PHÁc thảo tình hình sản xuất nông nghiệP…



tải về 9.17 Mb.
trang11/26
Chuyển đổi dữ liệu08.05.2018
Kích9.17 Mb.
#37785
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   ...   26

Hình 6: Áo tứ thân


. Áo tứ thân, áo năm thân
: Là loại áo truyền thống của phụ nữ. Áo được may bằng vải phin, vải bông hoặc vải lụa, nhuộm màu nâu hoặc màu thâm. Áo mặc ngoài yếm và áo cánh, dưới mặc váy hoặc quần.

Hiện nay ở Đường Lâm chỉ còn một vài cụ già giữ được áo tứ thân (Hình 6). Áo tứ thân xuất hiện trước áo năm thân, gồm hai vạt trước và sau. Do hạn chế của khổ vải truyền thống nên mỗi vạt được ghép bằng hai mảnh vải, gọi là hai thân. Hai vạt trước không may liền, hai vạt sau may nối theo sống áo, nửa thân trên hẹp hơn, phía dưới rộng. Đặc trưng của áo tứ thân là không may cổ và không cài cúc, mà dùng hai vạt trước hoặc dây đũi thắt bên ngoài. Đây là những yếu tố đặc trưng trong trang phục cư dân phương Nam trước khi có ảnh hưởng văn hoá phương Bắc. Tay áo nối như áo cánh.

Theo nhà nghiên cứu Trịnh Bách, áo năm thân xuất hiện muộn, khoảng thế kỷ XVIII, với tên gọi ban đầu là “áo dài Kinh”. Các cụ già trên 70 tuổi ở Đường Lâm đều có áo dài năm thân để mặc vào các dịp lễ hội.



Á

Hình 7: Sơ đồ và kích thước áo năm thân
o năm thân có cấu trúc gần với áo dài ngày nay, nhưng kích thước rộng. Cổ áo thấp, khoảng 1.5-2cm, thường không cài khít. Quanh cổ có lớp lót gọi là lá sen, bản rộng khoảng 5cm. Hai vạt trước khâu liền và thêm một vạt nhỏ bên hông trái có cài cúc (Hình 7)
117. Cúc áo và việc đặt vạt phải lên trên có thể coi là một yếu tố ảnh hưởng của phong tục phương Bắc vào trang phục của người Việt118. Nhà giàu có thì dùng cúc ngọc trai, ngọc lục, thường dân dùng cúc đồng, cúc vải tết.

5. Áo mớ: Là trang phục sử dụng trong các dịp lễ hội. Áo mớ của phụ nữ gồm nhiều lớp áo tứ thân hay năm thân được may bằng các chất liệu nhẹ như vải lụa, chồi, lĩnh, nhiễu. Áo mớ được mặc trong các dịp lễ hội, đám cưới. Hiện nay ở Đường Lâm có rất ít cụ già còn giữ áo mớ.

T




Hình 8: Áo mớ hai, áo the (từ trái sang)


heo bà Phan Thị Bét (88 tuổi, xóm Sải, Mông Phụ), ông Nguyễn Văn Lưu (83 tuổi, xóm Giang, Mông Phụ) cô dâu ngày xưa thường mặc ngoài yếm trắng hai ba lớp áo mớ, nên gọi là mớ hai, mớ ba. Màu sắc các lớp áo lộ ra ở cổ, vạt áo, được kết hợp hài hoà từ màu sẫm (như cánh gián, đỉnh hương) ở ngoài đến màu nhạt (như mỡ gà) ở trong.

6. Áo the: Là áo năm thân của nam giới mặc trong dịp lễ hội. Người giàu mặc áo bằng the, tơ tằm, sa tanh hay gấm thêu. Người nghèo mặc áo vải phin, vải thô nhuộm đen hoặc nâu. Cổ áo the cao khoảng 1,5-2cm, quanh cổ có lớp lót lá sen như áo năm thân của nữ. Áo dài the xưa chùm dài gần mắt cá chân, nhưng áo dài the hiện nay chỉ dài chùm đầu gối (Hình 8). Vạt lót rộng nửa thân áo. Tay áo nối thấp. Cúc áo bằng xương, đồng hoặc vàng.

Theo các cụ Phan Thị Dân (80 tuổi, xóm Sải, Mông Phụ), Hà Thị Vin (71 tuổi, xóm Hậu, Mông Phụ), Nguyễn Thị Trinh (80 tuổi, xóm Sui, Mông Phụ), nam giới trước kia thường mặc 3 lớp áo: áo cánh trắng ở trong, áo chùng dài may theo kiểu áo the nhưng bằng vải trắng, và áo the ở ngoài cùng. Áo the được mặc với quần chùng bằng vải lụa trắng.



7. Khăn đội đầu: Khăn là phụ trang không thể thiếu cùng với trang phục. Các cụ bà ở Đường Lâm đều có khăn vấn (gồm khăn độn, dây buộc, ghim và khăn quấn) và khăn vuông, còn các cụ ông khi đi lễ không quên đội khăn xếp hay khăn lượt.

Đ




Hình 9: Khăn bốn giọt
(Bà Hoàng Thị Bột, 88t, xóm Giữa, Cam Thịnh)

ể vấn tóc bằng khăn vấn cần một khăn độn làm bằng vải thô, màu chàm, màu đen hay trắng. Khăn dài 60cm, ở giữa độn vải vụn hay bông. Người ta đặt độn vào giữa tóc, dùng dây vải quấn để tóc cột chặt vào độn. Khăn quấn làm bằng vải nhung, gấm, hay nhiễu màu đen, dài khoảng 1 thước, rộng 20cm, khâu thành 2 lớp bằng chỉ đen. Khăn quấn bọc chặt ngoài độn và tóc rồi quấn quanh đầu. Khăn được cố định bằng ghim hoặc dây. Các cô gái trẻ thường để thừa một lọn tóc thả bên làm duyên, gọi là tóc đuôi gà.

Khăn vuông làm bằng vải phin, nhung hay nhiễu, có màu thâm hay đen. Khăn là một vuông vải rộng, mỗi chiều khoảng 60cm. Có hai cách đội chính là chít mỏ quạ (tức là gập chéo khăn hình mỏ quạ trước trán và thắt hai mép khăn dưới cằm) hoặc chít kiểu bốn giọt (tức là vắt hai đầu khăn về phía sau thắt thành hai dải sau gáy) (Hình 9).

Khăn xếp của các cụ ông làm bằng vải thâm hoặc lụa, tơ tằm hay nhiễu hoa, màu đen. Khăn xếp có nhiều lớp: lớp trong cùng bằng vải bọc giấy bản xốp không thấm nước hoặc nhựa uốn tròn để giữ dáng của khăn. Phía ngoài xếp chồng thêm 5 lớp vải độn giấy bản hoặc rơm nếp, mỗi lớp cách nhau 0,5cm. Trước trán thêm


2 lớp xếp hình chữ nhân. Các lớp được khâu cố định bằng chỉ đen.

Khăn lượt không may sẵn mà là một miếng vải lụa, chồi hay vải thô, khổ


30 - 40cm, dài 12 - 14 vuông. Khi đội, người ta gấp đôi hay ba theo chiều rộng của khăn rồi quấn quanh đầu, mép khăn được gim lại và giắt vào trong. Các cụ ông xưa thường búi tó và đội khăn lượt hoặc khăn xếp khi ra đường hoặc dự lễ hội.

8. Khăn dải yếm, ruột tượng: Các cụ bà ở Đường Lâm khi mặc áo dài năm thân thường không cài cúc mà thắt ở lưng bằng khăn dải yếm hay ruột tượng. Khăn làm bằng tơ, lụa hay đũi, màu xanh da trời, thiên lí, hoa đào hay trắng ngà.

K



Hình 10: Áo năm thân, khăn vấn, khăn dải yếm, quần chân què (Bà Phan Thị Tín, 83t, xóm Đình, Mông Phụ)

hăn dải yếm khổ rộng 20 - 30cm, dài khoảng 50 - 60cm, hai đầu khăn kết dua. Các cụ Phan Thị Tín (83 tuổi, xóm Đình, Mông Phụ), Hoàng Thị Bột (88 tuổi, xóm Giữa, Cam Thịnh) kể rằng các cô gái xưa phải thắt khăn ngang lưng để giữ không cho ai đụng vào yếm nên gọi là khăn dải yếm (Hình 10).

Khăn bao tượng (hay ruột tượng) được may bằng cách khâu chéo mép dải vải khổ rộng 20 - 30cm thành một ống vải dài 50cm-1m. Khăn bao tượng vừa được dùng để thắt ở lưng, vừa dùng để đựng tiền xu khi đi chợ.



9. Răng đen và tục ăn trầu: Đến Đường Lâm ngày nay vẫn còn có thể gặp nhiều cụ già khoảng 70 tuổi nhuộm răng đen. Theo ông Phan Văn Nghiêm (68 tuổi, xóm Hè, Mông Phụ), chỉ riêng ở ba làng Mông Phụ, Cam Thịnh và Đông Sàng hiện nay còn khoảng gần 20 cụ bà có hàm răng nhuộm đen. Các cụ ông trên 70 tuổi không nhuộm răng nhưng vẫn ăn trầu. Khoảng 50% nam nữ độ tuổi 40-50 có thói quen nhai trầu, nhất là khi đi làm đồng mùa đông.

Tục nhuộm răng đen vốn phổ biến ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam từ thời cổ đại. Nhiều người cho rằng tục nhuộm răng đen ở nước ta có quan hệ mật thiết với tục ăn trầu. Tuy nhiên không thể đồng nhất việc ăn trầu với nhuộm răng đen119. Trên cơ sở phỏng vấn các cụ Hà Thị Vin (71 tuổi, xóm Hậu, Mông Phụ), Nguyễn Thị Dần (80 tuổi, xóm Sải, Mông Phụ), Trương Thị Nồng (84 tuổi, xóm Sải, Cam Thịnh), có thể hình dung về tục nhuộm răng đen ở vùng này như sau: Trước kia, các cô gái khoảng 12-13 tuổi đều nhuộm răng đen. Nhuộm răng được tiến hành theo 4 bước. Bước đầu là làm sạch răng trong vài ba ngày bằng vỏ cau khô, xỉa răng bằng tăm và xúc miệng kĩ bằng nước chanh hay dấm. Bước hai là nhuộm răng đỏ, kéo dài khoảng 10 ngày. Người ta mua phèn vàng ở chợ, phết lên lá cau cắt to bằng ngón tay rồi chít lên răng. Thời gian này người nhuộm phải hạn chế nhai nên chỉ nuốt cơm. Sau khi răng đã có màu đỏ sẫm thì tiến hành bước thứ ba là nhuộm đen. Thuốc nhuộm gồm cánh kiến mua ở chợ về tán nhỏ, ngâm rượu cùng với một số hương liệu như quế, hồi… rồi phết lên răng hoặc lên lá cau và ngậm trong 5 ngày. Tiếp đó người ta đốt vỏ quả dừa cho chảy nhựa vào dao ta rồi lấy nước đen trên đó chít lên răng. Bước này còn được gọi là đánh bóng răng. Sau khoảng 1 tháng nhuộm như vậy sẽ được hàm răng đen láy.

Việc ăn trầu giúp cho hàm răng đen càng trở nên đen bóng. Ở Đường Lâm hiện nay còn trồng nhiều trầu nhưng rất ít cau. Cau bán ở Đông Sàng thường được mua từ nơi khác về. Các cụ bà thường dự trữ cau bằng cách bổ nhỏ và phơi khô. Ngoài ra, cau còn được canh với đường thành mứt cau khô để bảo quản lâu dài. Khi ăn, các cụ cắt lá trầu làm ba, quệt vôi lên rồi kẹp vào một miếng cau bổ ba hay bổ tư, thêm miếng rễ đắng (vỏ) bằng đầu ngón tay cho vào miệng nhai dập. Nhiều cụ nhai kèm với thuốc lào cho đậm. Vào dịp lễ hội, các cô gái Đường Lâm vẫn tỉa lá trầu thành hình cánh phượng để têm mời khách.

Trên đây là những nét chính về phục trang truyền thống đang được bảo tồn tại làng cổ Đường Lâm. Những nét văn hoá này tuy không đập vào mắt du khách như các di sản kiến trúc, tôn giáo, nhưng là những giá trị văn hoá không thể thiếu của một làng nông nghiệp Việt Nam truyền thống và đang bị mai một nhanh chóng. Trước nguy cơ đó, ngày 18/8/2006, nhóm công tác của Cục di sản đã kết hợp với trường Đại học nữ Showa, Nhật Bản, tổ chức workshop giới thiệu kết quả nghiên cứu bước đầu về phục trang truyền thống cho dân làng Đường Lâm. Tiếp đó, ngày 20/3/2007, một cuộc triển lãm nhỏ đã được tổ chức tại nhà thờ họ Phan, làng Mông Phụ, giới thiệu cho dân làng và đại diện UNESCO, đại diện các cơ quan nghiên cứu của Việt Nam và Nhật Bản về những phục trang truyền thống đang được lưu giữ ở Đường Lâm. Trên cơ sở các hoạt động trên, chúng tôi nhận thấy, để bảo tồn phục trang truyền thống ở Đường Lâm, cần tích cực tiến hành các hoạt động sau:

Tuyên truyền để người dân có ý thức giữ gìn, không vứt, đốt bỏ, chôn trang phục theo các cụ già hay mua bán trang phục cổ

Tiếp tục nghiên cứu một cách tổng thể về trang phục cổ: đo vẽ, tìm hiểu về chất liệu vải, cách dệt, nhuộm, cắt may, cách sử dụng… đối với từng loại trang phục. Nghiên cứu so sánh với trang phục của các dân tộc hay các nước.

Tổ chức workshop, trưng bày giới thiệu kết quả nghiên cứu. Lập phòng trưng bày hoặc bảo tàng trưng bày trang phục cổ trong làng.

Tạo điều kiện để các nghệ nhân địa phương có khả năng lưu truyền kĩ thuật dệt, nhuộm và may trang phục cổ.

Tổ chức trưng bày về phục trang truyền thống của nông thôn tại các bảo tàng như Bảo tàng Dân tộc học để tuyên truyền, nâng cao ý thức bảo tồn phục trang truyền thống



Phát huy giá trị và kết quả nghiên cứu về phục trang cổ của nông dân trong việc sử dụng vào các hình thức sân khấu, phim lịch sử, hoạt hình lịch sử…

1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   ...   26




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương