PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri



tải về 3.72 Mb.
trang21/48
Chuyển đổi dữ liệu09.07.2016
Kích3.72 Mb.
#1608
1   ...   17   18   19   20   21   22   23   24   ...   48

Trả lời:

* Về đào tạo giáo viên dạy tiếng Khmer:

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành chương trình và giáo trình dạy tiếng Khmer đào tạo giáo viên trong các trường Cao đẳng sư phạm, áp dụng từ năm 1994-1995. Bộ chương trình và giáo trình này đã được sử dụng trong đào tạo giáo viên dạy tiếng Khmer ở Trường Cao đẳng sư phạm Sóc Trăng và Trường Cao đẳng sư phạm Trà Vinh nhiều năm nay. Số giáo sinh được đào tạo từ các trường này đã đáp ứng được nhu cầu dạy tiếng Khmer tại địa phương. Một số địa phương khác chưa đủ điều kiện đào tạo giáo viên dạy tiếng Khmer trong trường Cao đẳng sư phạm đã gửi đào tạo tại Trường Cao đẳng sư phạm Sóc Trăng, Trường Cao đẳng sư phạm Trà Vinh.



* Về sách giáo khoa chữ dân tộc Khmer:

Ngày 30/8/2005, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chương trình tiếng Khmer ở trường tiểu học và trung học cơ sở. Từ năm học 2005-2006, học sinh dân tộc Khmer đã được học theo bộ sách mới (các trình độ A, B, C). Sách các trình độ E, G, H sẽ được in và triển khai dạy trong những năm học tới.



* Về đề nghị sửa đổi chế độ chi tiêu của các trường phổ thông dân tộc nội trú (quy định hiện nay đã ban hành trên 15 năm chưa được sửa đổi):

Hiện nay, học sinh phổ thông dân tộc nội trú đang được hưởng mức học bổng 360.000đ/tháng/HS theo Thông tư liên tịch số 43/2007/TTLT/BTC-BGDĐT ngày 02/5/2007 của Bộ Tài chính và Bộ Giáo dục và Đào tạo. Mức học bổng sẽ được điều chỉnh theo tỷ lệ tương ứng cùng với mức lương tối thiểu theo lộ trình cải cách tiền lương của Nhà nước.

Ngoài học bổng, học sinh còn được hưởng các chế độ hỗ trợ khác như: miễn học phí và các loại lệ phí thi, tuyển sinh; tiền tàu xe nghỉ hè hoặc nghỉ Tết; hỗ trợ học phẩm; tiền điện nước, bảo hiểm y tế; ... (theo Thông tư liên tịch số 126/1998/TTLT-BTC-BGDĐT ngày 09/9/1998 của Bộ Tài Chính và Bộ Giáo dục và Đào tạo Hướng dẫn một số chế độ tài chính đối với học sinh các trường phổ thông dân tộc nội trú và các trường dự bị đại học).

Tuy nhiên, một số chế độ được quy định trong Thông tư liên tịch số 126/1998/TTLT/BTC-BGDĐT như: định mức kinh phí chi cho các hoạt động tham quan, hoạt động ngoài giờ; trang cấp lần đầu; chế độ lễ, tết, khen thưởng cho học sinh không còn phù hợp với sự biến động của giá cả và mức lương tối thiểu (540.000đ).

Ngày 22/01/2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Hội nghị Tổng kết trường phổ thông dân tộc nội trú giai đoạn 1997 - 2007 và phương hướng phát triển giai đoạn 2008 – 2020. Tiếp thu ý kiến của các đại biểu tham dự Hội nghị, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã kiến nghị Chính phủ xây dựng và sửa đổi văn bản hướng dẫn thực hiện chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú.

19/ Cử tri tỉnhThái Nguyên kiến nghị: “Yêu cầu tuyển sinh theo cơ chế đào tạo, tuyển dụng con em người dân tộc thiểu số phải nói và viết thành thạo tiếng dân tộc mình là bất cập vì nếu tập trung sử dụng tiếng dân tộc sẽ ảnh hưởng đến việc sử dụng tiếng Việt và việc học tập, tiếp thu kiến thức của các em. Đề nghị khi tuyển sinh theo cơ chế trên, nên giảm nhẹ yêu cầu viết và nói tiếng dân tộc thiểu số”.

Trả lời:

Hiện nay, trong các văn bản về tuyển sinh của Bộ Giáo dục và Đào tạo không có điều nào quy định về việc thí sinh người dân tộc thiểu số phải nói và viết thành thạo tiếng dân tộc mình.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang triển khai việc dạy tiếng dân tộc cho 7 dân tộc (Chăm, Khmer, Hoa, HMông, Jrai, Bana, Êđê) tại một số tỉnh với mục đích góp phần giữ gìn tiếng nói, chữ viết và bản sắc văn hóa của các dân tộc. Việc giảng dạy này không ảnh đến lượng kiến thức mà các em cần lĩnh hội cũng như thời gian học tập của học sinh.

20/ Cử tri tỉnhSơn La và Quảng Nam kiến nghị: “Bộ Giáo dục và Đào tạo bổ sung thêm đối tượng được hưởng học bổng theo Quyết định 112/2001-TTg của Thủ tướng Chính phủ; tại Quyết định này chỉ có các em học sinh thuộc hộ nghèo, ở bán trú mới được hưởng chế độ 140.000 đ/tháng. Thực tế, hiện nay các em học sinh thuộc hộ nghèo nhưng không ở bán trú rất lớn vì nhà ở thiếu, không đáp ứng được nhu cầu thực tế. Để kịp thời động viên các em, đề nghị bổ sung thêm đối tượng được hưởng chế độ bao gồm cả các em học sinh thuộc hộ nghèo nhưng không ở bán trú”.

Trả lời:

Về việc bổ sung thêm đối tượng được hưởng học bổng theo Quyết định số 112/1997/QĐ-TTg cho học sinh xã miền núi nghèo nhưng không ở bán trú được hưởng chế độ 140 000đ/tháng, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ phối hợp với Bộ Tài chính nghiên cứu xây dựng định mức và chính sách trợ cấp cho học sinh thuộc hộ nghèo ở các xã miền núi không theo học tại các trường dân tộc nội trú, trường dự bị đại học.



21/ Cử tri tỉnhHà Giang đề nghị: “Tăng mức học bổng của học viên trung tâm giáo dục thường xuyên. Hiện nay mức 140.000 đ/tháng/học viên là thấp, không đảm bảo sinh hoạt”.

Trả lời:

Hiện nay chưa có văn bản nào quy định về học bổng cho học viên trung tâm giáo dục thường xuyên trên phạm vi toàn quốc. Do vậy, việc đề nghị tăng học bổng là chưa thể thực hiện được.



22/ Cử tri tỉnhGia Lai kiến nghị: “Để đáp ứng yêu cầu đào tạo cán bộ và nguồn nhân lực của tỉnh và phù hợp với tính chất đặc thù của địa phương (diện tích tự nhiên lớn thứ 2 của cả nước; dân số khoảng 1,2 triệu người; đồng bào dân tộc thiểu số chiếm hơn 46% dân số, trong đó phần lớn dân tộc Jrai và Bahnar), đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo tăng quy mô các trường dân tộc nội trú cấp huyện lên 300 học sinh. Đồng thời cho phép tỉnh thành lập thêm 2 trường trung học phổ thông dân tộc nội trú của tỉnh tại thị xã An Khê (trung tâm khu vực 4 huyện phía đông của tỉnh, cách thành phố Pleiku 100 km) và thị xã AyunPa (trung tâm khu vực 4 huyện phía nam của tỉnh, cách thành phố Pleiku 100 km) tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh dân tộc thiểu số trong quá trình học tập, sinh hoạt”.

Trả lời:

Theo quy định hiện hành, việc thành lập trường trung học phổ thông dân tộc nội trú và tăng quy mô học sinh trường dân tộc nội trú cấp huyện thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh. Về quan điểm, Bộ Giáo dục và Đào tạo ủng hộ chủ trương trên để tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh dân tộc thiểu số trong quá trình học tập, sinh hoạt. Ngày 22/01/2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Hội nghị Tổng kết trường phổ thông dân tộc nội trú giai đoạn 1997 - 2007 và trong tháng 04/2008 Bộ sẽ tổ chức Hội nghị toàn quốc về Giáo dục dân tộc. Sau 2 hội nghị này Bộ sẽ xây dựng chương trình phát triển Giáo dục dân tộc giai đoạn 2008-2020, trong đó có việc phát triển hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú theo yêu cầu mới.



23/ Cử tri thành phố Đà Nẵng, Hà Nội và tỉnh Quảng Bình kiến nghị: “Qua các phương tiện thông tin đại chúng, được biết Bộ Giáo dục và Đào tạo đang có đề án cải cách giáo dục, theo đó, sẽ bỏ kỳ thi tuyển sinh đại học. Cử tri đề nghị Bộ cân nhắc thời điểm bỏ kỳ thi này, vì hiện nay việc đánh giá chất lượng học sinh còn chưa chính xác và cũng dễ xảy ra tiêu cực, gây ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo sau này”.

Trả lời:

Bộ Giáo dục và Đào tạo được Chính phủ giao nhiệm vụ xây dựng Đề án đổi mới thi và tuyển sinh. Trong quá trình soạn thảo Đề án, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức nhiều buổi thảo luận, lấy ý kiến đóng góp của các địa phương, đơn vị liên quan và của các nhà khoa học. Trong tháng 12/2007, Tổ soạn thảo Đề án đã nhận được văn bản góp ý của 208 đơn vị được tổng hợp từ 9.721 ý kiến cá nhân của các cán bộ, giáo viên, giảng viên,… Nhìn chung, các ý kiến đều nhất trí với những nội dung đổi mới thi của Bộ, ngoài ra cũng có những ý kiến đề xuất khác rất có giá trị cho Đề án.

Tiếp thu các ý kiến góp ý, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã bổ sung, hoàn thiện Dự thảo Đề án và báo cáo trước Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội (ngày 04/01/2008). Tiếp thu ý kiến của Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, Dự thảo Đề án tiếp tục được chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện; hiện nay đã được gửi xin ý kiến các bộ, ban, ngành liên quan.

Các yêu cầu đối với việc đổi mới thi và tuyển sinh nêu trong Đề án là: Tổ chức kỳ thi trung học phổ thông quốc gia đảm bảo thực sự nghiêm túc, đánh giá đúng thực chất trình độ người học; kết quả thi đủ độ tin cậy vừa để xét công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông, vừa làm một căn cứ quan trọng để xét tuyển vào đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp; đảm bảo khách quan, công bằng; giảm áp lực nặng nề về thi cử; đảm bảo lợi ích của thí sinh, tiết kiệm tiền của, thời gian, sức lực của thí sinh, gia đình thí sinh và xã hội.

Từ năm học 2006-2007 toàn ngành đã triển khai cuộc vận động hai không: “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”, qua gần 2 năm triển khai với sự tham gia của cấp Uỷ đảng, Chính quyền địa phương, Hội Cựu giáo chức, Hội khuyến học, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn TNCS HCM, tiêu cực trong thi cử đã giảm đáng kể. Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2007 đã được thực hiện nghiêm túc, tỷ lệ tốt nghiệp đã có sự khác biệt đáng kể giữa các địa phương.

Trong thời gian trước mắt, khi còn tổ chức riêng rẽ kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông và kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng, để đảm bảo thi cử nghiêm túc, khách quan, công bằng, đánh giá chính xác chất lượng thực tế, hạn chế tối đa tiêu cực làm cơ sở tiến tới tổ chức chỉ một kỳ thi trung học phổ thông quốc gia, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương huy động các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp tham gia các khâu tổ chức kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông. Việc tăng cường lực lượng cán bộ, giảng viên của các trường đại học, cao đẳng tham gia các khâu tổ chức thi vừa là nghĩa vụ vừa là quyền lợi của các trường đại học, cao đẳng. Đây là một trong những giải pháp quan trọng, góp phần cho kỳ thi nghiêm túc. Thực tế năm 2007 đã chứng minh điều đó: Với sự hiện diện của các đoàn thanh tra đến từ các trường đại học, cao đẳng, kỳ thi đã nghiêm túc hơn, được dư luận xã hội đánh giá tốt. Điển hình là việc đoàn thanh tra tại Bắc Ninh đã phát hiện và ngăn chặn kịp thời vụ tiêu cực nghiêm trọng tại Hội đồng coi thi Trung tâm Giáo dục thường xuyên huyện Lương Tài.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo để từ kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2008 nghiêm túc hơn nữa, làm cơ sở cho kế hoạch sẽ trình Thủ tướng Chính phủ là từ năm 2009 sẽ không tổ chức một kỳ thi đại học, cao đẳng toàn quốc mà các trường đại học, cao đẳng sẽ sử dụng kết quả thi tốt nghiệp trung học phổ thông cùng với kết quả học tập ở bậc phổ thông và các tiêu chí khác theo đặc thù của các ngành, trường mà tự tuyển sinh.

24/ Cử tri tỉnhBến Tre kiến nghị: “Ngành giáo dục cần có cuộc khảo sát, tổng kết, đánh giá lại trình độ của giáo viên và học sinh có phù hợp với chương trình cải cách giáo dục hiện nay hay không. Bộ Giáo dục và Đào tạo có giải pháp cụ thể đối với số lượng lớn học sinh thi trượt đại học để số đối tượng này không trở thành gánh nặng cho xã hội. Nên quy định trường cụ thể khi học sinh thi vào lớp 10 để bảo đảm tất cả học sinh đều học hết chương trình cấp 3. Không nên tổ chức thi tốt nghiệp phổ thông trung học lần 2, như vậy sẽ tốn kém và không đạt hiệu quả mà tổ chức cho các em học nghề, khi ra trường có việc làm, bảo đảm cuộc sống”.

Trả lời:

* Về khảo sát, tổng kết, đánh giá lại trình độ của giáo viên và học sinh có phù hợp với chương trình cải cách giáo dục hiện nay hay không:

Thực hiện Nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc hội khóa X, từ năm học 2002-2003, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai đại trà chương trình, sách giáo khoa mới theo cách “cuốn chiếu”. Trong quá trình triển khai đổi mới chương trình giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo luôn quan tâm tới việc đánh giá sự phù hợp của chương trình mới với trình độ giáo viên và học sinh nhằm đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục.

Bộ đã chỉ đạo các sở giáo dục và đào tạo, phòng giáo dục và đào tạo, các trường tổ chức tổng kết sau từng năm học, đánh giá những kết quả đạt được, khó khăn, thuận lợi khi triển khai chương trình mới; Bộ cũng đã tổ chức đánh giá 5 năm triển khai chương trình mới cấp tiểu học; tổ chức một số hoạt động nghiên cứu khảo sát như: Đề tài nghiên cứu đánh giá chất lượng và hiệu quả triển khai đại trà chương trình và sách giáo khoa mới (thực hiện năm 2004 – 2005, trong đó có sự tham gia của cơ quan, tổ chức ngoài ngành giáo dục là Liên hiệp các hội khoa học kĩ thuật Việt Nam, Trung tâm nghiên cứu dư luận thuộc Ban Văn hoá - Tư tưởng Trung ương) và Đề tài nghiên cứu đánh giá đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí (năm 2005);… Trên cơ sở các kết quả đánh giá đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có những chỉnh lí nhất định về chương trình và sách giáo khoa và có những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.

Trong khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2008, để có đánh giá một cách tương đối toàn diện về chương trình và sách giáo khoa sau 5 năm thực hiện, có những giải pháp tiếp tục điều chỉnh, hoàn thiện chương trình và sách giáo khoa, đồng thời để có cơ sở khoa học xác đáng trả lời trước công luận và báo cáo Quốc hội về chất lượng chương trình và sách giáo khoa phổ thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo tất cả các tỉnh, thành trong cả nước tổ chức đánh giá chương trình và sách giáo khoa ở tất cả các môn học từ tiểu học đến trung học phổ thông. Sau đó Bộ sẽ tổ chức Hội nghị đánh giá chương trình và sách giáo khoa vào giữa tháng 5/2008. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã mời một số cơ quan, tổ chức ngoài ngành giáo dục (Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội; Liên hiệp các hội khoa học kĩ thuật Việt Nam; Hội Cựu giáo chức Việt Nam; Hội khuyến học Việt Nam) tham gia đánh giá chương trình và sách giáo khoa. Kết quả đánh giá sẽ được trình Quốc hội trong kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá XII.



* Về giải pháp cụ thể đối với số lượng lớn học sinh thi trượt đại học để số đối tượng này không trở thành gánh nặng cho xã hội:

Về nhu cầu lao động của một quốc gia, tỉ lệ người có trình độ đại học chỉ chiếm thiểu số (20-40%). Vì vậy nếu hầu hết học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông đi thi đại học thì đa số không đỗ là hiện tượng có tính quy luật. Không thể đa số học sinh đi thi đều đỗ vào đại học, vì như vậy thì sẽ “thừa thầy, thiếu thợ” cho nền kinh tế. Để các em không học đại học không trở thành gánh nặng cho xã hội thì con đường tốt nhất là học một nghề ở trình độ không phải đại học.

Một số giải pháp đã và đang được thực hiện như: Tuyển số học sinh vào học trung cấp chuyên nghiệp theo chương trình điều chỉnh; phát triển các chương trình đào tạo nghề, trung cấp chuyên nghiệp, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp (trường trung cấp chuyên nghiệp, trường trung cấp nghề, ...) nhằm tạo cơ hội học tập cho các em; chú trọng giáo dục nghề trong chương trình giáo dục phổ thông; làm tốt công tác tuyên truyền nhằm thay đổi tâm lí xã hội cho rằng “vào đại học là con đường duy nhất” (tâm lí này là một nguyên nhân quan trọng dẫn tới thực trạng nhiều trường trung cấp chuyên nghiệp, cơ sở dạy nghề không tuyển đủ chỉ tiêu); tổ chức tốt công tác hướng nghiệp; chú trọng đào tạo gắn với nhu cầu xã hội.

* Về quy định trường cụ thể khi học sinh thi vào lớp 10 để bảo đảm tất cả học sinh đều học hết chương trình cấp 3:

Việc tuyển sinh vào lớp 10 hiện được giao cho các sở giáo dục và đào tạo báo cáo UBND tỉnh để tổ chức thực hiện tùy vào thực tiễn địa phương và có thể theo các phương án: Xét tuyển (dựa vào kết quả học tập 4 năm ở trung học cơ sở); Thi tuyển; Kết hợp thi tuyển và xét tuyển.

Đối với những học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở mà không học tiếp ở trường trung học phổ thông, các em sẽ được định hướng học tại các trường trung cấp chuyên nghiệp, nghề, hoặc học theo chương trình giáo dục thường xuyên. Như vậy, các em có cơ hội đạt được học vấn tương đương trung học phổ thông bằng nhiều phương thức khác nhau.

* Về việc không nên tổ chức thi tốt nghiệp phổ thông trung học lần 2, như vậy sẽ tốn kém và không đạt hiệu quả mà tổ chức cho các em học nghề, khi ra trường có việc làm, bảo đảm cuộc sống:

Trong năm học 2006-2007 và năm học 2007-2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương tổ chức kì thi tốt nghiệp trung học phổ thông lần 2 trong năm. Kì thi tốt nghiệp trung học phổ thông lần 2 nhằm tạo cơ hội cho các em có học lực trung bình yếu, cận trung bình được củng cố, bồi dưỡng kiến thức và có cơ hội đỗ tốt nghiệp. Đây là một giải pháp tạm thời mang tính tình thế trong tiến trình thực hiện việc học nghiêm túc, thi nghiêm túc theo tinh thần Chỉ thị 33/2006/CT-TTg ngày 08/9/2006 của Thủ tướng Chính phủ và cuộc vận động “Hai không” của ngành. Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang xây dựng Đề án đổi mới công tác thi tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển sinh vào đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác này. Theo dự kiến phương thức thi mới sẽ được thực hiện từ năm 2009.

Để tạo thêm cơ hội cho những học sinh không đỗ tốt nghiệp trung học phổ thông, giúp các em trở thành người lao động được đào tạo nghề nghiệp và có thể học tiếp lên trong tương lai, năm 2007 Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã có hướng dẫn về tuyển sinh và đào tạo những học sinh này nếu các em có nguyện vọng học trung cấp chuyên nghiệp. Theo đó, đối với học sinh đã dự thi tốt nghiệp trung học phổ thông (hoặc bổ túc trung học phổ thông) nhưng chưa được công nhận tốt nghiệp, có thể xem xét tiếp nhận vào học trung cấp chuyên nghiệp khoá đào tạo 2 năm cộng với từ 3 đến 6 tháng.

25/ Cử tri thành phố Hà Nội và tỉnh Hòa Bình kiến nghị: “Bộ Giáo dục và Đào tạo không nên tổ chức thi trắc nghiệm tràn lan đặc biệt là các môn Văn, Sử Địa. Vì hình thức thi tự luận mới phát huy được sự sáng tạo của học sinh”.

Trả lời:

* Lý do chọn giải pháp thi trắc nghiệm:

Trong thi cử, mỗi phương pháp đều có các ưu điểm và nhược điểm nhất định. Tuỳ theo mục đích, yêu cầu đặt ra cho kỳ thi để lựa chọn phương pháp có nhiều ưu điểm hơn. Trong trường hợp kỳ thi đông thí sinh, thi trắc nghiệm có những ưu điểm vượt trội:

- Khách quan trong khâu làm đề: đề thi trắc nghiệm gồm mấy chục câu được lấy ra ngẫu nhiên, theo từng yêu cầu nhất định, từ ngân hàng câu trắc nghiệm;

- Chống quay cóp: phần mềm tin học cho phép xáo trộn từ một đề thi gốc thành rất nhiều phiên bản (nội dung giống nhau nhưng thứ tự câu hỏi, thứ tự phương án trả lời khác nhau); ngăn chặn việc thí sinh trong phòng thi quay cóp bài của nhau;

- Chấm thi bằng máy chấm với tốc độ cao và có sự giám sát trực tiếp, liên tục; do đó ngăn chặn được sự gian lận khi chấm thi;

- Đề thi trắc nghiệm đánh giá được một khả năng quan trọng mà người học ngày nay cần tích lũy; đó là năng lực giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng;

- Thi theo phương pháp trắc nghiệm cũng là yếu tố cho phép tổ chức thi tại địa phương, đảm bảo nghiêm túc, giảm bớt tốn kém, căng thẳng.

Về ý kiến cho rằng: thi trắc nghiệm không đánh giá được khả năng diễn đạt của thí sinh và dễ dẫn đến tình trạng đoán mò, có thể khẳng định: câu trắc nghiệm được soạn thảo tốt vẫn có thể thẩm định được kỹ năng diễn đạt, phát biểu và sẽ khắc phục được tình trạng đoán mò. Bên cạnh đó, những hạn chế khác của thi trắc nghiệm như: ra đề thi trắc nghiệm khá công phu, thường phải xây dựng ngân hàng câu trắc nghiệm quanh năm; khâu in sao đề trắc nghiệm tốn nhiều vật liệu, thời gian, công sức và đòi hỏi phương tiện, kỹ thuật cao có thể được khắc phục bằng việc tăng cường xây dựng ngân hàng câu trắc nghiệm, tăng đầu tư cơ sở vật chất phục vụ sao in đề thi ở cơ sở.

* Trong những năm vừa qua, áp dụng thi trắc nghiệm với các môn Ngoại ngữ, Vật lí, Hoá học, Sinh học đã cho kết quả tốt. Đối với môn Ngữ văn, do đặc trưng bộ môn, Bộ chủ trương thi tự luận. Còn đối với môn Lịch sử, Địa lí thì việc áp dụng trắc nghiệm là hoàn toàn thực hiện được (trong một số chương trình trên truyền hình, việc trắc nghiệm các kiến thức về Lịch sử, Địa lí thường xuyên được sử dụng).

26/ Cử tri các tỉnh Hòa Bình, Đắk Nông, Bình Thuận, Cao Bằng, Lào Cai, Nam Định, Yên Bái, Gia Lai, Bến Tre kiến nghị: Trong những năm qua ngành giáo dục đã được nhà nước rất quan tâm đầu tư xây dựng, tuy nhiên chưa đầu tư đồng bộ, các trường học còn chưa có phòng chức năng, nhà công vụ cho giáo viên, nhà vệ sinh cho học sinh, các công trình xây dựng chất lượng chưa cao, thời gian đầu tư kéo dài... Đề nghị Nhà nước tiếp tục đầu tư xây dựng trường học và tăng đầu tư về cơ sở vật chất các trường, lớp học tạo điều kiện cho con em dân tộc vùng sâu, vùng xa được tiếp cận với điều kiện học như các vùng khác. Đề nghị sớm triển khai chương trình kiên cố hóa trường lớp giai đoạn II.

Trả lời:

Hỗ trợ giáo dục miền núi, vùng dân tộc, vùng sâu, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Ngay từ năm 1991, ngành giáo dục và đào tạo đã được Chính phủ cho phép thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia với một số mục tiêu ưu tiên đầu tư, trong đó có mục tiêu “Tăng cường giáo dục miền núi, vùng dân tộc ít người, vùng sâu đồng bằng sông Cửu Long” nhằm củng cố và hoàn thiện các trường, lớp học; tăng cường trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập...

Chương trình kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2008-2012 đã được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 20/2008/QĐ-TTg ngày 01/02/2008 với tổng kinh phí khoảng 25.000 tỷ đồng nhằm thực hiện mục tiêu: Xóa bỏ các phòng học 3 ca, phòng học nhờ, phòng học mượn, phòng học tạm thời các loại, phòng học bán kiên cố đã hết niên hạn sử dụng, đang xuống cấp nặng và từng bước giải quyết vấn đề nhà công vụ cho giáo viên. Ngày 02/4/2008, Chính phủ đã tổ chức Hội nghị toàn quốc (qua mạng truyền hình) để triển khai Chương trình kiên cố hoá trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2008-2012.

27/ Cử tri tỉnhLai Châu kiến nghị: “Hỗ trợ kinh phí để đầu tư xây dựng nhà công vụ cho giáo viên (hiện nay thiếu khoảng 500 phòng), nhà bán trú cho học sinh (hiện nay thiếu khoảng 800 phòng) và xây phòng thí nghiệm cho các trường (hiện nay các trường học ở tỉnh Lai Châu chưa có phòng thí nghiệm riêng mà đang phải bố trí phòng thí nghiệm cùng phòng thư viện hoặc phòng ở của giáo viên)”.

Trả lời:

Chương trình kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2008-2012 được thực hiện đối với các cơ sở giáo dục từ mầm non đến phổ thông trong phạm vi cả nước, với tổng số phòng học được xây dựng là 141.000 phòng và 1,6 triệu m2 nhà công vụ cho giáo viên.

Ngoài các phòng học và nhà công vụ cho giáo viên được xây dựng thuộc Chương trình, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố cần huy động thêm các nguồn vốn của địa phương và có kế hoạch sử dụng đúng mục đích nguồn kinh phí của Nhà nước hàng năm đầu tư cho các Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục đào tạo (Chương trình hỗ trợ phát triển giáo dục miền núi, biên giới, hải đảo và Chương trình tăng cường cơ sở vật chất các trường học) để xây dựng phòng thí nghiệm, thư viện, nhà ở bán trú cho học sinh, và các công trình phụ trợ khác theo quy định trong điều lệ trường học và trường chuẩn quốc gia.

28/ Cử tri tỉnh Đăk Lắc kiến nghị: “Chương trình 159 đã hoàn thành giai đoạn 1 nhưng hiện vẫn còn 2.144 phòng học tạm chưa đủ tiêu chuẩn. Đề nghị trung ương tiếp tục hỗ trợ thực hiện giai đoạn 2 kinh phí khoảng 100 tỷ đồng”.

Trả lời:

Sau gần 5 năm thực hiện, Chương trình Kiên cố hóa trường, lớp học theo Quyết định số 159/2002/QĐ-TTg ngày 15/11/2002 của Thủ tướng Chính phủ, các tỉnh, thành phố đã triển khai xây dựng được 74.216 phòng học kiên cố (trong đó có 48.595/59.572 phòng học đúng với danh mục các địa phương đã báo cáo tháng 8/2002, đạt tỷ lệ 81,6 % kế hoạch) để thực hiện mục tiêu xoá phòng học 3 ca, phòng học tạm thời tranh tre nứa lá; Tổng số vốn công trái giáo dục các tỉnh, thành phố đã giải ngân được 4.882,226 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 93,5%; Đến cuối năm học 2006-2007, cả nước đã có 289.110 phòng học kiên cố (chiếm tỷ lệ 52%) so với tổng số phòng học và 212.094 phòng bán kiên cố (chiếm tỷ lệ 38,2%). Như vậy, Chương trình Kiên cố hóa trường, lớp học giai đoạn 1 đã thu được kết quả và đạt được những thành tích đáng kể, có ý nghĩa về các mặt xã hội - nhân văn và kinh tế, cơ sở vật chất các trường học được tăng cường.

Tuy vậy, cơ sở vật chất trường học của ngành giáo dục và đào tạo vẫn còn nhiều khó khăn, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới nội dung, chương trình giáo dục phổ thông và phổ cập trung học cơ sở theo Nghị quyết 40 và 41 của Quốc hội khóa X.

Chương trình kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2008-2012 đã được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 20/2008/QĐ-TTg ngày 01/02/2008 được thực hiện đối với các cơ sở giáo dục từ cấp học mầm non đến các cấp học phổ thông trong phạm vi cả nước, với tổng kinh phí khoảng 25.000 tỷ đồng để xây dựng 141.000 phòng học và 1,6 triệu m2 nhà công vụ cho giáo viên. Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Tài chính đang hoàn chỉnh phương án phân bổ kinh phí cho mỗi địa phương. Dự kiến tỉnh Đăk Lắk sẽ được hỗ trợ 340 tỷ đồng từ chương trình này.

Sắp tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ phối hợp với các Bộ liên quan tổ chức hội nghị với các địa phương để triển khai Đề án và phân bổ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ phát hành năm 2008 hỗ trợ các địa phương thực hiện Đề án.

29/ Cử tri tỉnhThừa Thiên Huế kiến nghị: “ Sinh viên, học viên các trường Đại học Huế kiến nghị, hiện nay số luợng sinh viên của các trường đại học, cao đẳng ngày càng tăng nhưng Khu ký túc xá sinh viên của các trường chỉ đáp ứng được 10% số lượng sinh viên. Những sinh viên còn lại phải thuê nhà trọ của các hộ gia đình ngoài trường không bảo đảm điều kiện sinh hoạt và học tập, một số ít sinh viên bị ảnh hưởng của môi trường sinh hoạt không lành mạnh, kính đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư cân đối ngân sách hoặc hỗ trợ nguồn dự án để sớm đầu tư (theo kế hoạch được bộ duyệt 12 tỉnh trên toàn quốc)”.


Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn số: 1588

tải về 3.72 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   17   18   19   20   21   22   23   24   ...   48




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương