PHÁc thảo tình hình sản xuất nông nghiệP…



tải về 9.17 Mb.
trang13/26
Chuyển đổi dữ liệu08.05.2018
Kích9.17 Mb.
#37785
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   26



C¤NG T¸C TRÞ THñY Vµ THñY LîI
TRONG C¸C LµNG X· ë THõA THI£N HUÕ
D¦íI TRIÒU NGUYÔN (1802 - 1945)

T



KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO QUOÁC TEÁ VIEÄT NAM HOÏC LAÀN THÖÙ BA

TIEÅU BAN NOÂNG THOÂN, NOÂNG NGHIEÄP VIEÄT NAM TRUYEÀN THOÁNG



rần Văn Quyến*


Đặt vấn đề

Tổ tiên ta từ xa xưa đã biết lợi dụng nước sông lên để đem nước vào đồng ruộng. “Với nghề nông, người ta hiểu rằng khi giành được quyền chủ động trị thủy cho cây lúa thì điều đó sẽ đưa đến bao nhiêu đổi mới trong cuộc sống”148. Hệ thống thuỷ lợi nhằm ngăn ngừa nước lụt ở các sông lớn, đưa nước vào ruộng cao, làm cho bãi biển bồi lắng và hết mặn, kết nối các hệ thống sông lớn với nhau để khiến cho thế nước được quân bình.

Thừa Thiên Huế là vùng đất hẹp, địa hình không bằng phẳng, các sông đều ngắn và dốc, do đó nước lũ thường dâng rất nhanh và rút cũng nhanh, mùa mưa thường ngập úng dài ngày và mùa hạn thường nhiễm mặn. Triều Nguyễn (1802 - 1945) chưa hề đặt ra việc đắp đê hai bờ những sông lớn như ở miền Bắc, do đồng bằng như một dải chìa chân của dãy Trường Sơn nên sức nước chảy và lưu lượng nước vào mùa mưa lụt là rất lớn nên đê không thể chịu được. Các vua đầu triều Nguyễn (Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức) đã cho đào một loạt các con sông lớn như Như Ý (1805); An Cựu (1814); Phổ Lợi (1835); An Vân (1865)... Những con sông này trở thành những chi lưu thoát nước trọng yếu của sông Hương, sông Bồ mỗi khi lũ, lụt và cung cấp nước cho một vùng đồng bằng rộng lớn. Để tránh tình trạng xâm thực của các lưỡi nước mặn vào mùa khô, triều Nguyễn cũng đã cho xây dựng các con đập như An Truyền, Dương Nỗ, Quy Lai ở Phú Vang, đập Phú Bài ở Hương Thủy; đập Tô Đà, An Nông, La Bích ở Phú Lộc; đập Thai Dương ở Hương Trà. Những con đập này góp phần tăng diện tích đất trồng trọt, nâng sản lượng lương thực và giảm thiểu tình trạng nhiễm mặn. Triều đình cũng thường xuyên đốc thúc chỉ đạo việc nạo vét các dòng sông, kênh mương đảm bảo cho tưới tiêu. Trong các tập hợp luật lệ dưới triều Nguyễn như Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia Long)... nhà nước nghiêm cấm đối với việc phá hoại các công trình trị thủy, thủy lợi, buộc phải bồi hoàn, làm lại hay phạt trượng, tiền đối với những hành động phá hoại và thưởng hậu cho những người có công. Tuy nhiên các công trình trị thủy, thủy lợi ở Thừa Thiên Huế dưới triều Nguyễn nếu không có sự tham gia của nhân dân các làng xã thì không bao giờ có thể hoàn thành, duy trì và phát huy hiệu quả được.

1. Làng xã với việc xây dựng hệ thống các công trình trị thủy, thủy lợi

Hệ thống các công trình thuỷ lợi do nhà nước làm chưa thể đưa được nguồn nước đến tận các đồng ruộng. Nhà nước chỉ đầu tư xây dựng các công trình lớn, trọng yếu nhằm giữ và cung cấp nước cho toàn bộ đồng ruộng nhưng để đưa nước vào từng hộ dân thì làng xã phải tự tổ chức xây dựng hệ thống kênh mương đê đập ở địa phận thôn xã mình.

Từ những con sông do triều đình tổ chức khơi đào, năm 1820 dân xã An Vân và Đốc Sơ (Hương Trà) dinh Quảng Đức tâu xin miễn cho tạp dao 2 tháng để đào mương lấy nước tưới ruộng149. Năm 1821, binh dân xã An Lai thuộc Quảng Đức xin miễn 6 tháng lao dịch để cùng nhau đào sông tưới ruộng. Vua khen là chăm nghề nông, cho 100 phương gạo kho để giúp phí tổn150. Năm Minh Mạng thứ 18, vua chuẩn y lời tấu cho xã Thế Lại Thượng, huyện Hương Trà, vốn ở đây có một con sông cũ thuộc đoạn từ xã Kim Long đến Bao Vinh, vào thời Gia Long do đắp đường cái quan, nên nước sông bị tắc nghẽn, mỗi năm đến vụ lụt mùa thu, không tránh khỏi bị thế nước xói đập vì vậy cần khai đào cống nước cho được lưu thông. Năm 1881, “miễn trừ việc thuế mùa sưu dịch cho 2 giáp Thanh Thuỷ Chính và Thượng (thuộc phủ Thừa Thiên), khi ấy vua năng đi chơi hành cung Thuận Trực, mà một đoạn sông Lợi Nông (ở địa phận hai giáp ấy) nước nông cho nên đặc cách chuẩn cho được miễn trừ để chuyên việc khơi vét sông”151. Ở từng thời kỳ nhất định, tuỳ thuộc vào điều kiện địa phương mà các làng chủ động xin khơi đào các con sông (hói) nhỏ, chủ yếu là các mương máng để tiện việc đồng ruộng. Các hệ thống mương (kênh) chính (cấp I) chạy qua làng lại được chia thành các mương phụ (cấp II). Từ mương này, nước lại đưa tới các mương xương cá (cấp III), rồi chia thành các mương nhỏ chạy dọc theo các ruộng (mương chân rết - cấp IV). Những đường mương được nối với nhau bằng các cửa cống, cánh phai (ván) làm nhiệm vụ tháo hoặc giữ nước trong ruộng.

Trong các công trình của nhà nước đứng ra làm thì lao động của các làng xã vẫn chiếm đa số. Thường là triều đình bắt binh dân cùng nhau bồi đắp, nạo vét như việc đắp đê ở xã Thanh Hương (huyện Hương Trà), vua chuẩn cho phủ ấy phải liệu bắt binh dân góp sức bồi đắp trong vòng 3 tháng, hay sự hiệp lực của một vạn ba nghìn quân và dân đào sông An Cựu (1814); vét sông Ngự Hà (1826) gồm sự chung sức của 6.000 binh dân cùng làm. Triều đình có thể giao cho các phủ huyện trù tính thuê dân phu làm và trả công bằng tiền, gạo. Khi đào sông Phổ Lợi có 1.500 dân phu thường xuyên có mặt trên công trường, mỗi người mỗi ngày làm việc được cấp 3 phương gạo. Những người dân tham gia vét sông Hộ Thành được trả mỗi người một ngày là 40 trụ, gạo một bát152. Đối với các công trình tại địa phương, tuỳ mức độ công việc mà triều đình miễn binh dịch, lao dịch hoặc đưa binh đinh của làng về hợp lực làm như trường hợp đắp đê ở xã An Lưu năm Gia Long thứ 15, vua cho 3 hạng binh đinh rút về miễn công sưu 5 tháng để làm và khi công trình làm xong, làng xin cho 6 dân sở tại được miễn phu dịch hằng năm để giữ đê. Người dân ở các làng xã thấy rõ được lợi ích đem lại từ việc trị thủy thủy lợi nên họ chủ động, hăng hái tham gia, phối hợp cùng triều đình để công trình sớm hoàn thành. Trong văn bia sông Phổ Lợi (Quá Phổ Lợi hà cảm tác) còn ghi lại sự kiện dân 6 xã như Dương Nỗ, La Ỷ... nguyện đem hết già trẻ gái trai đến đào sông đủ thấy được tinh thần và trách nhiệm của người dân làng xã xứ Huế với công tác trị thủy thủy lợi.

Việc đào sông không thể tiến hành theo cá nhân mà trong từng làng, hoặc thậm chí liên làng, nhân dân hợp sức để cùng làm như trường hợp hai xã Lễ Môn và An Ninh (Lễ Môn thuộc Quảng Trị, An Ninh thuộc Quảng Đức), do “khe ngòi bị tắc, xin rút binh xã về để khơi đào”153. Các làng tự đứng ra làm thuỷ lợi dưới sự chỉ huy của cai đội làng như ở làng Hiền Lương dưới thời Minh Mạng: Cai đội Nguyễn Lương Nhàn và Hoàng Văn Gia đã trực tiếp chỉ huy binh lính cùng nhân dân trong tổng đào con mương lớn từ trảng cát trắng, lấy nguồn nước trong dải ngầm dãy Trường Sơn. Đây là công trình thuỷ lợi có ý nghĩa lớn, đã dẫn nước về tưới cho cánh đồng của làng Hiền Lương và các làng lân cận vào mùa nắng, tiêu nước cho vùng trũng Bàu Sen, Máng Nước vào mùa lũ. Nó thực sự góp phần thúc đẩy nghề nông của nhân dân và làm thay đổi cảnh quan trong vùng154.

Vào đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XIX, Trần Đình Túc được cử giữ chức Dinh điền sứ hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên, ông đã cùng với cụ vệ nông Hưng Bình giang Lê Dõng hướng dẫn dân làng đắp đập sông Truồi để ngăn nước mặn, giữ nước ngọt, chủ động tưới tiêu hàng vạn mẫu ruộng, biến đồng ruộng một vụ thành ruộng hai vụ ở hai tổng An Nông và Lương Điền. Trên 100 năm nay, đất phù sa sông Truồi được chặn lại và bồi đắp thêm hàng ngàn mẫu ruộng nhất đẳng điền ở các xứ Ba Gò, Cồn Nổi, Bàu Mới, Càng Cua, Đồng Rớ... Bằng kinh nghiệm cổ truyền, trí thông minh và tài sáng tạo, cụ Trần Đình Túc và Lê Dõng đã huy động nhân dân đắp thành công đập Truồi bằng cách sử dụng kỹ thuật uốn dòng, phương pháp phân dòng và kỹ thuật ngăn dòng có hiệu quả mà từ đó trở về trước chưa ai nghĩ ra. Với khả năng “vệ nông”, cụ Lê Dõng đã từng phối hợp với cụ lang ở Hà Trung (Phú Vang), huy động nhân công và tài lực, tiến hành đắp đập từ Bàu Trong ra tới Bàu Đước, khai hoang hàng trăm mẫu ruộng cạn, sau này chia cho con cháu trong họ. Cụ Lê Dõng vừa là người trực tiếp thi công, vừa là người đôn đốc và tự xuất tài lực ra để đắp đập Truồi, đem lại lợi ích cho làng, cho tổng, được hai lần vua ban sắc phong làm Dực Bảo Trung Hưng 翊保中興 (Duy Tân năm thứ 7) và Đoan Túc Tôn Thần 端肅尊神 (Khải Định năm thứ 3), được đặc cách thờ tại đình Bàn Môn sau khi qua đời155. Hiện nay ở xứ Cồn Nổi giữa hai đập Cửa Khẩu Lớn và Cửa Khẩu Nhỏ (đập Truồi) còn miếu thờ ông Lê Dõng ở đó, hàng năm cứ vào ngày giỗ, ngày xuống đồng, lên đồng nhân dân đều tổ chức cúng lễ, dâng cơm mới.

Bên cạnh các mương, hói tưới tiêu nước thì đê cũng được làng xã trực tiếp tiến hành đắp dưới sự chỉ đạo và theo dõi của chính quyền trung ương nhằm ngăn nạn nước lụt và giữ nước trong ruộng. Chẳng hạn năm 1828 “xã Phú Bài Thừa Thiên có con đê vệ nông, vì nước lụt xói lở, dân xã ấy xin phép cho biền binh xã ấy về góp sức bồi đắp. Sai phủ thần trù tính công việc cho 5 tháng”156. Hay năm 1832, Minh Mạng thứ 13, dân hai xã Vĩnh Xương (Phong Điền) và Thủ Lễ (Quảng Điền) có địa thế gần nhau, xin hiệp lực bồi đắp bờ đê đập vệ nông dẫn nước vào ruộng vì lâu ngày bị hư lở157. Năm 1839 “dân xã Diên Trường phủ Thừa Thiên (thuộc huyện Phú Vang) xin đắp con đê nhỏ ngăn nước ở phía tây sông Phổ Lợi, chỗ tiếp với sông lớn”158. Ở những làng gần biển, thì nhất thiết phải có đê ngăn mặn, tránh nạn triều cường. Ngoài những đoạn đê công của nhà nước thì từng làng chủ động đắp những đoạn đê xung yếu thuộc địa phận làng khiến đồng ruộng không bị nước mặn xâm lấn. Năm 1824, “xã Thanh Hương (thuộc huyện Quảng Điền) phủ Thừa Thiên trước có đê ngăn nước mặn, lụt lâu ngày đê sụt, dân sở tại xin nhờ các thân biền binh lính quê ở làng được nghỉ để góp sức bồi đắp. Vua sai phủ thần xét thực, cho nghỉ 3 tháng để làm”159. Tiếp đó năm 1825, dân xã Thanh Hương, lại xin mượn số biền binh ở trong sổ sách chung sức bồi đắp đê trong làng. Vốn đó là đê ngăn nước mặn và nước lụt lâu ngày đã bị hư lở160. Năm 1827 “xã Dương Nỗ (thuộc huyện Phú Vang) phủ Thừa Thiên có đê ngăn nước mặn bị nước lụt làm vỡ, dân xin miễn lao dịch để đắp cho lợi việc nông. Vua y cho”161.

Dưới thời Pháp thuộc, làng xã ở Thừa Thiên Huế vẫn tích cực chủ động tiến hành xây dựng các công trình thuỷ lợi địa phương khi mà nhà nước không còn quan tâm như thời kỳ trước nữa. Tuy nhiên do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của đất nước nên việc phát triển các công trình thủy lợi có nhiều khó khăn. Tính chất “dĩ nông vi bản” không còn, nên với bản chất bóc lột chính quyền thực dân không quan tâm tới việc phát triển thủy lợi ở đây. Các công trình thường phải rất cần thiết mới được tiến hành xây dựng như việc đắp đập Truồi, hệ thống thủy nông hỗn hợp trên sông Hương, đập ngăn mặn ở cửa biển Thuận An…

Năm 1930, hương lý trong làng Bàn Môn bắt nhân dân đắp đê khai hoang hai mẫu ruộng ở đầm Cầu Hai, trả công rất rẻ mạt, với mỗi ngày công lao động trả một bơ (lon) gạo162. Sự kiện này cho thấy nhà nước không còn quan tâm đặc biệt đến kinh tế nông nghiệp như giai đoạn độc lập (1802 - 1885) và làng xã tham gia xây dựng các công trình trị thủy với thái độ gượng ép chứ không phải là tinh thần tự nguyện như trước đó. Nhân dân ở Bàn Môn, Lộc An, Lộc Bổn, Thủy Tân (huyện Phú Vang và Phú Lộc) năm 1935 đã kết hợp với nhau đấu tranh quyết liệt yêu cầu chính quyền thực dân phong kiến phải tiến hành đắp đập Hà Trung ngăn mặn cứu đồng ruộng163.

Khi ruộng đất đã được bảo vệ bởi đê điều, để tránh tình trạng thiếu nước, mỗi tổng, mỗi làng đã dùng hệ thống ngòi, lạch, máng để dẫn nước vào ruộng thuộc địa phận của mình. Nhưng vào mùa cạn, lòng sông nước vơi đi, các ngòi lạch không đủ cung cấp nước cày cấy. Để chứa nước mà dùng trong mùa nắng, dân chúng ở các làng tự đào thêm ao, đầm. Để dẫn thuỷ vào ruộng, nông dân lấy nước ở các vũng, ao, hồ, và sông bằng sức người. Nông dân đưa nước vào ruộng bằng cách: Nơi mặt nước không thấp hơn mặt ruộng mấy, nông dân dùng gầu kéo hay gầu sòng. Nơi ruộng cao hơn mặt nước, nông dân dùng gầu dây do hai người tát. Ngoài ra họ còn dùng xe đạp nước để đưa nước vào ruộng. Chỗ ruộng thấp thì dùng một cái, chỗ cao thì chia nhiều bậc, mỗi bậc một cái164. Nhà nước và nhân dân cùng làm, nhưng tính chủ động và đoàn kết luôn được người dân phát huy, bởi công việc đào các kênh mương, đắp đê kè đập liên quan trực tiếp tới lợi ích của bản thân những người dân, do vậy không cần đợi có chỉ dụ của triều đình mà họ đã tự hoàn chỉnh dần hệ thống thuỷ lợi cấp cơ sở, để bảo vệ quyền lợi không chỉ bản thân mỗi cá nhân gia đình mà còn là của cả cộng đồng.



2. Làng xã với việc duy tu và quản lý hệ thống các công trình thủy lợi

Việc quản lý các công trình thuỷ lợi được làng xã rất quan tâm. Hầu như trong tất cả các bản hương ước được viết trong giai đoạn 1802 - 1945 và trước đó165 đều quy định rất rõ về việc đắp đê phòng chống lụt, hộ đê, coi sóc, kiểm tra các tuyến đê trong và các công trình dẫn thuỷ nhập điền trong làng.

Năm Minh Mạng thứ 17 tháng chạp ngày mồng 3 (1836), lý trưởng, dịch mục xã Phú Bài đệ tờ trình xin cấm trâu bò, vịt và người làm nghề cá đến địa phương vào tàn phá đê đập và ách tắc mương phai để giữ gìn ruộng đồng mới có thể nộp đủ tô thuế166. Trong Điều lệ xã Đông Xuyên huyện Quảng Điền năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) ở điều khoản 12 và 13 nghiêm cấm thả trâu bò dẫm đạp bờ đập, chặt phá tre ở hai bên bờ đê ở xứ Miếu Đồng trong xã. Khi vào dịp canh tác thì chỉ cho trâu bò đi một lần còn ngày thường thì cấm tuyệt đối. Nếu có người nào đó phạm phải thì lý trưởng sai người mời các viên chức trong làng họp lại ở đình, cứ theo sự sai phạm của người ấy mà thu phạt một con lợn trị giá 5 quan và một bàn trầu cau rượu; ngoài ra còn thu thêm tiền hai quan để thưởng cho người phát hiện và bắt được quả tang. Nếu người có hành vi cưỡng ngạnh không chịu nộp phạt thì bản xã đem việc ấy trình lên quan trên để cho phép trừng trị.

Khi đồng ruộng đã được gieo cấy xong thì trâu bò phải “thả đến nơi hoang nhàn để chăn đón, không được cho trâu bò ăn trên đường bờ ruộng, nếu ai bắt được kẻ phạm phải điều ấy thì người có trâu bò bị phạt một tiền, trước hết là thưởng cho người bắt”, điều này được quy định cụ thể trong Điều lệ xã An Gia năm Tự Đức thứ 35 (Điều khoản 20). Ngoài ra ở điều thứ 43 nhắc nhở: “phàm những đường nhánh nước chảy trong xã, hễ người nào tự tiện đắp lại bắt cá, người phát hiện trước sẽ được thưởng tiền một quan, người bị bắt phải chịu phạt vạ một heo và một bàn trầu cau rượu” để tránh làm tắc dòng và phá hỏng bờ mương, đê đập.

Hương ước làng Phù Bài cho biết năm Minh Mạng thứ 12 (1831) làng có đơn xin huyện cho phép cấm những người đánh cá, nuôi vịt, trâu bò không được đi qua các bờ đê đập thủy lợi để bảo vệ khỏi bị sụt lở. Ở các điều 9, 10, 11, làng cũng quy định: răn tất cả các hạng người trong xã từ nay trở đi hai bên bờ khe đập nếu ai quật phá để cày cấy thì cũng chịu phạt; răn viên chức, viên lính hương trưởng đồng thuận định cho ai ăn lương điền và khẩu phần điền ở gần sông lớn, đường nhỏ thì trừ dư ra 5 thước, nếu gần khe nhỏ thì nên dư 3 thước. Nếu ai không tuân thì phải trịu trách nhiệm; răn từ nay hai bên bờ sông và các rạch lớn nhỏ đến kỳ hạn hán nên được đưa nước vào ruộng để cứu lúa nhưng đến tháng 7 thì tất cả phải đắp lại để khỏi nước lụt sạt lở. Nếu ai không tuân thì phải chịu trách nhiệm167.

Ở làng Bàn Môn công việc chính của cư dân trong làng là làm ruộng do vậy họ rất chú ý đến đê đập, sông ngòi. Theo lời các cụ già kể lại thì hàng năm các mương ngòi trong làng trước khi gieo một tháng đều được tiến hành nạo vét định kỳ và bất kỳ hộ gia đình nào cũng tham gia, nếu có một mẫu ruộng thì phải có


2 người, 3 sào đến 5 sào thì phải có 1 người tham gia làm đường đê, vét kênh mương ở khu vực đồng ruộng lân cận ruộng nhà mình. Khi ruộng đã được làm xong, các kênh mương đã được nạo vét, đê đập được gia công kiên cố, và ruộng cần phải được giữ nước để xuống giống do vậy việc bảo vệ nguồn nước là quan trọng. Trước khi gieo, làng cắm một cây nêu ở đầu làng, cột 3 cái roi trên đó, theo đó người dân hiểu được là không được đưa trâu bò ra phá, phải đi cắt cỏ về trữ sẵn trong nhà cho trâu bò ăn. Ngày hôm sau mõ làng đi thông báo tới từng hộ bằng bài rao:

Cấm trâu leo kè,

Cấm nghé leo dường.

Cấm đập cấm đường,

Bao nhiêu cấm hết.

Riêng đối với đập Truồi - công trình quan trọng nhất của làng thì quy định hàng năm mỗi tráng đinh phải làm nghĩa vụ góp một gánh bổi để đắp đập lại ngăn mặn giữ nước. Thường ngày luôn có hai cai đề coi giữ đập, làm nhiệm vụ giữ gìn bảo vệ, nếu có thuyền bè qua lại thì giúp thuyền bè qua cửa trượt. Nếu đồng ruộng thừa nước thì tháo mở con đè ra, ngược lại thì nắp thêm con đè và đổ thêm bổi đất, mùa lũ thì xả đập để tránh nạn lụt. Cai đề được làng cấp cho một mảnh ruộng lấy hoa màu để trả lương, ngoài ra hàng ngày khi có thuyền bè qua lại thì có thu tiền khi giúp họ qua đập.

Về việc coi sóc tu bổ hệ thống thủy lợi của từng làng hàng năm đều được chú ý chỉnh trang, trách nhiệm giao cụ thể cho từng người. Trong Điều lệ xã An Gia định lệ cứ tháng giêng, tháng hai, tháng ba, tháng bảy hàng năm thì lý dịch phải sức dân dự phòng tu bổ các nơi cầu cống đường sá, đê điều trong xã (điều 21). Quy định “các vị viên nhân trong xã, ai là người canh tác ruộng vụ thu thì phải chịu trách nhiệm đào mương ở phần ruộng mình. Từ tháng 3 đến tháng 4, đều phải khai quật phần mương của ruộng mình theo chiều rộng của mương là
5 thước, chiều sâu là 3 thước. Nếu vị nào không có sức cày cấy mà phải cho người khác mượn ruộng công ấy thì giao phần mương ấy cho người mướn phải khai quật. Đến hạn, lý dịch đến kiểm soát mà phần mương ấy vẫn còn bỏ dở không đào thì cho đó là điều trái với hạn định. Bản xã thu lại ruộng ấy cho người khác mượn để họ khai quật đoạn mương ấy. Chủ mướn chớ có ăn năn” (điều 53).

Trong giai đoạn 1885 - 1945, làng xã vẫn tham gia tích cực vào việc quản lý hệ thống thuỷ lợi. Khoán ước xã Phong Lai ngày 1 tháng 2 năm Thành Thái thứ 13 nghiêm cấm việc đi tắt làm sụt lở dãy đê quai để bảo hộ nhà cửa và phòng ngừa nước lụt nếu trái phạt tiền 3 quan và thu thêm 1 quan nữa để thưởng cho người phát giác. Nếu kẻ nào đó cắt cỏ chặt cây mà bị bắt được thì phạt tiền 15 quan. Nếu để cho trâu bò dẫm đạp thì phạt tiền 10 quan và thu thêm 3 quan để thưởng cho người bắt được. Hàng năm vào hạ tuần tháng 7 tri hương đến khám xét từng nơi, nếu nơi nào cây cỏ xanh tốt thì xuất tiền 5 quan để thưởng cho người có công. Nếu nơi nào có dấu vết sai sót thì thủ khoán phải chịu trách phạt 3 quan và phải chịu bồi đắp như cũ ở (điều khoản thứ 37). Ở điều 2 Điều cấm xã Thủ Lễ (ngày 19 tháng 3 năm Khải Định thứ 10) giao trách nhiệm cho lý dịch đôn đốc dân tuân thủ quy định và phải thường xuyên gia tâm kiểm tra. Nếu lý dịch vì tình mà cho người ta làm bậy, khi sự việc bị phát giác thì bị bãi dịch ngay. Người canh giữ sẽ bị thay nếu để cho trâu bò qua lại dẫm đạp hoặc người đào bới trên bờ đê ngăn (Điều lệ xã Dã Lê Thượng, khoản 14).

Việc xây dựng nhà ở nơi quan yếu, cạnh đê đập, bất kể quan viên, lính tráng, già lão hay nhân dân thì đều phải trình lên lý trưởng, hội đồng với hương chức xem xét được hay không. Nếu thuận cho ai thì vuông đất bề dài 12 thước (thước mộc) bề rộng tuỳ theo bờ đê bên đường đắp đất đúng y như cũ, không được đào phá đường đê, vùi lấp bờ sông (Tờ cấm điều của xã Thủ Lễ (Quảng Điền) khoản 2).

Hương ước Giáp Chánh xã Thanh Thuỷ (Thanh Thuỷ Chánh, huyện Hương Thuỷ) ngày 20 tháng 7 năm Bảo Đại thứ 17 nghiêm cấm việc khai phá trồng trọt ở bờ sông lớn nhỏ, những chỗ đựng nước vào ruộng, dùng đường nước ngầm. Nếu ai làm trái phạt tiền 10 quan, thưởng cho người bắt được 5 quan (khoản 15). Đối với các đường ngang dọc trên ruộng vào lúc lúa đã thành hàng sắp chín, nhất thiết không được đánh cá, bờ đê và bờ sông ở trong vùng đồng ruộng không được thả trâu qua lại tụ họp thành bầy. Làm trái phạt chủ chăn tiền 5 quan và 1 năm trầu rượu; đánh người chăn 10 roi để răn, ai bắt được cho thưởng tiền 3 quan (điều khoản 14 và 17).

Bộ máy hành chính làng xã, quản lý cao nhất là lý trưởng hay chánh lý, dưới có ngũ hương trong đó hương mục chịu trách nhiệm trong việc quản lý đê đập, đường sá, cầu cống, huy động nhân công để tiến hành xây dựng các công trình trị thủy, thủy lợi, đôn đốc, đốc thúc công việc hàng năm. Ngoài ra hương kiểm có nhiệm vụ tuân phòng canh giữ trật tự trị an trong làng xóm, báo động khi có nguy cơ sạt lở đê điều, phòng chống lụt bão… Trong các làng xã xứ Huế có xây dựng điếm canh, cử tuần đinh canh phòng, thường xuyên đi kiểm tra những công trình công cộng trong đó có hệ thống thủy nông để bảo vệ trật tự xã hội và lợi ích chung của cộng đồng.



3. Kết luận

Công tác trị thủy, thủy lợi ở Thừa Thiên Huế dưới triều Nguyễn (1802 - 1945) đã đạt được những thành tựu to lớn làm thay đổi bộ mặt kinh tế, xã hội cũng như cảnh quan môi trường ở chốn kinh đô. Để có được kết quả đó, trước hết phải thấy được chính sách của các vị vua Nguyễn và vai trò trực tiếp quan trọng của từng người dân trong các làng xã Thừa Thiên Huế trong công cuộc trị thủy, thủy lợi đầy khó khăn vất vả ở vùng đất nắng lắm, mưa nhiều này. Các công trình trị thủy và thủy lợi ở cấp độ làng xã có tác dụng lớn đối với việc sản xuất nông nghiệp cũng như phục vụ cuộc sống, cung cấp nguồn nước cho sinh hoạt, cho đồng ruộng, thuận lợi giao thông đi lại… Người dân làng xã Thừa Thiên Huế trong quá trình phát triển của mình không chỉ đơn thuần bị thiên nhiên chi phối mà còn chi phối trở lại thiên nhiên để làm lợi cho cuộc sống. Nhiều nơi trước kia không trồng được cây gì vì thiếu nước, độ ẩm thì với nguồn nước dồi dào, đất đai màu mỡ đã có thể trồng được nhiều loại cây, năng suất tăng cao, từ ruộng một vụ chuyển sang hai vụ.

Quá trình trị thủy, thủy lợi làm cho quan hệ giữa làng xã và nhà nước ngày càng trở nên gần gũi, có sự qua lại tương tác lẫn nhau, cùng xây dựng, quản lý và phát triển nguồn lợi nước. Làng xã là đối tượng trực tiếp và đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng thủy lợi. Đứng trước yêu cầu trị thủy, người nông dân thấy rõ được vai trò, ý thức, trách nhiệm của mình dù cho đó là công trình của nhà nước hay của làng xã. Công tác trị thủy, thủy lợi như một sợi dây cố kết người dân lại với nhau bởi “nhà cửa ruộng vườn của cả làng bị ngập lụt thì nhà cửa ruộng vườn của mỗi người không thể không bị ngập lụt. Cả làng mất mùa thì mỗi nhà không thể không mất mùa”168. Thông qua việc kết hợp cùng nhau làm việc, tính cộng đồng làng xã ngày càng được phát huy cao độ, kinh tế đảm bảo là điều kiện đầu tiên quyết định các công việc khác, góp phần bảo lưu các giá trị vật chất và tinh thần của làng xã qua các thời kỳ lịch sử.

Ngày nay, lũ lụt vẫn là vấn đề quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người dân. Để góp phần phòng chống và giảm thiểu những nguy cơ từ lũ lụt gây ra cần phát huy hơn nữa sự kết hợp giữa nhà nước và nhân dân cùng làm, làm cho người dân thấy được quyền lợi và trách nhiệm của họ đối việc trị thủy, thủy lợi ở bản thân mỗi làng, liên làng và trong cả nước. Việc nhận thức và thấy được vai trò cũng như tác động to lớn của làng xã trong công cuộc trị thủy không chỉ có ý nghĩa trong quá khứ mà nó thực sự có ý nghĩa trong hiện tại và tương lai ở cả nước nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng trong vấn nạn lũ lụt hàng năm.





CHUYÓN BIÕN CñA N¤NG NGHIÖP
Vµ X· HéI N¤NG TH¤N B¾C TRUNG Kú
THêI THUéC PH¸P

T



KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO QUOÁC TEÁ VIEÄT NAM HOÏC LAÀN THÖÙ BA

TIEÅU BAN NOÂNG THOÂN, NOÂNG NGHIEÄP VIEÄT NAM TRUYEÀN THOÁNG





S Trần Vũ Tài*


Đặt vấn đề

Nông nghiệp là ngành kinh tế thu hút sự quan tâm của thực dân Pháp trong quá trình khai thác thuộc địa ở Việt Nam. Sau Thế chiến I, đầu tư cho nông nghiệp được mở rộng và chiếm vị trí hàng đầu trong cơ cấu đầu tư của giới thực dân. Quá trình khai thác của tư bản Pháp đã thúc đẩy nông nghiệp thuộc địa có nhiều chuyển biến. Yếu tố tư bản chủ nghĩa (TBCN) xâm nhập vào nông nghiệp đã thúc đẩy sự chuyển biến của xã hội nông thôn, diện mạo nông nghiệp, nông thôn có nhiều thay đổi. Nước ta chuyển sang hình thái kinh tế thuộc địa có nhân tố TBCN. Ngoài những hạn chế do chính sách bóc lột của giai cấp thống trị, kinh tế nông nghiệp nước ta cũng có những đổi thay tích cực nhất định.

Bắc Trung Kỳ (Nord - Annam) - theo cách phân chia của người Pháp gồm các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh - là khu vực có nhiều nét tương đồng về địa lý tự nhiên - xã hội, có tiềm năng để phát triển kinh tế nông nghiệp, có sức hấp dẫn đối với các nhà canh nông. Để hạn chế ảnh hưởng của chính quyền Nam triều, khai thác cả vùng đất “bảo hộ”, thực dân Pháp rất chú ý đến khu vực này. Dưới tác động khách quan của quá trình khai thác, nông nghiệp Bắc Trung Kỳ có những chuyển biến đáng kể theo hướng TBCN, làm thay đổi diện mạo nông nghiệp, nông thôn khu vực.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, nông nghiệp, nông thôn Thanh - Nghệ - Tĩnh có nhiều thay đổi quan trọng. Tuy nhiên trong quá trình chuyển đổi cơ chế hiện nay, các doanh nghiệp quốc doanh tỏ ra lúng túng, các hợp tác xã hoạt động kém hiệu quả. Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở khu vực đang gặp nhiều trở ngại. Từ thực tế trên, chúng tôi thiết nghĩ, nghiên cứu sự chuyển biến của kinh tế nông nghiệp Bắc Trung Kỳ thời Pháp thuộc có giá trị khoa học và thực tiễn sâu sắc, giúp ta nhìn nhận đầy đủ và sâu sắc hơn công cuộc khai thác thực dân ở một khu vực, góp phần hiểu đầy đủ hơn về chế độ thuộc địa ở nước ta.



1. Biến đổi bước đầu trong kinh tế nông nghiệp Bắc Trung Kỳ từ 1884 đến 1918

1.1. Những tiền đề thúc đẩy sự chuyển biến của nông nghiệp Bắc Trung Kỳ

Đẩy mạnh công cuộc khai thác thuộc địa và “đảm bảo an ninh”, thực dân Pháp đã đầu tư xây dựng hệ thống giao thông gồm đường sắt, đường bộ, đường sông, cầu cảng nối liền các khu vực kinh tế trong và ngoài Bắc Trung Kỳ, nối liền với Lào. Bộ trưởng Bộ thuộc địa trong bức thư gửi Toàn quyền Đông Dương ngày 23/6/1894 đã nhấn mạnh: “Cải thiện những đường giao thông và đường xâm nhập, đó là những nét lớn, những vấn đề trước mắt, sự giải quyết những vấn đề này ngày càng được nhiều người lưu tâm tới”169. Hệ thống đường sắt Hà Nội - Vinh khởi công năm 1900 và hoàn thành năm 1905, dài 312km, tốn phí 43 triệu franc170. Toàn quyền Đông Dương Anbe Xarô thừa nhận: “Đường sắt phải có mục đích đưa tới cửa bể và nhận ở đó tất cả khối lượng vận chuyển. Người ta sẽ phí công trồng các thứ để xuất cảng nếu không chở các thứ đó đi được”171. Hệ thống đường bộ cũng được mở rộng và xây dựng mới. Đường cái quan (quốc lộ 1) đã được tu sửa, uốn nắn nhiều lần, “đẹp chẳng khác nào đường lớn ở nước Pháp”172. Đặc biệt, đường bộ nối khu vực Bắc Trung Kỳ với Lào được đầu tư xây dựng. Năm 1893, đường số 7 từ Vinh đi Trấn Ninh (Lào) dài 515km bắt đầu được xây dựng, đường số 8 từ Vinh đi NaPê dài 272km nối liền Hà Tĩnh với Lào cũng được khởi công. Cảng Bến Thuỷ được đầu tư xây dựng, có ý nghĩa rất lớn trong việc xuất khẩu hàng nông, lâm, thổ sản. So với cảng Đà Nẵng, cảng Quy Nhơn, thì cảng Bến Thuỷ được xem là quan trọng bậc nhất Trung Kỳ. “Không có những đường bộ, những đường sắt và những kênh đào, các doanh nghiệp chắc sẽ không tiến hành được hoạt động sản xuất và người dân bản xứ chắc sẽ gặp nhiều vấn đề về con người và kinh tế”173.



Một số dự án thuỷ nông được chính quyền thuộc địa cho khảo sát, thực nghiệm. Boulloche - Khâm sứ Trung Kỳ - đã đề ra việc khảo sát hệ thống dẫn thuỷ nhập điền ở Thanh Hoá. Công trình nghiên cứu đầu tiên được tiến hành vào năm 1898 là của kỹ sư Buaru. Dự án được tiến hành trong phạm vi 15.000ha ở phủ Thọ Xuân, chi phí 30 vạn đồng do chính quyền Nam triều trợ cấp, nhưng công trình phải bỏ dở vì nguồn kinh phí không đủ đáp ứng. Đến năm 1911, dự thảo về việc đào một con kênh từ Thanh Hoá vào Vinh đã đề cập tới việc tưới nước cho 25.000ha. Tiến độ thực hiện dự án kéo dài và trải qua nhiều thời kỳ khó khăn, cuối cùng phải ngừng lại do thiếu kinh phí và nhân công. Năm 1913, kỹ sư Normandin - sau khi hoàn thành nghiên cứu dẫn thuỷ nhập điền ở Ấn Độ và Giava - được giao trách nhiệm nghiên cứu nông giang ở Thanh Hoá. Ông đề ra hướng giải quyết mới: xây dựng một nhà máy thuỷ điện 1.200 mã lực bằng cách sử dụng thuỷ lực của một thác nước cao 4m. Dùng năng lượng để bơm nước tưới cho 50.000ha trên tả ngạn sông Chu và sông Mã174.

Chính sách khuyến khích lập đồn điền: Sau khi hoàn tất công cuộc “bình định” khu vực Bắc Trung Kỳ, chính quyền thuộc địa tuyên bố: “Không còn sợ các lực lượng đối kháng quấy rối nữa, có thể bắt tay vào việc mở mang và đẩy mạnh phát triển kinh tế”. Tiến hành công cuộc khai thác, thực dân Pháp đã chú trọng đến việc mở mang đồn điền kinh doanh nông nghiệp. Một quan chức thực dân cho rằng: “Cái mà người Âu đến đây tìm kiếm không phải là 1 lô đất để tự trồng cấy. Đó là 1 cơ sở kinh doanh lớn để điều khiển”175. Ngoài mục đích kinh tế (tìm kiếm lợi nhuận), đồn điền còn mang sứ mệnh chính trị (“đảm bảo sự yên ổn ở những vùng rối loạn”) và xã hội (“đưa các loại cây mới vào trồng để thu hút bớt dân cư ra khỏi đồng bằng đông đúc”)176. Không riêng Bắc Trung Kỳ, đồn điền được mở rộng trong cả nước, trở thành một đặc trưng của kinh tế nông nghiệp Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

1.2. Biến đổi bước đầu của kinh tế nông nghiệp Bắc Trung Kỳ

Kinh tế đồn điền phát triển mạnh và là một nhân tố mới làm biến đổi nông nghiệp khu vực. Tuy có muộn hơn so với nơi khác nhưng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đồn điền lần lượt được thiết lập ở Bắc Trung Kỳ. Từ các “đồn sơn phòng” thời quân chủ, các đồn điền dần được mở rộng. Việc phát hiện ra vùng đất đỏ và sự xuất hiện của cây cà phê khiến cho kinh tế đồn điền có nhiều khởi sắc. Gauthier là người tiên phong trong công việc này. Từ những năm 1900, qua việc khảo sát địa chất Thanh Hoá, ông đã thấy những vùng đất có thể trồng cây công nghiệp và chăn nuôi đại gia súc, “những bãi cỏ lượn sóng, những khu rừng thưa gợi lên phong cảnh đâu đây của nước Pháp”177. Từ một nhà khai mỏ, ông chuyển sang kinh doanh nông nghiệp và trở thành một nhà canh nông có tiếng, mở đầu cho các hoạt động khai khẩn vùng đất đỏ Thanh Hoá. Theo chân Gauthier, nhiều nhà thực dân đã xin đất lập đồn điền để trồng cây công nghiệp. Từ Thanh Hoá, đồn điền được mở rộng sang Nghệ An. Việc phát hiện ra vùng đất đỏ, sự xuất hiện của cây cà phê là những nhân tố quan trọng thúc đẩy đồn điền ở Bắc Trung Kỳ mở rộng. Năm 1912, Gauthier bắt đầu khai khẩn đồn điền ở Yên Mỹ178. Sau nhiều lần mò mẫm, Gauthier nhận ra rằng: “tháng 9 sau mùa mưa lớn, trồng cây cà phê là thích hợp nhất”179. Nhờ sự kiên trì, việc khẩn hoang trồng cà phê của ông cũng gặt hái những kết quả nhất định. Đồn điền của Gauthier đã trồng được 10.000 gốc cà phê Arabica. Sự thành công bước đầu của Gauthier ở đồn điền Yên Mỹ đã khích lệ rất lớn đến giới điền chủ. Năm 1914, Garand lập đồn điền ở Như Xuân, tiếp đó là hàng loạt đồn điền khác được lập ở Thọ Xuân, Cẩm Thuỷ, Yên Định. Cũng trong năm 1914, vùng Phủ Quỳ trở thành một nơi thu hút giới điền chủ, theo tài liệu của Phòng Canh nông và Thương mại Trung Kỳ đã có một số đồn điền được đưa vào sử dụng như đồn điền của Walther, đồn điền của Hội Lapicque và Công ty
(P.A. Lapicque et Cie). Từ năm 1910 đến hết Thế chiến I, số lượng đồn điền ở Bắc Trung Kỳ càng được mở rộng, diện tích cũng tăng lên đáng kể180.

Sở hữu ruộng đất đã có sự chuyển biến bước đầu. Ruộng đất công làng xã tiếp tục bị thu hẹp, mở đường cho mô hình sở hữu lớn của tư nhân phát triển. Mức độ chiếm đoạt ruộng đất của địa chủ Pháp, nhà Chung và địa chủ phong kiến ngày càng mở rộng. Sở hữu ruộng đất công bị thu hẹp một phần là do mức độ tập trung ruộng đất của thực dân ngày càng lớn. Chính quyền thuộc địa đã dùng quỹ ruộng đất thuộc “công điền, công thổ” mà họ xem là đất hoang để cấp nhượng cho các nhà thực dân lập đồn điền. Sự phát triển của kinh tế đồn điền là một nhân tố làm biến đổi quyền sở hữu ruộng đất. Ngoài lực lượng điền chủ, các nhà truyền giáo, cố đạo cũng tập hợp lực lượng con chiên khai khẩn đất đai, bao chiếm ruộng đất. Bên cạnh đó, địa chủ, cường hào địa phương đã ra sức cướp đoạt ruộng đất của nông dân, lập những trại ấp rộng lớn. Sự tập trung ruộng đất của thực dân, địa chủ phong kiến, nhà Chung là lý do khiến cho ruộng đất công ngày càng bị hạn chế, mở đường cho sở hữu lớn của tư nhân phát triển. Cho đến hết Thế chiến I, nhiều đồn điền có diện tích hàng trăm ha ra đời181. Sự dung dưỡng của chính quyền thuộc địa là điều kiện để nhà thờ phát triển sở hữu dưới nhiều hình thức khác nhau: Ruộng đất do nhà Chung tậu, do sự quyên cúng của giáo dân, do chính quyền thực dân cấp cho, ruộng đất khai khẩn của cha cố… Nhiều địa phương ở Bắc Trung Kỳ, ruộng nhà Chung lên tới hàng trăm ha: Nga Sơn (Thanh Hoá), Xã Đoài (Nghệ An), Đức Thọ (Hà Tĩnh) là những nơi đạo Thiên chúa phát triển, ở đó ruộng đất của nhà Chung là tương đối lớn. Đó là chưa kể ruộng đất của các cố đạo mộ con chiên, giáo dân khai khẩn. Niên giám thống kê Đông Dương ghi nhận sự có mặt của 2 cố đạo là Charles, Rigain. Họ mộ dân khai phá ở vùng trung du Nông Cống, Như Xuân để lập những đồn điền đầu tiên. Sau đó là hàng loạt các cha cố, giám mục khác: Marcou (giám mục ở Phát Diệm, lập đồn điền 339ha ở Điền Trạch, Thọ Xuân); P.Canilha (truyền giáo ở Quan Hoá, lập đồn điền rộng 132ha ở Hữu Thuỷ, Hữu Xuyên, Quan Hoá); Landrieu (truyền giáo ở Tĩnh Gia, lập đồn điền 49ha); Klingler (cố đạo ở Yên Thành, lập đồn điền 450ha ở Bảo Nham); Laygue (giám mục Xã Đoài lập đồn điền ở đây); nhà thờ Cầu Rầm (bao chiếm hàng trăm mẫu ruộng xung quanh giáo phận Vinh).

Canh tác nông nghiệp có những biến đổi bước đầu. So với trước năm 1884, diện tích trồng lúa ở Bắc Trung Kỳ tăng lên nhờ các biện pháp dẫn thuỷ nhập điền, khai hoang phục hoá cũng như sự “ổn định” về chính trị. Người dân sau khi tha phương cầu thực vì chiến tranh dần dần trở về quê quán. Hệ thống thuỷ nông được nạo vét, mở mang, một số công trình dẫn thuỷ nhập điền tự chảy được thử nghiệm,... là những nguyên nhân khiến cho diện tích gieo trồng tăng lên. Mặc dù chưa có các công trình dẫn thuỷ nhập điền lớn nhưng việc hệ thống thuỷ nông được cải tạo, đê điều được gia cố dưới sự hướng dẫn về kỹ thuật của các kỹ sư người Pháp khiến cho thuỷ tai bước đầu được hạn chế. Bên cạnh đó, những hoạt động nghiên cứu về giống và các khuyến cáo về kỹ thuật của trạm giống Yên Định đã góp phần cải tiến nghề trồng lúa ở khu vực Bắc Trung Kỳ. Theo Niên giám thống kê Đông Dương, đến năm 1919, Thanh Hoá có khoảng 220.000ha ruộng (70.000ha 1 vụ, 150.000ha 2 vụ). Nghệ An có 150.000ha ruộng (40.000ha 1 vụ, 110.000ha 2 vụ). Hà Tĩnh có 120.000ha ruộng (70.000ha 1 vụ, 50.000ha 2 vụ). Trong tổng số diện tích gieo trồng ở Trung Kỳ năm 1919 là 1.100.000ha thì Bắc Trung Kỳ có 490.000 ha182 - chiếm gần 45% diện tích.

Đặc biệt là một số cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao bắt đầu được du nhập vào Bắc Trung Kỳ, nhất là cây cà phê. Sau thành công của Gauthier ở đồn điền Yên Mỹ, diện tích trồng cà phê không ngừng được mở rộng. Điều đó có ý nghĩa đáng kể trong việc khai khẩn vùng đất đỏ ở miền trung du vốn trước đây vẫn còn hoang hoá. Ban đầu, cà phê được trồng thành hàng rào nhà thờ ở Hương Khê (Hà Tĩnh)183. Đến đầu thế kỷ XX, cây cà phê được trồng trong các đồn điền người Pháp ở Hương Sơn, Hương Khê. Năm 1908, cây cà phê từ nam Ninh Bình, vượt qua đèo Đồng Giao thâm nhập vào Thanh Hoá. Bước đầu, cà phê được trồng thử nghiệm ở vùng khai hoang giữa Bỉm Sơn và Ngọc Trạo. Năm 1912, Gauthier khai thác đồn điền Yên Mỹ, hơn 10.000 gốc cà phê Arabica được trồng thành công ở đây, điều đó đã khuyến khích các điền chủ xin nhượng đất lập đồn điền trồng cà phê. Cho đến năm 1918, hệ thống đồn điền trồng cà phê được thiết lập ở Bắc Trung Kỳ. Canh tác cà phê ở giai đoạn này đang trong quá trình thử nghiệm, mò mẫm. Diện tích trồng trọt chưa lớn, cà phê cho thu hoạch chưa nhiều, sản lượng cà phê không đáng kể. Nhưng cây cà phê xuất hiện đã mở ra một hướng canh nông mới thu hút sự quan tâm của giới điền chủ. Từ những bước đi ban đầu này, trong đợt khai thác thuộc địa lần thứ hai, thực dân Pháp biến Bắc Trung Kỳ thành nơi chuyên canh cà phê vào loại lớn nhất Đông Dương thời bấy giờ.

2. Những chuyển biến trong kinh tế nông nghiệp Bắc Trung Kỳ từ 1919 đến 1945

2.1. Mở rộng đầu tư khai thác thuộc địa

Sau Thế chiến I, thực dân Pháp tiến hành đầu tư ồ ạt vào Đông Dương (nhất là Việt Nam) với tốc độ nhanh và quy mô lớn. Sự điều chỉnh chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã tác động đến tình hình kinh tế nông nghiệp


Bắc Trung Kỳ. Số vốn đầu tư tập trung vào công tác thuỷ lợi, dẫn thuỷ nhập điền. Thực dân Pháp đầu tư xây dựng hệ thống thuỷ nông tương đối quy mô và hiện đại. Hai công trình thuỷ nông lớn là đập Bái Thượng - hệ thống thuỷ nông sông Chu (Thanh Hoá); đập Đô Lương - hệ thống sông đào bắc Nghệ An lần lượt được hoàn thành. Hai công trình dẫn thuỷ nhập điền tầm cỡ này xuất hiện đã làm thay đổi đáng kể diện mạo nông nghiệp Bắc Trung Kỳ.

Năm 1918, Toàn quyền Albert Sarraut chuẩn y bản thiết kế công trình dẫn thuỷ nhập điền ở Thanh Hoá, kinh phí thực hiện công trình được trích từ ngân sách chung Đông Dương. Sau 2 năm chuẩn bị, công trình khởi công ngày 28/3/1920 và đến ngày 27/8/1928 thì được bàn giao chính thức cho Sở Thuỷ nông. Công trình thuỷ nông sông Chu hoàn thành đã làm thay đổi diện mạo nông nghiệp Thanh Hoá. Diện tích 60.000ha ruộng được chủ động tưới nước và có thể gieo trồng 2 vụ. Năng lực gieo trồng ở tả, hữu ngạn sông Chu được đánh thức, “cuộc sống nông nghiệp của Nông Cống được khởi sắc từ khi có nông giang chảy qua”, “Nông Cống trở thành nơi xuất gạo đi các nơi và câu “được mùa Nông Cống sống mọi nơi” có thể được đúc kết từ đây”184. Công trình thuỷ nông sông Chu đã nâng giá trị phần ruộng đất được tưới nước lên 2,5 đến 3 triệu đồng/1 năm, tức hơn nửa số tiền chi phí ban đầu185. Các nhà nghiên cứu đương thời đánh giá: “Trừ các hệ thống khổng lồ tại Ấn Độ thuộc Anh thì đây là công trình cùng loại lớn hơn hết tại Viễn Đông. Không nơi nào, ở Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Philippin, Thái Lan, Giava lại có những hệ thống quan trọng như vậy. Ở Miến Điện, chỉ có một hệ thống Svebo có thể tưới được cho 60.000 ha” sánh kịp mà thôi186.

Sau hệ thống thuỷ nông sông Chu là công trình dẫn thuỷ nhập điền miền bắc Nghệ An. Công trình được khởi công năm 1933 và hoàn thành năm 1937. Công trình đi vào vận hành đã tưới tiêu cho hơn 37.000ha ruộng. Nhờ có dẫn thuỷ nhập điền, 3 huyện Diễn – Yên - Quỳnh trở nên trù phú và trở thành vùng trọng điểm về trồng lúa ở Nghệ An. Câu ca "Đói cơm rách áo thì ra Yên Thành” nói lên sự no ấm của kinh tế nông nghiệp nơi đây do lợi ích từ công tác thuỷ lợi. Hệ thống thuỷ nông sông Chu, hệ thống dẫn thuỷ nhập điền bắc Nghệ An xứng đáng là những công trình đại thuỷ nông ở Bắc Trung Kỳ thời thuộc Pháp.

Bên cạnh đó, các hoạt động đầu tư tài chính được chú ý. Đại lý của Ngân hàng Nông phố lần lượt được thiết lập ở Thanh Hoá, Vinh, Hà Tĩnh và hoạt động có hiệu quả nhất định. Một điểm mới trong hoạt động tín dụng là có sự tham gia của các công ty vô danh, các hãng buôn, hội buôn lớn. Công tác chọn giống cũng được sự quan tâm của chính quyền với việc mở rộng trại giống Yên Định (Thanh Hoá) và thành lập các trại giống mới: Cao Trại (Phủ Quỳ - Nghệ An), Vân Du (Thạch Thành), trại chăn nuôi Bãi Áng (Nông Cống - Thanh Hoá).

2.2. Chuyển biến của kinh tế nông nghiệp

Việc mở rộng đầu tư khai thác của thực dân Pháp khiến nông nghiệp


Bắc Trung Kỳ có những chuyển biến rõ nét, thể hiện trên mấy khía cạnh sau:

Sở hữu ruộng đất: các tỉnh Bắc Trung Kỳ có tỷ lệ ruộng công tương đối thấp so với xứ Trung Kỳ. Nghệ An có tỷ lệ ruộng công cao nhất, cũng chỉ chiếm tỷ lệ 19,8%, Hà Tĩnh có tỷ lệ ruộng công thấp nhất, chiếm 15,9%. Mức độ tập trung ruộng đất vào tay thực dân, địa chủ ngày càng lớn. Đất được cấp nhượng lập đồn điền lên tới 37.114ha (chiếm tỷ lệ 13% đất canh tác), 70% đồn điền có diện tích từ 100ha đến trên 10.000ha. Địa chủ phong kiến và địa chủ nhà Chung phát triển nhanh về tiềm lực kinh tế, chiếm đoạt ruộng đất lên tới hàng nghìn mẫu. Sở hữu ruộng đất của người bản xứ phổ biến là nhỏ và vừa: dưới 5 mẫu (93,6%), từ 5 đến 50 mẫu (6,3%), trên 50 mẫu (0,1%)187.

Quan hệ sản xuất: Quan hệ địa chủ - tá điền vẫn được duy trì nhưng chuyển biến dưới nhiều hình thức khác nhau: thuê nhân công, cấy rẽ, cho thuê ruộng. Hình thức địa tô cũng chuyển biến theo: ngoài tô hiện vật, tô lao dịch, xuất hiện tô tiền. Quan hệ chủ - thợ được xác lập. Các đồn điền lớn được tổ chức như những xí nghiệp TBCN. Nhân công được sử dụng dưới nhiều hình thức khác nhau: công nhật, lương tháng, khoán việc, mùa vụ…

Phương thức kinh doanh và sử dụng đất: Vùng chuyên canh cây công nghiệp như chè, cà phê, bông, mía xuất hiện. Tính đến năm 1929, trong gần 5.000ha cà phê ở Trung Kỳ thì diện tích trồng cà phê các tỉnh Bắc Trung Kỳ chiếm tỷ lệ gần một nửa (48%). Nhưng cuộc khủng hoảng của cây cà phê vào những năm 1930 - 1931 khiến cho diện tích trồng cà phê sụt giảm, chỉ còn 2.000ha trong tổng số 6.100ha ở Trung Kỳ (chiếm tỷ lệ 32,7%). Diện tích trồng cà phê toàn Đông Dương trong giai đoạn từ 1932 đến 1944 trung bình là 8.525ha thì diện tích trồng cà phê ở Bắc Trung Kỳ chiếm tỷ lệ 27,5%188. Bắc Trung Kỳ được xem là trung tâm trồng và xuất khẩu cà phê lớn nhất Đông Dương thời bấy giờ.

Thuỷ lợi, thuỷ nông nội đồng có bước tiến vượt bậc, các công trình dẫn thuỷ nhập điền đã tưới cho trên 160.000ha, riêng hệ thống thuỷ nông sông Chu có thể tưới cho 60.000ha, hệ thống bắc Nghệ An tưới cho 38.000ha. Phân bón cho canh tác nông nghiệp cũng có bước tiến bộ, kỹ thuật nuôi bèo hoa dâu làm phân xanh được phổ biến rộng rãi. Phân hoá học bước đầu được sử dụng trong việc chăm sóc các loại cây công nghiệp. Một số giống cây trồng, vật nuôi mới được nhân rộng: cà phê Arabica, Chari, Robusta, Excela, ngô Rêuyniông, bông sợi dài của Mỹ và Ai Cập, cam Sunkis, bò Sin, cỏ voi Ghinê, lợn Yoc-sai, cừu Kêlantan… Các biện pháp để bảo vệ đàn gia súc, chăm sóc thú y cho đàn trâu bò được chú ý.

Nghề trồng trọt, trước hết là nghề trồng lúa có nhiều chuyển biến, diện tích được mở rộng, năng suất được cải thiện so với thời điểm trước năm 1918 (từ mức 9 - 11 tạ/ha tăng lên 12 - 15 tạ/ha), do đó sản lượng lúa cũng tăng cao. Đặc biệt, nghề trồng cây công nghiệp phát triển, vùng chuyên canh cà phê, bông vải, mía, chè, cây ăn quả xuất hiện. Cà phê là loại cây trồng được phát triển trong các đồn điền đất đỏ ở phía tây Thanh Hoá, Nghệ An và Hà Tĩnh. Diện tích trồng cà phê ở Bắc Trung Kỳ vào thời điểm cao nhất vào khoảng hơn 2.500ha, sản lượng đạt khoảng 1.000 tấn, năng suất bình quân từ 4 đến 5 tạ/ha. Chỉ tính riêng đồn điền của Walther ở Phủ Quỳ đến năm 1927 đã có 17.000 gốc cà phê cho thu hoạch, 6.000 gốc trồng được 2 năm, 145.000 gốc trồng được 1 năm. Sản lượng cà phê trong năm 1927 là 10 tấn, năm 1930 là 60 tấn. Theo Ch.Robequain, năm 1928 Thanh Hoá “có khoảng 200 tấn cà phê ngon không kém gì các nẻo xa”; đến năm 1932, sản lượng lên tới 500 tấn189.

Nghề chăn nuôi nhất là chăn nuôi trâu bò phát triển nhanh chóng và trở thành một trung tâm lớn của cả nước. Chăn nuôi gia súc, nhất là trâu bò trở thành một nghề rất phát triển ở Bắc Trung Kỳ. Sau Thế chiến I, nhiều biện pháp cải tạo chất lượng giống trâu bò được thực hiện. Bắc Trung Kỳ trở thành một trung tâm chăn nuôi và xuất khẩu trâu bò lớn của cả nước. Theo thống kê của Y. Henry, năm 1930, đàn trâu bò ở Bắc Trung Kỳ lên tới 247.025 con190. Tổng số đàn gia súc ở Trung Kỳ là 421.895 con bò và 200.073 con trâu, riêng ở Bắc Trung Kỳ số lượng bò đã là 166.770 con (chiếm tỷ lệ 39,5%), trâu là 80.255 con (chiếm tỷ lệ 40%). Đàn bò ở Bắc Trung Kỳ nhiều hơn cả đàn bò của các tỉnh Bắc Kỳ cộng lại (143. 525 con) hay cả Nam Kỳ cộng lại (139.952 con)191... Điều đó cho thấy, Bắc Trung Kỳ là một trung tâm chăn nuôi bò lớn nhất cả nước.

3. Xã hội nông thôn Bắc Trung Kỳ dưới tác động của những chuyển biến kinh tế nông nghiệp

Sự chuyển biến của kinh tế nông nghiệp đã tác động mạnh mẽ đến xã hội nông thôn, điều đó thể hiện trên mấy vấn đề sau:



Nghề thủ công truyền thống có sự biến đổi: Sang thời thuộc địa, một số nghề thủ công bị sa sút như nghề trồng bông dệt vải, trồng dâu nuôi tằm bởi xu hướng nhập ngoại các sản phẩm tơ, lụa. Một số nghề được duy trì như nghề mộc, đan lát, rèn, rèn đúc, làm gốm, gạch ngói, chế biến hải sản, làm mật mía, ép dầu nhưng không tách khỏi sản xuất nông nghiệp.

Dân cư biến động: Dân số tăng lên nhanh chóng, trong khoảng 40 năm đầu thế kỷ XX, dân số Bắc Trung Kỳ tăng lên gấp đôi. Điều đó làm cho diện tích canh tác tính theo đầu người ngày càng giảm. Lao động dôi dư ở đồng bằng rất lớn. Xuất hiện các luồng di dân: từ đồng bằng lên trung du, từ tỉnh này sang tỉnh khác, di cư vào Nam Trung Kỳ và Nam Kỳ, một bộ phận nhân công từ Bắc Kỳ di cư vào.

Địa bàn cư trú mở mang: Các hoạt động khai thác nông nghiệp góp phần khai khẩn đất đai, mở rộng địa bàn cư trú. Đất ngập mặn ven biển ở Nga Sơn, Hoằng Hoá (Thanh Hoá), Quỳnh Lưu, Diễn Châu (Nghệ An) được chinh phục, nhiều làng mạc mới xuất hiện. Đất hoang hoá ở trung du được khai thác triệt để, nhiều khu vực dân cư đông đúc xuất hiện ở Phủ Quỳ (Nghệ An), Thọ Xuân, Nông Cống(Thanh Hoá).

Giai cấp bị phân hoá: Giai cấp nông dân bị phân hoá do sự phân công lao động và sự tác động của các hình thức địa tô. Ở Nghệ An, thành phần bần, cố nông là chủ yếu (83%) tiếp đến là Hà Tĩnh (74,75), trong khi đó Thanh Hoá có tỷ lệ trung nông khá hơn (21,7%), bần cố nông thấp hơn 2 tỉnh kia (73%). Giai cấp địa chủ cũng phân hoá thành 2 bộ phận. Địa chủ, phú nông chiếm tỷ lệ 4,42% dân đinh ở Thanh Hoá, 3,32% (Nghệ An), 5,6% (Hà Tĩnh) nhưng chiếm hữu gần 50% diện tích ruộng đất192. Cơ cấu giai cấp vận động theo hướng bần cùng hoá của bần, cố nông; sự ổn định tương đối của trung nông, phú nông; mở rộng địa vị kinh tế của địa chủ. Mâu thuẫn xã hội sâu sắc, riêng ở Nghệ - Tĩnh, xuất hiện mâu thuẫn giữa 2 phe “hộ” và “hào”.

Nông dân Bắc Trung Kỳ ngày càng bị bần cùng hoá. Cuộc sống của nông dân phụ thuộc vào ruộng vườn nhưng diện tích canh tác ngày càng giảm, đến năm 1945 chỉ còn mức 0,18ha (Thanh Hoá), 0,17ha (Hà Tĩnh), 0,12ha (Nghệ An)193; sản lượng lúa tính theo đầu người cũng giảm theo, trung bình chỉ còn 1,2 tạ/1người/1năm. Nông dân bị bần cùng hoá nhanh hơn bởi vì sự chuyển biến của nông nghiệp không theo kịp đà tăng dân số, phân chia lợi nhuận bất bình đẳng, hình thức bóc lột ngày càng thậm tệ và tinh vi. Diện tích gieo trồng tính theo đầu người đã giảm 5 lần tính từ thời vua Tự Đức đến năm 1945 (ở mức 1 mẫu/người xuống mức
2 sào/người). Sản lượng lúa theo đầu người giảm một nửa tính từ những năm đầu thế kỷ XX đến năm 1945 (ở mức 3,2 tạ/người/năm xuống 1,7 tạ/người/năm ở Thanh Hoá; 1,6 tạ/người/năm xuống 0,8 tạ/người/năm ở Nghệ An). Sự kết hợp giữa phương thức sản xuất phong kiến và TBCN càng làm cho hình thức bóc lột tinh vi hơn. Ở nông thôn Bắc Trung Kỳ, xuất hiện nhiều cách bóc lột thậm tệ: bóc lột tô, bóc lột tức, bóc lột nhân công, nhiều loại hình bóc lột tinh vi: công non, lương non, đong gạo chịu, vay cầm, bán cầm...

Ngoài 2 mâu thuẫn chủ yếu là nông dân với địa chủ, nông dân với đế quốc, thực dân, nông thôn Bắc Trung Kỳ còn xuất hiện một mâu thuẫn khác cũng rất gay gắt: nông dân với phú nông. Điều đó được thể hiện ở phong trào đấu tranh giữa phe “hộ” và phe “hào” rất riêng biệt ở nông thôn Nghệ - Tĩnh. Đời sống của nông dân càng thêm khó khăn bởi nhiều mối đe doạ: nạn sưu cao, thuế nặng; phụ thu, lạm bổ; giá bạc và nông sản thất thường; nạn cho vay nặng lãi; thiên tai, ôn dịch… Mức độ bần cùng hoá của nông dân Nghệ - Tĩnh rất nhanh, họ luôn phải đối diện với nạn đói kinh niên.



Kết luận

Bắc Trung Kỳ là vùng đất đa dạng về sinh thái tự nhiên - xã hội, có thế mạnh để phát triển nghề trồng lúa, cây công nghiệp và chăn nuôi đại gia súc. Điều kiện đó đã thu hút được sự quan tâm của chính quyền thuộc địa và các nhà canh nông. Quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp làm cho nông nghiệp Bắc Trung Kỳ chuyển dần từ hình thái phong kiến sang hình thái thuộc địa có nhân tố TBCN.



Quan hệ ruộng đất và phương thức canh tác có nhiều chuyển biến. Xu hướng tập trung ruộng đất mở đường cho việc kinh doanh lớn trong nông nghiệp, làm thay đổi hình thức sở hữu nhỏ, kinh doanh phân tán của nông nghiệp Bắc Trung Kỳ, nhưng một bộ phận nông dân bị tước đoạt tư liệu sản xuất. Phương thức sản xuất phong kiến phát canh thu tô vẫn được duy trì nhưng chuyển biến dưới nhiều hình thức khác nhau: cấy rẽ, thuê ruộng, thuê nhân công. Các hình thức địa tô cũng chuyển biến theo: từ tô hiện vật, tô lao dịch đến tô tiền. Phương thức sản xuất TBCN bắt đầu được du nhập, quan hệ chủ - thợ xác lập. Sự kết hợp giữa hai phương thức phong kiến và TBCN đã tận dụng tối đa nguồn nhân công, nhưng cũng vì thế mà người làm thuê bị bóc lột thậm tệ hơn.

Bộ phận kinh tế đồn điền có nhiều chuyển biến mạnh mẽ nhất trong nông nghiệp Bắc Trung Kỳ. Trước năm 1884, đồn điền đã xuất hiện, nhưng chỉ đóng vai trò là “đồn sơn phòng”, mang ý nghĩa bảo vệ an ninh chính trị nhiều hơn là kinh tế. Sang thời thuộc địa, đồn điền trở thành một hình thức canh nông của giới điền chủ. Quy mô đồn điền không ngừng được mở rộng. Từ những cố gắng đơn lẻ của các cá nhân cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, kinh tế đồn điền dần được tổ chức và phát triển mạnh mẽ. Sau Thế chiến I, hệ thống đồn điền hình thành và mở rộng đến các vùng đồng bằng, xuất hiện đồn điền rộng hàng nghìn ha như đồn điền của Gauthier ở Yên Mỹ (Thanh Hoá), Walther, Lapic và Công ty ở Phủ Quỳ (Nghệ An)… Đồn điền Yên Mỹ được đánh giá là đẹp nhất Đông Dương.

Nông nghiệp Bắc Trung Kỳ bắt đầu chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá. Trước năm 1884, nông nghiệp khu vực đang ở trạng thái tự cung tự cấp. Sang thời thuộc địa, Bắc Trung Kỳ thành nơi xuất khẩu hàng nông sản tương đối lớn của cả nước. Nông sản gồm lương thực (lúa gạo, ngô), các loại hoa màu (đậu, vừng, lạc), sản phẩm cây công nghiệp (cà phê, bông vải, chè, mật mía), hoa quả (cam, quýt, bưởi, dứa), gia súc (trâu, bò). Trong đó, cà phê, bông vải, trâu bò là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, vào loại lớn nhất của cả nước.

Những nhân tố thúc đẩy sự chuyển biến của kinh tế nông nghiệp Bắc Trung Kỳ: Nguồn vốn đầu tư, bao gồm vốn của Nhà nước và tư nhân thúc đẩy nông nghiệp khu vực phát triển. Cơ sở hạ tầng như giao thông vận tải, thương nghiệp, tiền tệ, các công trình thuỷ nông, các trạm giống… được xây dựng từ nguồn ngân sách chung Đông Dương và ngân sách hàng xứ đã thúc đẩy sự chuyển biến của kinh tế nông nghiệp khu vực. Ngoài cố gắng "mò mẫm" của những cá nhân thì vai trò của chính quyền cũng rất quan trọng. Sau Thế chiến I, các hoạt động canh nông đã có sự tổ chức, định hướng của chính quyền thuộc địa.

Tác động của chuyển biến kinh tế nông nghiệp tới xã hội nông thôn Bắc Trung Kỳ, giai cấp bị phân hoá, nông dân bị bần cùng. Nông thôn Bắc Trung Kỳ xuất hiện công nhân áo nâu, thợ cày, thợ cấy, thợ gặt, thợ hái cà phê, người làm trung gian, thầu khoán, bốc vác, chở thuê... Thợ thủ công bị phân hoá, một bộ phận bị phá sản do sản phẩm không cạnh tranh được với hàng ngoại nhập. Sự xâm nhập của kinh tế hàng hoá, sự chuyển biến của các hình thức địa tô, mức độ tập trung ruộng đất ngày càng lớn, mức độ bóc lột của thực dân phong kiến nặng nề… là những nguyên nhân dẫn đến sự phân hoá xã hội. Giai cấp nông dân bị phân hoá và bị bần cùng hoá nặng nề, 37% dân đinh là cố nông, 45,5% là bần nông.

Bên cạnh những hạn chế của chính sách thực dân, sự chuyển biến của kinh tế nông nghiệp khu vực cũng có những mặt tích cực nhất định. Chính sách khai thác tiềm năng đất đai, sự đầu tư cho hệ thống thuỷ nông, việc lựa chọn cây trồng, vật nuôi phù hợp, tìm đầu ra cho nông sản … ở Bắc Trung Kỳ thời thuộc Pháp có thể là những gợi ý tham khảo, góp phần vào việc hoạch định chính sách để phát triển hơn nữa nông nghiệp, nông thôn ở Thanh - Nghệ - Tĩnh hiện nay.



1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   26




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương