007 tăng 104% so với năm 2006.

Một số địa phương tập trung bố trí vốn từ ngân sách đầu tư hạ tầng phục vụ nông nghiệp, nông thôn, theo đó hợp tác xã cũng được hưởng lợi khá lớn như: giao thông, trường học, trạm y tế, nước sạch nông thôn, vệ sinh môi trường, thuỷ lợi kênh mương nội đồng, …

2.2. Những hạn chế, tồn tại chủ yếu của chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã

Bên cạnh các kết quả đã đạt được, việc triển khai thực hiện chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển hợp tác xã còn một số hạn chế, tồn tại chủ yếu cả về nội dung chính sách và tổ chức thực hiện chính sách.



a) Hạn chế, tồn tại về tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã

Một số chính sách hỗ trợ được ban hành chậm, chưa kịp thời, chưa đồng bộ và còn chồng chéo, chưa nhất quán; một số chính sách chưa khả thi; tác động chưa đạt hiệu quả cao; được quy định tại nhiều văn bản do nhiều cơ quan ban hành tại nhiều thời điểm khác nhau; thực hiện thiếu kiên quyết, chưa nghiêm, nhất là ở cấp địa phương; thiếu kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thi hành Luật Hợp tác xã và các chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã; năng lực của nhiều hợp tác xã còn yếu trong tiếp cận và thực hiện chính sách hỗ trợ.



i) Việc thể chế hoá các chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã quy định tại Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá IX) còn chậm và chưa đồng bộ về thời gian, một số chính sách chưa được hướng dẫn

Một số chính sách khuyến khích, hỗ trợ hợp tác xã đề ra tại Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX) vẫn chưa được thể chế hoá, như:

- Chính sách thu hút cán bộ quản lý và khoa học kỹ thuật về công tác tại hợp tác xã. Chủ trương thu hút cán bộ quản lý và khoa học kỹ thuật về công tác tại hợp tác xã là rất khó thực hiện do việc quyết định cán bộ quản lý và khoa học về công tác tại hợp tác xã không chỉ phụ thuộc vào chính sách của Nhà nước mà còn phải do hợp tác xã với tư cách là một tổ chức tự chủ quyết định, nguyện vọng của cán bộ, và sự tín nhiệm, nhất trí của đại hội xã viên;

- Hướng dẫn trợ giúp hợp tác xã ứng dụng khoa học công nghệ; hỗ trợ về khoa học - công nghệ quy định tại khoản 1 Điều 10 Nghị định 88/2005/NĐ-CP hỗ trợ nắm bắt thông tin, mở rộng thị trường, xúc tiến thương mại;

- Hướng dẫn hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, điện, nước, công trình thủy lợi; chưa có chính sách hỗ trợ hợp tác xã xây dựng cơ sở bảo quản, chế biến nông sản;

- Hướng dẫn cụ thể về: giao đất, cho thuê đất đối với hợp tác xã; khung pháp lý chung cho việc thành lập, tổ chức hoạt động quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã ở địa phương.

Sau khi Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa IX) được thông qua ngày 18/3/2002, đến ngày 11/7/2005 Nghị định số 88/2005/NĐ-CP của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã mới được ban hành. Một số chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã liên quan đồng thời đến hướng dẫn của nhiều bộ, ngành có liên quan, nhưng các hướng dẫn của các bộ, ngành thường được ban hành tại các thời điểm khác nhau, hoặc quy định khác nhau về cùng một nội dung. Việc triển khai thực hiện chính sách mà liên quan đến nhiều Bộ, ngành thường rất chậm.

ii) Một số chính sách và văn bản hướng dẫn có tính khả thi chưa cao

Một số địa phương không còn quỹ đất công để giao cho hợp tác xã. Quy định tất cả hợp tác xã với tối thiểu 7 xã viên đều được hưởng ưu đãi về chính sách đất đai là chưa khả thi trong khi quỹ đất là rất hạn chế.

Nhiều hợp tác xã chưa được hưởng trực tiếp chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại quy định tại Nghị định 88/2005/NĐ-CP do không đáp ứng tiêu chí quy định của Chương trình hỗ trợ xúc tiến thương mại quốc gia và nhiều địa phương không có đủ kinh phí để thực hiện hỗ trợ xúc tiến thương mại đối với hợp tác xã.

Việc hướng dẫn hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã và đời sống xã viên; xây dựng cụm công nghiệp, cụm làng nghề nông thôn để phát triển sản xuất và kinh doanh theo quy định tại Điều 11 Nghị định số 88/2005/NĐ-CP gặp khó khăn vì nhiều hợp tác xã về bản chất hoạt động như doanh nghiệp hoặc có số lượng xã viên rất thấp (7-10 xã viên), nhất là hợp tác xã phi nông nghiệp hiện chiếm gần một nửa tổng số hợp tác xã, dàn trải cho mọi ngành, nghề, đối tượng. Trong khi đó, nguồn lực của Nhà nước là rất hạn chế.

Việc thực hiện chính sách ưu tiên hợp tác xã được tham gia các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng trên địa bàn quy định tại khoản 2 Điều 11 Nghị định 88/2005/NĐ-CP là không khả thi do chủ đầu tư thực hiện các công trình phải tuân thủ quy định của Luật Ngân sách, Luật Đấu thầu và các văn bản hướng dẫn. Trong khi đó, năng lực kinh doanh và năng lực cạnh tranh của hợp tác xã nhìn chung yếu hơn so với doanh nghiệp.

Hoạt động tín dụng ngân hàng đối với hợp tác xã tuy đã được mở rộng, nhưng việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng đối với nhiều hợp tác xã còn hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là hợp tác xã chưa đủ điều kiện vay vốn ngân hàng, nhất là vay không phải bảo đảm bằng tài sản, chưa có dự án vay vốn khả thi, hoạt động kém hiệu quả, khả năng tài chính yếu. Mặt khác, các ngân hàng vẫn còn mặc cảm với tổ chức hợp tác xã khi xem xét cho vay.

Việc xây dựng Thông tư hướng dẫn điều 9 về xúc tiến thương mại trong Nghị định 88/2005/NĐ-CP về chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển hợp tác xã chưa triển khai được do nội dung của điều 9 liên quan đến Thông tư 86/2002/TT-BTC ngày 27/09/2002 của Bộ Tài chính và Quyết định 0104/2003/QĐ-BTM ngày 24/1/2003 của Bộ Thương mại. Quyết định 279/2005/QĐ-TTg ngày 03/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Qui chế xây dựng và thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia giai đoạn 2006-2010 (ra đời sau Nghị định 88/2005/NĐ-CP) đã bãi bỏ các qui định không còn phù hợp của Thông tư 86/2002/TT-BTC và Quyết định 0104/2003/TT-BTM nêu ở trên.

Phần lớn hợp tác xã còn gặp khó khăn, trong đó có việc trả thù lao cho cán bộ hợp tác xã nên khó có khả năng đáp ứng yêu cầu của luật bảo hiểm xã hội về đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc cho xã viên và người lao động.



iii) Một số nội dung chính sách, văn bản hướng dẫn thi hành chính sách còn chưa thống nhất hoặc còn chồng chéo

Về chính sách cán bộ và đào tạo nguồn nhân lực, quy định còn thiếu nhất quán về cơ quan có thẩm quyền tổng hợp, kế hoạch và bố trí nguồn kinh phí thuộc Ngân sách Nhà nước hàng năm bồi dưỡng, đào tạo các đối tượng hợp tác xã trong cả nước. Nghị định số 88/2005/NĐ-CP quy định: “Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp nhu cầu, kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo các đối tượng hợp tác xã trong cả nước và bố trí nguồn kinh phí thuộc ngân sách nhà nước hàng năm cho các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để thực hiện kế hoạch”. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 40 Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách nhà nước, Bộ Tài chính có thẩm quyền trình Thủ tướng nhiệm vụ kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo các đối tượng hợp tác xã trong cả nước và bố trí nguồn kinh phí thuộc ngân sách nhà nước hàng năm cho các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Khoản 1 Điều 8 Nghị định 88/2005/NĐ-CP quy định hợp tác xã có dự án đầu tư mới, đầu tư mở rộng năng lực sản xuất, kinh doanh thì được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước từ Quỹ hỗ trợ phát triển theo quy định tại Nghị định số 106/2004/NĐ-CP ngày 01/4/2004 của Chính phủ về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và Nghị định số 20/2005/NĐ-CP ngày 28/2/2005 của Chính phủ về bổ sung Danh mục dự án vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước theo Nghị định 106/2004/NĐ-CP.

Tuy nhiên, theo Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 (thay thế Nghị định 106/2004/NĐ-CP và Nghị định 20/2005/NĐ-CP) thì các dự án được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển chủ yếu là các dự án đòi hỏi vốn lớn, thời gian thu hồi vốn dài. Trong khi đó, hợp tác xã có năng lực tài chính, công nghệ và năng lực quản lý rất hạn chế, khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.

Một số chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã còn chồng chéo, như trên lĩnh vực hỗ trợ đầu tư có nhiều nội dung tương tự nhau: tín dụng đầu tư ưu đãi, tín dụng thương mại, hỗ trợ đầu tư và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, hỗ trợ xúc tiến thương mại,…

iv) Một số chính sách, quy định hướng dẫn thi hành chính sách chưa phù hợp với thực tế hoặc không còn phù hợp với cam kết quốc tế của Việt Nam

Một số quy định tại Thông tư số 66/2006/TT-BTC, như định mức hỗ trợ (thù lao giảng viên, ăn, nghỉ…) đã thấp hơn nhiều so với thực tế, trong khi thu nhập, lương của cán bộ hợp tác xã và của hợp tác xã rất thấp, không thể hỗ trợ kinh phí cho cán bộ được cử đi học; hoặc còn thiếu một số quy định để tạo sự thống nhất trong vận dụng của các địa phương.

Đối với trường hợp giải thể hợp tác xã, người lao động ở hợp tác xã bị giải thể sẽ gặp khó khăn trong việc chuyển sang làm việc tại tổ chức kinh tế khác. Do vậy, cần có chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp để người mất việc khi hợp tác xã bị giải thể tiếp tục tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện và hưởng bảo hiểm thất nghiệp phù hợp quy định hiện hành về việc người mất việc được trợ cấp thôi việc, được trả và đóng đủ các khoản mà hợp tác xã còn nợ về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bồi thường tai nạn lao động và các khoản nợ khác (nếu có).

Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 88/2005/NĐ-CP quy định “đối với hợp tác xã có dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu thuộc diện ưu đãi đầu tư thì được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định tại Nghị định số 51/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước”. Tuy nhiên, thực hiện cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, các ưu đãi đầu tư cho sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu đã bị bãi bỏ từ ngày 11/01/2007.

Việc quy định hợp tác xã phải thực hiện đúng chế độ kế toán hóa đơn, chứng từ và đăng ký nộp thuế theo kê khai để được hưởng các chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp tại Nghị định 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp là chưa phù hợp với thực tiễn của hợp tác xã, nên nhiều hợp tác xã không được hưởng chính sách ưu đãi này của Nhà nước.

Việc quy định hợp tác xã đầu tư vào lĩnh vực địa bàn ưu đãi đầu tư quy định tại Nghị định số 108/2006/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Đầu tư sẽ được hưởng các chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Nghị định số 24/2007/NĐ-CP; được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu theo quy định tại Nghị định số 149/2005/NĐ-CP; được miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và tiền thuê mặt nước theo quy định tại Nghị định số 142/2005/NĐ-CP; được ưu đãi về thuế giá trị gia tăng theo quy định tại Nghị định số 158/2004/NĐ-CP là chưa phù hợp với năng lực tiếp cận các văn bản quy phạm pháp luật của hợp tác xã.

Thông tư số 06/2004/TT-NHNN và Thông tư số 04/2007/TT-NHNN hướng dẫn về tín dụng nội bộ hợp tác xã quy định mức cho vay tối đa không quá 50% vốn điều lệ bằng tiền và tổng huy động của xã viên hợp tác xã không quá 30% vốn điều lệ bằng tiền đã hạn chế việc huy động các nguồn lực sẵn có ở địa phương phục vụ phát triển kinh doanh của các thành viên hợp tác xã. Tuy nhiên, cũng có ý kiến ngược lại là cần quy định về mức giới hạn cho vay và huy động đối với hoạt động tín dụng nội bộ hợp tác xã nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động của hợp tác xã khi trình độ cán bộ và cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động tín dụng nội bộ nhìn chung còn hạn chế, còn tiềm ẩn nhiều rủi ro.

v) Một số địa phương chưa tích cực triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã, mặc dù chính sách đã khả thi và đã được hướng dẫn thực hiện

Phần lớn địa phương chưa thành lập được quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã do nguồn ngân sách hạn hẹp.

Việc thực hiện cơ chế bảo đảm tiền vay còn nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận vốn vay tổ chức tín dụng của hợp tác xã. Nguyên nhân cho tình hình đó là: việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn chậm, nên thủ tục thế chấp, cầm cố, bảo lãnh liên quan đến việc đăng ký, công chứng các hợp đồng giao dịch bảo đảm chưa thực hiện được; thủ tục công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm còn phiền hà như lệ phí đăng ký cao, chưa phù hợp điều kiện của hợp tác xã, mẫu hợp đồng đăng ký và công chứng không thống nhất.

vi) Quản lý nhà nước về chính sách và ngân sách nhà nước hỗ trợ phát triển hợp tác xã còn rất phân tán

Theo Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX), Luật Hợp tác xã năm 2003, hợp tác xã được hưởng nhiều chính sách hỗ trợ. Nhưng các chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã, nhất là nguồn ngân sách nhà nước hỗ trợ cả trực tiếp đối với hợp tác xã và gián tiếp qua Liên minh hợp tác xã các cấp, chưa được quản lý một cách thống nhất ngay trong từng cấp và chung của cả nước. Hiện nay, chưa có số liệu tổng hợp đầy đủ và chính xác các nguồn vốn hỗ trợ phát triển hợp tác xã của từng địa phương và của cả nước. Vì vậy, khó đánh giá được đầy đủ tác động của các chính sách cũng như nguồn vốn hỗ trợ đối với phát triển hợp tác xã.



vii) Một số tồn tại của hợp tác xã chuyển đổi chưa được xử lý triệt để; tình hình tài chính các hợp tác xã chuyển đổi nói chung chưa lành mạnh

Vướng mắc về vốn, tài sản chung và nợ lẫn nhau giữa xã viên và hợp tác xã, giữa hợp tác xã và các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh khác của các hợp tác xã chuyển đổi do hợp tác xã chịu trách nhiệm xử lý, vẫn chưa được giải quyết triệt để.



viii) Chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với hợp tác xã được quy định tại nhiều văn bản khác nhau, khó theo dõi và tổng hợp, trong khi trình độ quản lý, trình độ công nghệ, tiếp cận thông tin, hiểu biết pháp luật của hợp tác xã còn hạn chế

Việc quy định hợp tác xã đầu tư vào lĩnh vực địa bàn ưu đãi đầu tư quy định tại Nghị định số 108/2006/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Đầu tư sẽ được hưởng các chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Nghị định 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp; được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu theo quy định tại Nghị định số 149/2005/NĐ-CP; được miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và tiền thuê mặt nước theo quy định tại Nghị định số 142/2005/NĐ-CP; được ưu đãi về thuế giá trị gia tăng theo quy định tại Nghị định số 158/2004/NĐ-CP là chưa phù hợp với thực tế năng lực tiếp cận các văn bản quy phạm pháp luật của hợp tác xã.

Nhiều hợp tác xã chưa nắm hết các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã trong lĩnh vực hoạt động của mình.

b) Tồn tại cụ thể về nội dung của từng chính sách

i) Chính sách cán bộ và đào tạo nguồn nhân lực:

Nhìn chung, số lượng cán bộ quản lý hợp tác xã tham dự các khoá bồi dưỡng kế toán trưởng và trưởng ban kiểm soát còn ít; trình độ học viên thường thấp và không đồng đều. Có địa phương, như: Cao Bằng, Cà Mau, Hà Nam, Trà Vinh và Khánh Hoà, chưa bố trí được đào tạo, bồi dưỡng cho một số đối tượng cán bộ hợp tác xã hoặc đã bố trí nhưng kinh phí ít, chất lượng bồi dưỡng chưa cao.

Việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tuy đã được quan tâm hơn, nhưng chất lượng đào tạo, bồi dưỡng còn hạn chế, nhất là ở các trường, lớp ở địa phương; nội dung đào tạo, bồi dưỡng tuy góp phần nâng cao nhận thức về hợp tác xã, nhưng chưa nâng cao được kỹ năng quản lý, điều hành cho cán bộ chủ chốt hợp tác xã.

Nghị định 88/2005/NĐ-CP về chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát riển hợp tác xã mới quy định hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý hợp tác xã, không quy định hỗ trợ cho cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ, người lao động của hợp tác xã trong khi nhu cầu về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho người lao động trong các hợp tác xã là rất lớn; các quy định hỗ trợ hiện hành mới chỉ đáp ứng từ 10 - 15% nhu cầu.

Một số địa phương mới chỉ quan tâm đến đối tượng là cán bộ, xã viên hợp tác xã, chưa bồi dưỡng cho cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế tập thể. Hầu hết cán bộ ở các sở, ngành, cấp huyện chỉ kiêm nhiệm về kinh tế tập thể, không được bồi dưỡng về nghiệp vụ, kiến thức về kinh tế tập thể.

ii) Chính sách đất đai:

Mặc dù đã có các quy định về ưu đãi đất đai đối với hợp tác xã (Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai, Nghị định 142/2005/NĐ-CP ngày 14/11/2005 của Chính phủ về tiền thuê đất, thuê mặt nước, Nghị định 88/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã,…), chính sách hỗ trợ đất đai cho các hợp tác xã khó khả thi. Nhiều hợp tác xã chưa có trụ sở làm việc, phần lớn sử dụng nhà của chủ nhiệm hợp tác xã để làm trụ sở, hoặc phải thuê để làm nơi giao dịch và hoạt động. Bộ Tài nguyên và Môi trường chưa có văn bản hướng dẫn trình tự, thủ tục cụ thể để thực hiện.

Quy định pháp luật về trình tự, thủ tục giao đất, cho thuê đất còn phiền hà, phức tạp; chưa có hướng dẫn cụ thể về giao đất, cho thuê đất đối với hợp tác xã. Có một số địa phương tuy có quỹ đất công nhưng chưa tạo điều kiện hỗ trợ hợp tác xã hoặc không tiến hành cấp đất cho hợp tác xã nông nghiệp. Một số địa phương không nắm được chính sách hỗ trợ đất đai của Nhà nước đối với hợp tác xã, nên chưa tạo điều kiện cho hợp tác xã được hưởng chính sách đất đai. Một số địa phương không có hoặc có quỹ đất hạn chế, nên nhiều hợp tác xã chưa được hưởng những ưu đãi chính sách đất đai.

Không ít hợp tác xã chỉ tồn tại trên danh nghĩa, không có hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoặc thực chất là doanh nghiệp; hoặc không đăng ký kinh doanh; hoặc có quy mô quá nhỏ không có nhu cầu về trụ sở riêng để làm việc thì rất khó được hưởng chính sách đất đai, hoặc đang quản lý đất đai, nhưng khó xử lý, thu hồi. Có hợp tác xã không tiến hành rà soát hiện trạng quỹ đất đang sử dụng để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 1 Điều 53 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai.

Mặt khác, phần đông cán bộ hợp tác xã yếu kém về chuyên môn, hoặc hợp tác xã chưa quan tâm đến quyền lợi này, nên không đề xuất kịp thời nhu cầu hỗ trợ đất đai; việc thu hồi đất của hợp tác xã phục vụ cho mục đích phát triển kinh tế của Nhà nước là rất khó khăn.

Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về đất đai liên quan đến phát triển kinh tế tập thể chưa được triển khai sâu rộng đến mọi đối tượng sử dụng đất, cũng như đối tượng cán bộ quản lý đất đai cấp cơ sở.



iii) Về chính sách thuế:

Nhìn chung, các địa phương chưa quan tâm đầy đủ đến việc áp dụng việc miễn giảm thuế cho các đối tượng hợp tác xã hoạt động ở vùng sâu, vùng khó khăn.

Khoản 2 Điều 6 Nghị định số 88/2005/NĐ-CP quy định hợp tác xã được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần thu nhập tạo ra từ các hoạt động dịch vụ trực tiếp phục vụ xã viên, nhưng đến nay chưa có hướng dẫn cụ thể phần thu nhập tạo ra từ hoạt động dịch vụ trực tiếp phục vụ xã viên. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của các hợp tác xã trong thời gian qua, vì các hoạt động dịch vụ hỗ trợ xã viên mới đem lại lợi ích cho xã viên và thể hiện đúng bản chất, nguyên tắc hoạt động của các hợp tác xã, khác biệt về bản chất của hợp tác xã so với doanh nghiệp (theo Luật Doanh nghiệp).

Các quy định tại khoản 1 Điều 15, khoản 1 Điều 16 Nghị định 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 quy định, doanh nghiệp (bao gồm hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp) thành lập mới tại các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn áp dụng thuế suất 10% trong 15 năm (sau khi hết hạn áp dụng mức thuế suất 10% thì chuyển sang áp dụng mức thuế suất 20%), được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 4 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế, giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong 9 năm tiếp theo, hợp tác xã thành lập mới tại địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế, giảm 50% số thuế phải nộp trong 4 năm tiếp theo. Tuy nhiên, các quy định về ưu đãi này chỉ áp dụng cho hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp thành lập mới tại địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn và tại địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn còn các hợp tác xã nông nghiệp mới thành lập ở các vùng khác thì chưa có quy định cụ thể.



iv) Về chính sách tài chính - tín dụng:

- Chính sách hỗ trợ đầu tư:

Một số lượng không nhỏ các dự án do các hợp tác xã, tổ hợp tác làm chủ đầu tư đạt hiệu quả kinh tế thấp, không trả được nợ vay cả về gốc và lãi theo hợp đồng tín dụng đã ký. Số dự án còn dư nợ và các dự án có nợ quá hạn tập trung chủ yếu trên lĩnh vực đóng tàu đánh bắt hải sản xa bờ (chiếm 83% tổng dư nợ và 97% tổng nợ quá hạn), nuôi trồng chế biến nông, lâm, thủy sản.

Các hợp tác xã, nhất là hợp tác xã xây dựng chưa được hưởng ưu đãi của chính sách hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, đời sống của cộng đồng dân cư và xã viên, tham gia vào các chương trình kinh tế - xã hội; không được thông báo về ngân sách dự án chương trình quốc gia thực hiện trên địa bàn; không được ưu tiên mời thầu những dự án mà đối tượng hưởng lợi là cộng đồng (trường học, bệnh xá, trạm, trại…). Các cơ quan có thẩm quyền chưa chú ý giao cho hợp tác xã quản lý hoặc đấu thầu quyền khai thác, duy tu, sửa chữa các công trình.

- Về tín dụng nội bộ:

Điều kiện, năng lực hoạt động và cơ sở vật chất của các hợp tác xã có hoạt động tín dụng nội bộ còn hạn chế và yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt động, như vốn tự có thấp, nghiệp vụ tín dụng của ban chủ nhiệm hợp tác xã còn hạn chế, công tác kế toán và bảo quản tiền bạc chưa đảm bảo an toàn và theo đúng quy định.

Chất lượng của hoạt động tín dụng nội bộ hợp tác xã còn thấp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro. Quan hệ vay vốn còn mang nặng yếu tố họ hàng, thiếu chặt chẽ về mặt pháp lý.

Một số cấp uỷ, chính quyền địa phương chưa quan tâm đúng mức đến hoạt động tín dụng nội bộ trong các hợp tác xã.



- Về tín dụng thương mại:

Nhìn chung, hợp tác xã rất khó vay vốn từ các tổ chức tín dụng do không có tài sản thế chấp; các ngân hàng chính sách và ngân hàng nông nghiệp mới chỉ cho một số ít hợp tác xã vay vốn với số lượng vốn vay hạn chế. Mặt khác, cơ sở vật chất, quy mô hoạt động và chất lượng nguồn nhân lực của hợp tác xã còn hạn chế đã ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận và hấp thụ nguồn vốn vay ngân hàng. Nợ xấu của hợp tác xã tuy đã giảm, nhưng vẫn ở mức cao và tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro tín dụng.



- Về quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã:

Nhiều địa phương chưa thành lập được quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, do nguồn ngân sách hạn hẹp. Mặt khác, hiện đang thiếu khung pháp lý chung cho việc thành lập, tổ chức hoạt động quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã ở địa phương.



v) Chính sách hỗ trợ tiếp thị và mở rộng thị trường:

Còn rất ít hợp tác xã được tham gia chương trình hỗ trợ xúc tiến thương mại quốc gia qua đầu mối Liên minh hợp tác xã Việt Nam và các đầu mối khác theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.

Do nguồn lực có hạn, nhiều hợp tác xã không đáp ứng được các tiêu chí để tham gia trực tiếp vào các Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia.

Các hoạt động xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường, giới thiệu sản phẩm của khu vực hợp tác xã công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp chưa được triển khai mạnh mẽ như doanh nghiệp.



vi) Chính sách khuyến nông:

Nhiều tỉnh, thành phố chưa quan tâm hỗ trợ hợp tác xã ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ vào sản xuất kinh doanh; các trạm khuyến nông của huyện chưa gắn kết chặt chẽ với các hợp tác xã để phổ biến, hỗ trợ hợp tác xã làm công tác khuyến nông cho xã viên.



Каталог: DuThao -> Lists -> DT TAILIEU COBAN -> Attachments
Attachments -> BỘ TƯ pháp số: 151 /bc-btp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Danh mỤc LuẬt/NghỊ đỊnh thư cỦa các quỐc gia/khu vỰc đưỢc tham khẢo trong quá trình xây dỰng DỰ thẢo luật tài nguyên, môi trưỜng biỂn và hẢi đẢo
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> BỘ giao thông vận tải cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 1- tình hình gia nhập công ước quốc tế về an toàn – vệ sinh lao động
Attachments -> BÁo cáo tổng hợp kinh nghiệm nưỚc ngoài a. Nhận xét chung
Attachments -> BỘ TƯ pháp số: 104/bc-btp cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam

tải về 1.21 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương