PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri



tải về 3.72 Mb.
trang18/48
Chuyển đổi dữ liệu09.07.2016
Kích3.72 Mb.
#1608
1   ...   14   15   16   17   18   19   20   21   ...   48

Trả lời (tại công văn số 1735/BKH-TH ngày 14/3/2008 của Bộ KHĐT):

Việc đầu tư dự án dân di cư tự do vùng rừng phòng hộ là cần thiết. Hiện nay, tỉnh đang lập dự án này, dự án thuộc đối tượng áp dụng của Quyết định 193/2006/QĐ-TTg ngày 24/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ. Theo quy định hiện hành, dự án này thuộc thẩm quyền quyết định đầu tư của tỉnh.

Hiện nay nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước hạn hẹp, tỉnh nên cân nhắc về quy mô và tổng mức đầu tư cho dự án.

Năm 2008, ngân sách Trung ương hỗ trợ cho ngân sách địa phương 3 tỷ đồng thực hiện Quyết định 193/2006/QĐ-TTg và Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Đề nghị tỉnh chủ động sử dụng nguồn vốn Trung ương hỗ trợ kết hợp ngân sách địa phương để lập, phê duyệt và triển khai thực hiện dự án theo quy định hiện hành.



35/ Cử tri thành phố Đà Nẵng kiến nghị: “Cử tri và nhân dân Đà Nẵng đề nghị Chính phủ ngoài việc kêu gọi các tổ chức nước ngoài hỗ trợ kinh phí, Chính phủ cần đầu tư thêm kinh phí cho Đà Nẵng để xử lý chất độc Dioxin do quân đội Mỹ đã sử dụng trước đây trong chiến tranh tại một số nơi như: sân bay Đà Nẵng và khu vực Hoà Cầm để đảm bảo việc tẩy rửa, làm sạch môi trường tại các khu vực như đã nêu trên hiện có rất nhiều người dân đang sinh sống.

Trả lời (tại công văn số 1736/BKH-TH ngày 14/3/2008 của Bộ KHĐT):

Hiện nay Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) đang tài trợ cho Dự án Tăng cường năng lực và hoàn thiện kế hoạch tổng thể cải tạo môi trường ở những vùng ô nhiễm nặng dioxin ở Việt Nam. Thời gian thực hiện dự án từ ngày 01/01/2007 đến ngày 30/6/2008. Tổng ngân sách dự án là 360.000 USD, trong đó UNDP tài trợ 350.000 USD, còn lại là đóng góp của Chính phủ Việt Nam. Hiện Dự án đang được triển khai tại Hà Nội, sân bay và vùng lân cận của các sân bay Biên Hòa (tỉnh Đồng Nai), sân bay Đà Nẵng (thành phố Đà Nẵng) và sân bay Phù Cát (tỉnh Bình Định).

Mục tiêu của dự án là tăng cường năng lực và hoàn thiện một kế hoạch tổng thể quốc gia khả thi về tài chính cho việc cải tạo môi trường các điểm ô nhiễm nặng dioxin. Dự án sẽ tạo tiền đề cho việc khắc phục hậu quả do chất độc hóa học sử dụng trong chiến tranh.

Trên cơ sở kết quả thực hiện dự án, Chính phủ sẽ xây dựng kế hoạch đầu tư và kêu gọi, thu hút các nguồn vốn trong và ngoài nước nhằm cải tạo môi trường, khắc phục hậu quả do dioxin tại các điểm có ô nhiễm trên địa bàn cả nước, trong đó có thành phố Đà Nẵng.



36/ Cử tri tỉnh Tuyên Quang kiến nghị: “Tuyên Quang là một tỉnh miền núi, trước đây là vùng căn cứ địa cách mạng, thủ đô kháng chiến, tuy nhiên vẫn còn là một tỉnh nghèo, có rất nhiều khó khăn, đề nghị Chính phủ hỗ trợ vốn để tỉnh đầu tư xây dựng các dự án sau:

- Dự án xây dựng cầu Tứ Quận, cầu Xuân Vân, cầu Kim Xuyên; đường Chiêm Hoá - Kim Bình (từ thị trấn Vĩnh Lộc, huyện Chiêm Hoá đi khu di tích lịch sử Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II).

- Các dự án: Xây dựng Quảng trường (có sức chứa khoảng 20.000 người, diện tích khu đất quy hoạch 10.00 ha); xây dựng Trung tâm Hội nghị tỉnh (quy mô 800 chỗ ngồi); Dự án quy hoạch xây dựng khu du lịch lịch sử - văn hoá và sinh thái Tân Trào; Dự án kè bảo vệ bờ sông Lô đoạn qua thị xã Tuyên Quang.

Trả lời (tại công văn số 1737/BKH-TH ngày 14/3/2008 của Bộ KHĐT):

1. Việc đầu tư thực hiện các dự án hạ tầng theo các đề nghị nêu trên nhằm phát triển kinh tế-xã hội, xoá đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang là cần thiết. Nhiều chương trình, dự án đã được Chính phủ tập trung đầu tư trên địa bàn tỉnh từ các nguồn vốn: Trái phiếu Chính phủ, bổ sung Hỗ trợ có mục tiêu cho địa phương, vốn thực hiện Nghị quyết 37/NQ-TW, vốn hạ tầng An toàn khu, Hạ tầng du lịch và vốn thuộc các Chương trình 134, 135, kiên cố hoá trường lớp học,... Kế hoạch năm 2008, ngân sách tỉnh đã được bố trí vốn đầu tư phát triển 429,4 tỷ đồng, tăng 18,5% so với năm 2007, trong đó các nguồn hỗ trợ từ nguồn ngân sách trung ương là 212,39 tỷ đồng, tăng 50% so với năm 2007.

2. Về các kiến nghị cụ thể như hỗ trợ vốn đầu tư xây dựng cầu Tứ Quận, cầu Xuân Vân, cầu Kim Xuyên; đường Chiêm Hoá - Kim Bình (từ thị trấn Vĩnh Lộc, huyện Chiêm Hoá đi khu di tích lịch sử Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II); xây dựng Quảng trường (có sức chứa khoảng 20.000 người, diện tích khu đất quy hoạch 10.00 ha); xây dựng Trung tâm Hội nghị tỉnh (quy mô 800 chỗ ngồi); quy hoạch xây dựng khu du lịch lịch sử - văn hoá và sinh thái Tân Trào; kè bảo vệ bờ sông Lô đoạn qua thị xã Tuyên Quang, trước mắt, đề nghị tỉnh sử dụng số vốn đã được giao theo kế hoạch hàng năm và chủ động huy động, lồng ghép các nguồn vốn khác do tỉnh quản lý để tiến hành triển khai thực hiện các công trình, dự án này và báo cáo các bộ, ngành có liên quan về tiến độ, tình hình triển khai thực hiện, nhu cầu về vốn. Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ phối hợp với Bộ Tài chính tổng hợp, đề xuất Thủ tướng Chính phủ xem xét, giải quyết hỗ trợ ngân sách tỉnh khi có các nguồn vốn bổ sung.

37/ Cử tri tỉnh Hà Tĩnh và thành phố Hải Phòng kiến nghị: “Đề nghị Chính phủ nghiên cứu, sửa đổi Quy chế đấu thầu, rút ngắn thời gian tiến hành các thủ tục đấu thầu để doanh nghiệp kịp triển khai dự án. Đề nghị quy định rõ vấn đề quyền sở hữu doanh nghiệp được nêu trong Luật về vấn đề sở hữu doanh nghiệp“.

Trả lời (tại công văn số 1742/BKH-TH, 1743/BKH-TH ngày 14/3/2008 của Bộ KHĐT):

1. Về thời gian trong đấu thầu: Quy định về các mốc thời gian trong đấu thầu đã được đưa vào Luật Đấu thầu và Nghị định số 111/2006/NĐ-CP, ngày 29/9/2006 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu, theo đó, thời gian trong đấu thầu như quy định của Luật đã rút ngắn rất đáng kể so với Quy chế Đấu thầu trước đây. So với quy định của nhà tài trợ, các mốc thời gian cũng ngắn hơn. Chẳng hạn, theo Luật Đấu thầu thời gian thông báo mời thầu và thời gian chuẩn bị hồ sơ dự thầu tối thiểu là 25 ngày trong khi Quy định của Ngân hàng thế giới là 45 ngày.

Các mốc thời gian quy định tại Luật Đấu thầu bao gồm hai nhóm: mốc thời gian tối thiểu và mốc thời gian tối đa. Đối với các mốc thời gian tối thiểu, Luật Đấu thầu chỉ quy định thời gian thông báo mời thầu (10 ngày) và thời gian chuẩn bị hồ sơ dự thầu (15 ngày đối với đấu thầu trong nước và 30 ngày đối với đấu thầu quốc tế). Điều này nhằm đảm bảo tính công khai minh bạch trong đấu thầu và chất lượng của hồ sơ dự thầu. Đối với mốc tối đa bao gồm thời gian sơ tuyển nhà thầu (nếu có), thời gian đánh giá hồ sơ dự thầu, thời gian thẩm định..., việc thực hiện nhanh hay chậm tùy thuộc vào mong muốn và năng lực của chủ đầu tư.

Tuy nhiên, để tạo điều kiện tối đa về thời gian trong đấu thầu, Dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng thay thế Nghị định 111/2006/NĐ-CP có đưa ra quy định trong quá trình thực hiện, các nội dung có thể được thực hiện đồng thời bao gồm: sơ tuyển nhà thầu và lập hồ sơ mời thầu; phê duyệt hồ sơ mời thầu và thông báo mời thầu; thông báo kết quả đấu thầu và thương thảo, hoàn thiện hợp đồng.

2. Về quyền sở hữu của doanh nghiệp: Việc lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, mua sắm hàng hóa và xây lắp đối với gói thầu thuộc các dự án sử dụng vốn nhà nước từ 30% trở lên cho mục tiêu đầu tư phát triển thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu. Nghị định 111/2006/NĐ-CP (Điều 2) quy định đối với dự án thực hiện theo hình thức liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh, cổ phần thì phần vốn nhà nước tham gia từ 30% trở lên được xác định căn cứ tương ứng phần vốn nhà nước tham gia vào vốn pháp định, vốn góp, vốn cổ phần. Với quy định này thì hầu hết các dự án có sự tham gia của các doanh nghiệp nhà nước sẽ phải thực hiện theo quy định của Luật Đấu thầu. Điều này sẽ kiểm soát được hiệu quả sử dụng vốn nhà nước.

Tuy nhiên, quy định như vậy sẽ gây khó khăn cho việc doanh nghiệp nhà nước sử dụng vốn vay (thương mại chẳng hạn) tham gia dự án. Để giải quyết vấn đề này, Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 111/2006/NĐ-CP đã đưa ra giải pháp xác định tổng phần vốn nhà nước tham gia từ 30% trở lên trong tổng mức đầu tư hoặc tổng vốn đầu tư của dự án được duyệt tính theo từng dự án cụ thể, không xác định theo chủ thể góp vốn khi thành lập doanh nghiệp.



38/ Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị: “Đề nghị Chính phủ sửa đổi, bổ sung Quyết định số 196/2004/QĐ-TTg ngày 29/11/2004 của Thủ tướng Chính phủ bổ sung danh mục các công trình liên vùng, liên xã sau khi rà soát, bổ sung vào quy hoạch tổng thể theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ để phục vụ di dân tái định cư”.

Trả lời (tại công văn số 1744/BKH-TH ngày 14/3/2008 của Bộ KHĐT):

Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang rà soát trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung Quyết định số 196/2004/QĐ-TTg ngày 29/11/2004 của Thủ tướng Chính phủ, theo đó, đề nghị điều chỉnh, bổ sung danh mục đường giao thông phục vụ di dân, tái định cư Dự án thuỷ điện Sơn La, cụ thể như sau:

a) Điều chỉnh 11 tuyến đường giao thông liên xã với chiều dài 133 km (đã có danh mục tại Quyết định số 196/2004/QĐ-TTg ngày 29 tháng 11 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch tổng thể di dân, tái định cư Dự án thuỷ điện Sơn La) thành 14 tuyến đường với chiều dài 271,7 km.

b) Bổ sung danh mục 37 tuyến đường công vụ phục vụ di dân tái định cư với chiều dài 122,5 km vào Quyết định số 196/2004/QĐ-TTg ngày 29 tháng 11 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ và bổ sung danh mục đường công vụ vào Quyết định số 459/QĐ-TTg ngày 12 tháng 5 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về Quy định bồi thường di dân, tái định cư Dự án thuỷ điện Sơn La.

Tên đường, tiêu chuẩn kỹ thuật, chiều dài từng tuyến đường, địa điểm xây dựng các loại đường nêu trên thực hiện theo phụ biểu gửi kèm công văn số 394/UBND-TH ngày 17 tháng 3 năm 2006 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La. Riêng đối với đường công vụ phục vụ di dân tái định cư chỉ thực hiện hạng mục san gạt, đào, đắp tạo nền đường cho xe ô tô đi lại.

c) Bổ sung danh mục 7 tuyến đường giao thông liên xã phục vụ di dân năm 2005 với chiều dài 114,1 km (bao gồm: đường tiêu chuẩn kỹ thuật 20 là 105,1 km; đường giao thông nông thôn loại A là 9,0 km) vào Quy hoạch tổng thể di dân, tái định cư Dự án thuỷ điện Sơn La. Tên đường, tiêu chuẩn kỹ thuật, chiều dài từng tuyến đường, địa điểm xây dựng các loại đường nêu trên thực hiện theo phụ biểu gửi kèm công văn số 836/UBND-TH ngày 09 tháng 5 năm 2006 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La.



39/ Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị: “Đề nghị Chính phủ phê duyệt nguồn kinh phí thuộc dự án tái định cư thủy điện Sơn La để đảm bảo công tác đo đạc địa chính, thu hồi đất…, cho phép nâng cấp cửa khẩu Lạnh Bánh thành cửa khẩu Quốc gia (tại khu vực mốc D1); cho phép nâng cấp các tuyến đường từ các huyện giáp ranh nối thông với các tuyến đường của 2 tỉnh Hủa Phăn và Luông Phrabăng”.

Trả lời (tại công văn số 1744/BKH-TH ngày 14/3/2008 của Bộ KHĐT):

Việc đề nghị cho phép nâng cấp cửa khẩu Lạnh Bánh thành cửa khẩu Quốc gia (tại khu vực mốc D1), đề nghị tỉnh Sơn La phối hợp với Bộ Ngoại giao hoàn tất các thủ tục, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

Việc nâng cấp một số tuyến đường nối liên thông với các tuyến ra biên giới mà nước bạn Lào đã đầu tư để đảm bảo quốc phòng an ninh, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội vùng biên giới là cần thiết. Tại công văn số 6760/VPCP-ĐP ngày 21/11/2007 của Văn phòng Chính phủ, thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ, theo đó Thủ tướng Chính phủ đồng ý về nguyên tắc, giao Bộ Quốc phòng khẩn trương hoàn tất các thủ tục theo quy định để triển khai đầu tư. Đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La phối hợp với Bộ Quốc phòng để triển khai thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ./.

40/ Cử tri các tỉnh: Bà Rịa - Vũng Tàu, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Hải Phòng,Gia Lai, Hà Nội, Bình Phước kiến nghị: “Vấn đề quy hoạch đất đai để thực hiện các dự án phát triển kinh tế- xã hội là việc làm cần thiết, cử tri rất ủng hộ, tuy nhiên vẫn còn tình trạng "quy hoạch treo", "dự án treo", dự án không khả thi, dẫn đến tình trạng người nông dân thiếu đất để sản xuất nhưng đất đai lại bị bỏ hoang hóa... Đề nghị Chính phủ có biện pháp kiên quyết thu hồi giấy phép đối với các dự án trên, bên cạnh đó có chính sách giải quyết việc làm, ổn định đời sống của người dân bị thu hồi đất, đồng thời cần xem xét lại việc áp giá đền bù cho phù hợp”.

Trả lời (tại công văn số 1741/BKH-TH, 1742/BKH-TH, 1745/BKH-TH, 1746/BKH-TH, 1747/BKH-TH, 1748/BKH-TH ngày 14/3/2008 của Bộ KHĐT):

Trong thời gian qua, trong công tác quy hoạch đất đai nổi lên một số vấn đề chủ yếu sau: về định hướng qui hoạch dài hạn thì cơ bản là đúng nhưng việc xác định bước đi trong các qui hoạch cụ thể chưa rõ hoặc trong quá trình tổ chức thực hiện qui hoạch thấy khó khăn lại chưa điều chỉnh qui hoạch kịp thời. Nguyên nhân của tình trạng này phần lớn là do xúc tiến đầu tư chưa tốt nên chưa thu hút được các nhà đầu tư như qui hoạch đề ra. Việc kiểm tra, giám sát thực hiện qui hoạch của một số địa phương chưa được thực hiện tốt.

Đối với tình trạng "quy hoạch treo", "dự án treo", dự án không khả thi, dẫn đến tình trạng người nông dân thiếu đất để sản xuất nhưng đất đai lại bị bỏ hoang hóa..., đây là những vấn đề rất bức xúc, gây nên tình trạng lãng phí rất lớn. Hiện nay, Chính phủ đang có các giải pháp, chính sách nhằm chấn chỉnh lại công tác qui hoạch, kiên quyết thu hồi giấy phép đối với các dự án treo, dự án không hiệu quả, đồng thời có các chính sách nhằm giải quyết việc làm, ổn định đời sống của người dân bị thu hồi đất.

Đối với công tác qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 7/9/2006 về lập, phê duyệt và quản lý qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội; Nghị định 99/2006/NĐ-CP ngày 15/9/2006 về công tác kiểm tra việc thực hiện chính sách, chiến lược, qui hoạch, kế hoạch. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có Thông tư số 01/2007/TT-BKH ngày 7/2/2007 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định 92/2006/NĐ-CP. Gần đây nhất, để tiếp tục nâng cao chất lượng công tác lập, thẩm định và quản lý qui hoạch, Chính phủ ban hành Nghị định 04/2008/NĐ-CP ngày 11/01/2008 về Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ. Trong năm 2007, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức kiểm tra công tác qui hoạch ở một số địa phương tại hầu hết các vùng trên phạm vi cả nước. Thông qua việc kiểm tra đã chấn chỉnh và từng bước đưa công tác qui hoạch vào nề nếp.



41/ Cử tri tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu kiến nghị: Trong chính sách về đất đai còn có sự phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư nước ngoài, thiếu công bằng đối với nhà đầu tư trong nước, cụ thể: nhà đầu tư nước ngoài được trả tiền thuê đất một lần, được nhà nước thu hồi đất và giao đất... trong khi các doanh nghiệp trong nước không được hưởng những quy định này“.

Trả lời (tại công văn số 1748/BKH-TH ngày 14/3/2008 của Bộ KHĐT):

Luật Đất đai 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đã có những sửa đổi, bổ sung nhằm tạo các quy định thông thoáng hơn cho các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư tại Việt Nam khi tham gia vào quá trình sử dụng đất cũng như các giao dịch liên quan đến đất đai (trường hợp trả tiền thuê đất một lần, nhà đầu tư có các quyền chuyển nhượng, cho thuê lại, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất cho cả thời gian thuê; trường hợp trả tiền thuê đất hàng năm có các quyền: thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng tài sản tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam,…).

Tuy nhiên, quy đinh hiện hành còn nhiều hạn chế đối với nhà đầu tư nước ngoài hơn là đối với nhà đầu tư trong nước. Cụ thể, nhà đầu tư nước ngoài bị hạn chế:

- Không có quyền được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất

- Không được trực tiếp thuê đất, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhận góp vốn trực tiếp từ hộ gia đình, cá nhân.

- Các tổ chức tín dụng nước ngoài không được nhận thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại Việt Nam.

- Nhà đầu tư nước ngoài chưa được phép mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam.

Từ những bất cập trong phân biệt đối xử, thiếu công bằng giữa các thành phân kinh tế, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, kinh doanh, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang rà soát, tiếp tục hoàn thiện chính sách pháp luật đất đai, cải cách thủ tục hành chính, tạo cơ chế về tài chính cho hoạt động của Tổ chức phát triển quỹ đất để sẵn sàng cung cấp nguồn đất sạch cho các nhà đầu tư theo chỉ đạo của Chính phủ.



42/ Cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị: Cử tri thị xã Móng Cái đề nghị Chính phủ có chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng riêng cho Móng Cái để thị xã sớm phát triển thành thành phố, tương xứng với sự phát triển đô thị của phía Trung Quốc“.

Trả lời (tại công văn số 1750/BKH-TH ngày 14/3/2008 của Bộ KHĐT):

Nguyện vọng của cử tri thị xã Móng Cái là rất chính đáng và phù hợp với định hướng phát kinh tế - xã hội của cả nước nói chung cũng như của Vùng Trung du miền núi Bắc Bộ, của tỉnh Quảng Ninh và của thị xã Móng Cái nói riêng.

Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 1/7/2004 của Bộ Chính trị và Quyết định số 27/2008/QĐ-TTg ngày 5/2/2008 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định rõ về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2010. Trong những năm gần đây, Chính phủ đã có nhiều cơ chế chính sách nhằm thu hút các nguồn lực để đầu tư phát triển hạ tầng vùng biên giới, phát triển hệ thống đô thị giáp biên, các khu kinh tế cửa khẩu. Ngân sách Trung ương đã và đang sẽ tiếp tục hỗ trợ theo mục tiêu để xây dựng cơ sở hạ tầng khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái.

Tuy nhiên, việc bố trí nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho thị xã Móng Cái phải cân đối với khả năng ngân sách Nhà nước và hài hòa với các mục tiêu kinh tế - xã hội khác của tỉnh Quảng Ninh. Đối với đề nghị nhà nước có cơ chế riêng để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cho thị xã Móng Cái để sớm trở thành thành phố tương xứng với sự phát triển đô thị phía Trung Quốc: Bộ Kế hoạch và Đầu tư ghi nhận đề nghị này của cử tri Móng Cái và sẽ nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ để tổng hợp báo cáo Quốc hội xem xét trong tổng thể các đô thị biên giới tương tự như Móng Cái để có chính sách đầu tư chung.



43/ Cử tri tỉnh Đắk Nông kiến nghị: “Chính phủ cần dành kinh phí cho việc quy hoạch, ổn định dân di cư tự do đến địa bàn tỉnh Đắk Nông“.

Trả lời (tại công văn số 1751/BKH-TH ngày 14/3/2008 của Bộ KHĐT):

Kinh phí để phục vụ việc quy hoạch, ổn định dân di cư tự do địa bàn tỉnh Đắk Nông đã được dự toán trong ngân sách nhà nước năm 2008 của tỉnh. Đề nghị tỉnh cân đối từ nguồn ngân sách được giao để sử dụng cho công tác này. Trường hợp vốn bố trí chưa đủ để thực hiện, đề nghị ủy ban nhân dân tỉnh có những kiến nghị cụ thể. Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tổng hợp và phối hợp với các cơ quan liên quan trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.



44/ Cử tri tỉnh Điện Biên kiến nghị: “Chính phủ cần có chính sách hợp lý khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện hết sức khó khăn để giúp các địa phương và doanh nghiệp phát triển .

Trả lời (tại công văn số 1752/BKH-TH ngày 14/3/2008 của Bộ KHĐT):

Việc khuyến khích phát triển các doanh nghiệp hoạt động ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện khó khăn để giúp địa phương và doanh nghiệp phát triển là nội dung đã, đang và sẽ luôn được ưu tiên trong hoạch định chính sách phát triển của Chính phủ.

Các chính sách khuyến khích doanh nghiệp hoạt động ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện khó khăn được thể hiện thông qua 3 nhóm chính sách, gồm: (i) Nhóm các chính sách khuyến khích trực tiếp đối với doanh nghiệp hoạt động ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện khó khăn; (ii) Nhóm các chính sách tạo môi trường đầu tư, khuyến khích phát triển kinh doanh; (iii) Nhóm các chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng khó khăn. Cụ thể:

1. Nhóm các chính sách trực tiếp khuyến khích đối với doanh nghiệp hoạt động ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện khó khăn: Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư dành cho các doanh nghiệp hoạt động ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện khó khăn. Doanh nghiệp hoạt động ở các vùng này được hưởng các ưu đãi về miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp (Nghị định số 24/2007/NĐ-CP ngày 14/2/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp), thuế nhập khẩu; ưu đãi về thuế sử dụng đất, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và tiền thuê mặt nước. Địa bàn ưu đãi đầu tư được quy định tại Phụ lục II Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư. Ngoài ra, doanh nghiệp còn nhận được hỗ trợ đầu tư thông qua: Hỗ trợ chuyển giao công nghệ, hỗ trợ đào tạo, hỗ trợ đầu tư phát triển, hỗ trợ tín dụng đầu tư, hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng theo quy định của pháp luật về đầu tư và các quy định pháp luật khác có liên quan.

Doanh nghiệp được hỗ trợ đầu tư thông qua biện pháp về tài chính, tín dụng (áp dụng trong một thời gian nhất định) đối với các dự án đầu tư vào một số ngành nghề, ngành nghề truyền thống và tại các địa bàn cần khuyến khích đầu tư. Hiện nay một số bộ, ngành liên quan đang được giao xem xét sửa đổi, bổ sung quy chế hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa để phù hợp hơn với tình hình kinh tế của các địa phương thuộc vùng có điều kiện khó khăn; xây dựng chính sách ưu đãi về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hợp lý hơn cho doanh nghiệp hoạt động tại các địa bàn khó khăn.

2. Nhóm các chính sách về tạo môi trường đầu tư, khuyến khích phát triển kinh doanh: Bên cạnh việc đẩy mạnh đơn giản hoá các thủ tục đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp còn nhận được nhiều chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi phát triển sản xuất kinh doanh như:

- Chính sách đất đai: Doanh nghiệp được tạo điều kiện có mặt bằng cho sản xuất, doanh nghiệp như được thuê đất, chuyển nhượng, thế chấp, góp vốn kinh doanh bằng giá trị quyền sử dụng đất.

- Chính sách về tài chính, tín dụng: Bên cạnh việc được tiếp cận tốt hơn với các nguồn tín dụng chính thức, nhà nước còn khuyến khích các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp và thể nhân góp vốn đầu tư vào các doanh nghiệp thông qua việc miễn, giảm thuế thu nhập trên phần vốn góp, tài sản góp.

- Chính sách thị trường: Doanh nghiệp được tạo điều kiện tiếp cận thông tin thị trường, giá cả hàng hoá, trợ giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, tiêu thụ sản phẩm. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia giai đoạn 2006-2010 (Quyết định số 279/2005/QĐ-TTg ngày 3/11/2005 về việc ban hành quy chế xây dựng và thực hiện chương trình xúc tiến thương mại quốc gia giai đoạn 2006-2010). Doanh nghiệp được hỗ trợ về thông tin thương mại, quảng bá thâm nhập thị trường, đào tạo nâng cao năng lực và kỹ năng kinh doanh xuất khẩu, tham gia hội chợ. Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn được tạo điều kiện trong cung ứng hàng hoá và dịch vụ theo kế hoạch mua sắm bằng nguồn ngân sách nhà nước.

Để phát triển sản xuất kinh doanh và giao lưu hàng hoá với các nước có chung đường biên giới, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chính sách về khu kinh tế cửa khẩu biên giới (Quyết định số 53/2001/QĐ-TTg ngày19/4/2001 về chính sách đối với khu kinh tế cửa khẩu biên giới), chính sách về thương mại biên giới (Quyết định 254/2006/QĐ-TTg ngày 7/11/2006 về việc quản lý hoạt động thương mại biên giới với các nước có chung biên giới).

- Chính sách về khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ: Nhà nước có chương trình, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ, trang thiết bị, máy móc, phát triển sản phẩm mới, hiện đại hoá quản lý nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường (Nghị định số 119/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18/9/1999 về một số chính sách và cơ chế tài chính khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động khoa học công nghệ; Nghị định số 159/2004/NĐ-CP ngày 31/8/2004 của Chính phủ về hoạt động thông tin khoa học và công nghệ; Nghị định số 122/2003/NĐ-CP ngày 22/10/2003 của Chính phủ về thành lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia).

- Chính sách đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp: Nhà nước có chính sách giúp doanh nghiệp trong đào tạo nguồn nhân lực, tăng cường năng lực trong sản xuất kinh doanh, tiếp cận thị trường, cung cấp thông tin, tư vấn và đào tạo nguồn nhân lực.

3. Nhóm các chính sách phát triển kinh tế xã hội vùng khó khăn:

Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách về phát triển kinh tế xã hội vùng khó khăn để giảm sự chênh lệch giữa các vùng như: Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa; Quyết định 120/2003/QĐ-TTg ngày 11 tháng 6 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chiến lược phát triển kinh tế xã hội tuyến biên giới Việt-Trung đến năm 2010; Quyết định số 160/2007/QĐ-TTg ngày 17 tháng 10 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án phát triển kinh tế xã hội các xã tuyến biên giới Việt Nam – Lào và Việt Nam – Cămpuchia đến năm 2010.



45/ Cử tri tỉnh Điện Biên kiến nghị: “Đề nghị Chính phủ xây dựng và thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển vùng Tây Bắc, đẩy mạnh tiến độ thực hiện đầu tư xây dựng vùng biên giới Việt- Lào và mở rộng quan hệ đối ngoại với Lào theo tinh thần Chỉ thị 14 ngày 14/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ”.

Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn số: 1588

tải về 3.72 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   14   15   16   17   18   19   20   21   ...   48




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương