PHÁc thảo tình hình sản xuất nông nghiệP…


NHËN D¹NG N¤NG NGHIÖP §¤ THÞ VIÖT NAM



tải về 9.17 Mb.
trang21/26
Chuyển đổi dữ liệu08.05.2018
Kích9.17 Mb.
#37785
1   ...   18   19   20   21   22   23   24   25   26



NHËN D¹NG N¤NG NGHIÖP §¤ THÞ VIÖT NAM

T



KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO QUOÁC TEÁ VIEÄT NAM HOÏC LAÀN THÖÙ BA

TIEÅU BAN NOÂNG THOÂN, NOÂNG NGHIEÄP VIEÄT NAM HIEÄN ÑAÏI





S Lê Văn Trưởng*


1. Đặt vấn đề

Các đô thị ra đời đã kéo theo sự hình thành loại hình nông nghiệp mới của nhân loại - nông nghiệp đô thị. Các đô thị ở nhiều quốc gia trên thế giới đã chú ý đến nông nghiệp đô thị rất sớm và họ cũng đã đạt được nhiều thành công trong việc phát triển loại hình nông nghiệp mới này.



Trong các thập niên 60, 70, Việt Nam cũng đã đạt được một số thành tựu trong phát triển nông nghiệp tại các khu vực ngoại thị. Nhưng khi bước sang thập kỷ 80 và những năm đầu của thập kỷ 90, nông nghiệp ở các đô thị phát triển khá ồ ạt. Tuy đã góp phần giải quyết tình trạng khan hiếm thực phẩm lúc bấy giờ và tăng thu nhập cho một số ng­ười làm công ăn lương ở thành phố, nhưng do phát triển tự phát, không có quy hoạch nên đã gây ra ô nhiễm môi tr­ường nghiêm trọng, làm mất cảnh quan đô thị, thậm chí đã tạo nên tâm lý không muốn phát triển nông nghiệp đô thị.

Những năm gần đây, dưới tác động của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá, sức ép của các vấn đề dân số, lương thực, thực phẩm, việc làm, thu nhập, môi trường.... chắc chắn nông nghiệp ở các đô thị nước ta sẽ có những thay đổi quan trọng cần được nghiên cứu, đánh giá để tìm kiếm những giải pháp phù hợp để phát triển loại hình nông nghiệp quan trọng này.



2. Quan niệm, phạm vi, phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu

Vận dụng quan niệm về nông nghiệp đô thị của FAO (1996), UNDP (1999), RUAF Foundation (1999), Luc J.A Mougeot (2002)... vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, chúng ta có thể hiểu: nông nghiệp đô thị là một ngành sản xuất ở trung tâm, ngoại ô và vùng lân cận đô thị, có chức năng trồng trọt, chăn nuôi, chế biến và phân phối các loại thực phẩm, lương thực và các sản phẩm khác, sử dụng các nguồn lực tự nhiên và nhân văn, các sản phẩm cùng các dịch vụ ở đô thị và vùng lân cận đô thị để cung cấp trở lại cho đô thị các sản phẩm và dịch vụ cao cấp. Nông nghiệp đô thị bao gồm nông nghiệp nội thị và nông nghiệp ngoại thị với các hoạt động chủ yếu là trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy sản.

Trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ khảo sát nông nghiệp trong ranh giới hành chính của đô thị, mặc dù trên thực tế, bộ phận nông nghiệp liền kề các đô thị vẫn nằm trong khu vực ảnh hưởng của đô thị và có nhiều đặc điểm của nông nghiệp đô thị. Phương pháp chủ yếu được sử dụng là phương pháp so sánh, phân tích và tổng hợp. So sánh nông nghiệp đô thị Việt Nam với nông nghiệp nông thôn Việt Nam và nông nghiệp đô thị thế giới.

Hiện nay, số liệu về nông nghiệp đô thị ở nước ta chưa được thống kê một cách đầy đủ. Vì vậy ngoài các tài liệu nghiên cứu của cá nhân, của các cơ quan thống kê được công bố chính thức (niên giám thống kê của cả nước và các tỉnh, thành phố trung ương), chúng tôi còn sử dụng các tài liệu từ các trang Web của các thành phố trên và nghiên cứu chuyên đề có liên quan của các tác giả trong và ngoài nước được công bố từ năm 2000 đến nay.



3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận

3.1. Nông nghiệp đô thị đang được định hình và có những đóng góp quan trọng cho phát triển đô thị ở Việt Nam

Trong thực tế, những mầm mống của nông nghiệp đô thị ở Việt Nam đã xuất hiện xung quanh các thành cổ ngay từ thời phong kiến. Trong thời kỳ Pháp thuộc, nông nghiệp đô thị cũng được chú ý phát triển và có những nét mang dáng dấp của nông nghiệp đô thị hiện đại. Trong thế kỷ XX, quá trình đô thị hoá ở cả hai miền Nam - Bắc được mở rộng, nhiều đô thị mới xuất hiện và chính chúng là động lực để nông nghiệp đô thị, nhất là bộ phận nông nghiệp ngoại thị, phát triển nhanh nhằm cung cấp lương thực, thực phẩm tươi sống cho đô thị. Bước sang


thế kỷ XXI, điểm đáng chú ý nhất là chính quyền ở TP Hồ Chí Minh, Thủ đô Hà Nội, TP Đà Nẵng, TP Hải Phòng, TP Cần Thơ, TP Tam Kỳ, TP Long An... đã xây dựng chiến lược hoặc quy hoạch tổng thể và có những chương trình, chính sách phát triển nông nghiệp đô thị. Như vậy, càng ngày nông nghiệp đô thị càng trở nên quan trọng và có những đóng góp lớn cho phát triển bền vững các đô thị trên lãnh thổ này.

Hoạt động nông, lâm, thuỷ sản tại các đô thị (công việc chiếm nhiều thời gian nhất trong 12 tháng qua) hiện nay đã tạo việc làm cho 17,89% dân số đô thị từ


15 tuổi trở lên. Số giờ làm việc trung bình 1 ng­ười 1 tuần của dân số từ 15 tuổi trở lên (việc chiếm nhiều thời gian nhất trong 12 tháng qua) trong khu vực nông, lâm, thủy sản ở thành thị lần l­ượt là 27,63 giờ, 34,79 giờ và 37,99 giờ; ở khu vực nông thôn lần l­ượt là 28,08, 29,46 và 28,50 giờ. Tại các đô thị năm 2002 cũng đã có 2,92% dân số từ 15 tuổi trở lên ở khu vực thành thị làm công, làm thuê trong nông - lâm thuỷ sản [1].

Nếu tính cả những người tham gia hoạt động nông, lâm, thuỷ sản với tư cách là hoạt động thứ hai và những người tận dụng thời gian rảnh rỗi để tham gia hoạt động nông nghiệp thì con số trên còn lớn hơn nhiều.

Năm 2007, tỷ trọng của nông nghiệp trong GDP của TP Hồ Chí Minh là 0,9%, Hà Nội (cũ) 2,0%, Đà Nẵng 5,6%, Hải Phòng 11,0%, TP Cà Mau 11%, TP Lạng Sơn 5,2%, TP Quy Nhơn 8,3%; TX Sông Công (Thái Nguyên): 6,7%, TP Thanh Hoá 4,5%,... Hiện tượng trên ở Việt Nam cũng phù hợp với quy luật chung của thế giới: quá trình đô thị hoá càng phát triển thì tỷ trọng của nông nghiệp trong GDP càng thấp và giảm xuống.

Theo Điều tra mức sống hộ gia đình năm 2002, tỷ trọng thu nhập từ nông lâm thủy sản trong tổng thu nhập của hộ gia đình của khu vực thành thị là 6,85% (NN 4,48%, LN 0,16% và TS 2,21%), khu vực nông thôn là 43,28% (NN 35,93%, LN 2,04% và TS là 5,31%) và trung bình cả nước là 28,67% (NN 23,32%, LN 1,28% và TS là 4,07%). Tỷ lệ này thay đổi từ 2,32% ở TP Hồ Chí Minh đến 5,2% ở Hà Nội, 5,86% ở Đà Nẵng và 19,84% ở TP Hải Phòng [1]. Tuy vậy, nông nghiệp vẫn là một nguồn thu nhập quan trọng cho một bộ phận hộ gia đình, nhất là những hộ gia đình ở vùng ngoại thị và các gia đình nghèo có điều kiện tiếp cận với các nguồn lực để phát triển nông nghiệp tại các đô thị.

Theo tính toán của chúng tôi, nông nghiệp đô thị đã đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm của một số đô thị như sau: nhu cầu lương thực: Hà Nội 33%, Hải Phòng 85%, Đà Nẵng 23%, TP Hồ Chí Minh 10% và Cần Thơ 100%; nhu cầu rau, củ, quả thực phẩm: Hà Nội 55%, Hải Phòng 65%, Đà Nẵng 30%, TP Hồ Chí Minh 18% và Cần Thơ 70%; nhu cầu thịt gia súc, gia cầm: Hà Nội 25%, Hải Phòng 60%, Đà Nẵng 20%, TP Hồ Chí Minh 10% và Cần Thơ 70%; nhu cầu cá, tôm: Hà Nội tự túc được 22%, Hải Phòng 70%, Đà Nẵng 100%, TP Hồ Chí Minh 45 % và Cần Thơ 80% (bao gồm cả sản lượng cá, tôm nước lợ, nước ngọt, nước mặn nuôi trồng và đánh bắt được trên địa bàn) [2].

Nông nghiệp ở một số đô thị cũng đã tạo ra một số nông sản có giá trị xuất khẩu: nghề nuôi tôm, cá sấu, cây cảnh, cá cảnh ở TP Hồ Chí Minh, nghề trồng hoa ở TP Đà Lạt, nghề nuôi tôm ở các đô thị ven biển; nghề trồng chè ở TP Thái Nguyên, TX Tuyên Quang, TX Bắc Cạn, TX Sông Công, trồng hồi và cây làm thuốc ở TP Lạng Sơn, TX Cao Bằng; nghề trồng cà phê, cao su, hồ tiêu ở ngoại ô các đô thị ở Tây Nguyên; trồng cây ăn quả, nuôi tôm, cá ba sa ở các đô thị vùng Đồng bằng sông Cửu Long. So với khu vực nông thôn, trung bình năng suất cây trồng ở khu vực ngoại thị có năng suất cao hơn 30 - 50% nhờ hệ thống hạ tầng nông nghiệp phát triển.

Tất nhiên, nông nghiệp đô thị không chỉ là nguồn tạo nên GDP (giá trị kinh tế thuần tuý) mà còn tạo ra nhiều giá trị khác nữa: sinh thái, môi trường, giáo dục, nghỉ dưỡng, tận dụng thời gian rỗi... Nếu hạch toán cả những lợi ích này (bằng tiền), thì đóng góp của nông nghiệp đô thị cho GDP, thu nhập hộ gia đình còn lớn hơn nhiều.

Sự kết hợp giữa nông nghiệp với du lịch, nghỉ dưỡng (còn gọi là loại hình nông nghiệp du lịch và nông nghiệp nghỉ dưỡng) đang được chú ý phát triển tại nhiều đô thị: Thảo Cầm viên và khu du lịch Suối Tiên, Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ... (TP Hồ Chí Minh); Các khu du lịch cồn (gồm Cồn Ấu, Cồn Khương, Cồn Sương, Cồn Tân Lộc...) nằm liền dọc theo sông Hậu trên đường thủy quốc tế từ Campuchia ra Biển Đông, Vườn cò Bằng Lăng rộng 2ha có trên 20 loài chim,


10 giống cò (Cần Thơ); Hồ Tây, Công viên Lê Nin, Thủ Lệ, vườn Bách Thảo (Hà Nội), Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà (Hải Phòng)...

Không ít gia đình ở các đô thị Việt Nam, với truyền thống cần cù, tiết kiệm.... đã trồng rau, hoa, cây lương thực hai bên đường sắt; trồng ngô, rau, bầu, bí trên đất đã san lấp mặt bằng nhưng chưa xây dựng...

Có thể thấy rằng rất hiếm hộ gia đình ở đô thị không trồng cây, không có cây xanh. Nhiều gia đình còn nuôi cá cảnh, chim cảnh. Để đáp ứng nhu cầu rau sạch, một số gia đình ở các đô thị đã tận dụng sân thượng, sân, vườn... để trồng rau và thậm chí mở ra nghề mới: nghề trồng rau mầm và phương pháp canh tác mới: thuỷ canh... Ngay cả những gia đình mới chuyển đến đô thị sinh sống thì họ cũng tìm ngay những chậu hoa, cây cảnh, cây bóng mát để trồng. Nghĩa là họ mang những đối tượng của sản xuất nông nghiệp vào từng căn nhà trong đô thị.

3.2. Phân hoá lãnh thổ nông nghiệp đô thị Việt Nam khá rõ nét

Phân hoá lãnh thổ nông nghiệp đô thị của Việt Nam hiện nay diễn ra theo


5 hướng sau: Hướng thứ nhất: Hình thành các tập đoàn cây, con phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng. Về bản chất, tuy đô thị là phân hệ địa - kỹ thuật, nhưng nông nghiệp đô thị vẫn lấy cây trồng, vật nuôi làm đối tượng sản xuất, nên vẫn chịu tác động mạnh của các nhân tố tự nhiên và phân hoá lãnh thổ của chúng. Tại khu vực ven đô các đô thị miền núi có khí hậu cận nhiệt đới như Sa Pa, Đà Lạt... đang tập trung sản xuất các sản phẩm xứ lạnh: nghề trồng hoa, trồng rau ở Đà Lạt; nghề trồng thảo dược, rau và sản xuất giống rau ở Sa Pa. Vùng ven đô của các đô thị ven biển, nhờ có ưu thế về diện tích mặt nước lợ lớn đã tập trung vào nghề nuôi thuỷ sản xuất khẩu: nghề nuôi tôm, cá sấu ở TP Hồ Chí Minh, nuôi tôm ở Đà Nẵng, Hải Phòng; nghề nuôi tôm hùm ở Nha Trang, Quy Nhơn. Khu vực ngoại ô các đô thị ở trung du và miền núi phía Bắc tập trung vào trồng chè xuất khẩu (Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Cạn, Sông Công), cây hồi và cây làm thuốc (Lạng Sơn, Cao Bằng). Khu vực ngoại ô của các đô thị ở Tây Nguyên tập trung trồng cà phê, cao su, hồ tiêu. Khu vực ngoại ô của các đô thị ở Đông Nam Bộ tập trung vào trồng cao su, lạc, mía, đậu tương. Các đô thị ở Đồng bằng sông Cửu Long trồng cây ăn quả, nuôi thuỷ sản (tôm) hay cá ba sa. Ngoại ô các đô thị vùng Đồng bằng sông Hồng trồng hoa, rau, cây ăn quả. Các đô thị ở duyên hải Nam Trung Bộ tập trung phát triển dừa, hồ tiêu, điều, thanh long... Hiện tượng trên cho thấy nông nghiệp ở đô thị cũng in khá đậm nét dấu ấn chuyên môn hoá của
7 vùng nông nghiệp cả nước.

Hướng thứ hai: Quá trình đô thị hoá của Việt Nam đang bước vào giai đoạn tăng tốc, số lượng các đô thị tăng lên nhanh chóng. Trong giai đoạn 1999 - 2006, số lượng đô thị của Việt Nam tăng thêm 91 (từ 623 lên 714). Quá trình này làm thu hẹp đất nông nghiệp, mở rộng diện tích đất đô thị, nhưng lại là động lực gián tiếp mở rộng diện tích nông nghiệp đô thị và xuất hiện thêm nhiều khu vực nông nghiệp đô thị mới.

Hướng thứ ba: Quá trình mở rộng các đô thị (Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nội, Hải Dương, Thanh Hoá, Tam Kỳ, Biên Hoà...) một mặt làm cho diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp, nhưng mặt khác thúc đẩy nhiều khu vực nông nghiệp nông thôn chuyển thành khu vực nông nghiệp đô thị. Sự chuyển đổi đó diễn ra bắt đầu từ sự thay đổi địa bàn sản xuất đến chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, cơ cấu lao động nông nghiệp, cơ cấu lãnh thổ sản xuất, các loại hình và phương hướng sản xuất, hướng chuyên môn hoá. Đây là một hướng tất yếu phù hợp với xu hướng chung của thế giới.

Tại các khu vực tập trung công nghiệp, các khu công nghiệp tập trung, các hành lang kinh tế... mặc dù chưa được công nhận là đô thị, nhưng cơ cấu nông nghiệp cũng đã chuyển đổi theo hướng giảm tỷ trọng sản xuất lương thực, tăng tỷ trọng các ngành trồng rau, trồng hoa, cây cảnh, chăn nuôi lấy thịt, lấy sữa, nuôi thuỷ sản... Hiện tượng trên thể hiện khá rõ nét ở Dung Quất (Quảng Ngãi), Nghi Sơn (Thanh Hoá), khu vực phụ cận các khu công nghiệp ở TX Phúc Yên, dọc hành lang kinh tế quốc lộ 5...



Hướng thứ tư: Chuyên môn hoá nông nghiệp đô thị phục vụ chức năng của các đô thị. Ngoại trừ các đô thị đã có từ trước, hiện nay nông nghiệp đô thị cũng hướng vào việc chuyên môn hoá theo chức năng phục vụ các đô thị. Tại các đô thị du lịch (Hạ Long, Đồ Sơn, Đà Lạt, Nha Trang, Vũng Tàu....), nông nghiệp thay đổi theo hướng sản xuất các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu du lịch (rau, hoa, cây cảnh, nuôi thuỷ sản, đặc sản...) và hình thành loại hình nông nghiệp du lịch, nông nghiệp nghỉ dưỡng. Tại các đô thị công nghiệp (Việt Trì, Thái Nguyên, TX Sông Công, Biên Hoà...) có sự gia tăng đáng kể hệ thống cây xanh phòng hộ môi trường bao quanh các cơ sở sản xuất công nghiệp...

Hướng thứ năm: Phân hoá lãnh thổ nông nghiệp trong nội bộ đô thị: nông nghiệp nội thị và nông nghiệp ngoại thị.

Nông nghiệp nội thị ở nước ta có quy mô nhỏ, manh mún, xen ghép về mặt lãnh thổ với các hoạt động kinh tế khác nhau, nhiều tầng (tiến hành cả trên nóc nhà có mái bằng, ban công…), tiến hành canh tác cả trong các bể, thùng, chậu… và lãnh thổ sản xuất nông nghiệp tương đối ổn định do quy hoạch về cơ bản đã hoàn tất.

Nông nghiệp ngoại thị là bộ phận quan trọng nhất của nông nghiệp đô thị Việt Nam hiện nay. Chúng có lãnh thổ rộng, được quy hoạch rõ ràng, hình thành các vùng chuyên canh, các vành đai nông nghiệp nhưng lãnh thổ biến động mạnh do sự phát triển của không gian đô thị. TP Hải Phòng có vành đai phát triển rau, hoa, cây cảnh tập trung chủ yếu tại quận Hải An, huyện An Dương, quận Lê Chân và huyện Thuỷ Nguyên; vành đai phát triển sản xuất lương thực, thực phẩm tập trung tại quận Hải An, huyện An Dương, huyện Thuỷ Nguyên và huyện Kiến Thuỵ; vành đai phát triển sản xuất lương thực, chăn nuôi tập trung chủ yếu chăn nuôi lợn thịt, gia cầm và bò sữa nhằm đáp ứng nhu cầu của Hải Phòng, Quảng Ninh và xuất khẩu; vành đai phát triển sản xuất lương thực, cây ăn quả tập trung tại các huyện An Dương, Thuỷ Nguyên và Kiến Thuỵ.

TP Hồ Chí Minh đã hình thành các vùng: cây hoa cảnh, vùng cây ăn quả ở rải rác và xen các vườn hoa đặc chủng (ngâu, nhài, phong lan...), vùng cây ăn quả tập trung kinh doanh đa dạng, vùng rau thực phẩm các loại và vùng chăn nuôi cung cấp thịt, sữa, thuỷ sản... Riêng diện tích hoa, cây cảnh là 848ha năm 2005 dự kiến tăng lên 2.000ha vào năm 2010.

Hà Nội (cũ) có vùng hoa tập trung ở Tây Tựu (Từ Liêm), vùng rau an toàn Yên Mỹ, Duyên Hà (Thanh Trì); Đặng Xá, Văn Đức (Gia Lâm); Vân Nội, Nam Hồng (Đồng Anh); Thanh Xuân (Sóc Sơn); vùng nuôi bò chất lượng cao ở Sóc Sơn, Gia Lâm; các vùng trũng thuộc Thanh Trì, Gia Lâm, Đông Anh nuôi thuỷ sản.

Ngay tại miền Trung, thị xã Hà Tĩnh cũng đã phát triển mạnh nghề trồng hoa, cây cảnh. Năm 2006 có 80 hộ, mỗi hộ trồng trung bình 0,2 - 1,0ha. Nguồn giống lấy từ Hà Nội, Đà Lạt, Nghệ An. Trong điều kiện hiện chưa áp dụng công nghệ hiện đại, bình quân mỗi sào cũng cho thu nhập 18 - 20 triệu đồng (gấp 5 - 7 lần trồng lúa).

Khu vực giáp ranh các đô thị, sản xuất nông nghiệp cũng đang chuyển dần theo hướng nông nghiệp đô thị. Theo khảo sát của một số tác giả, các lãnh thổ nông nghiệp cận kề Hà Nội (cũ) thuộc các tỉnh Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên, Thái Nguyên, Bắc Giang đang có những chuyển dịch theo hướng sản xuất thực phẩm chất lượng cao, trồng hoa, cây cảnh để cung cấp cho Hà Nội. Hiện tượng tương tự cũng quan sát được ở các lãnh thổ nông nghiệp ở xung quanh


TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng. Tại Thanh Hoá, các huyện cận kề thành phố Thanh Hoá (Đông Sơn, Hoằng Hoá, Quảng Xương) có tỷ trọng rau đậu thực phẩm trong cơ cấu nông nghiệp cao hơn các huyện xa thành phố từ 5 - 9% [3].

3.3. Nông nghiệp đô thị ở Việt Nam in đậm tính chất nhiệt đới

Những lợi thế của vùng nhiệt đới: năng lượng mặt trời dư thừa, nền nhiệt độ cao, tổng nhiệt độ hoạt động lớn, nguồn nước tự nhiên phong phú, tập đoàn cây con đa dạng và phát triển quanh năm,... cũng được không chỉ nông nghiệp nông thôn mà cả nông nghiệp đô thị khai thác.



Tính chất nhiệt đới của nông nghiệp đô thị Việt Nam thể hiện ở những điểm sau:

- Có hệ thống cây trồng, vật nuôi đa dạng, trong đó chủ yếu là cây trồng, vật nuôi có nguồn gốc nhiệt đới hoặc đã được nhiệt đới hoá.

- Đa dạng trong cơ cấu mùa vụ. Sản xuất nông nghiệp tiến hành quanh năm, với nhiều vụ trong một năm mà không bị gián đoạn bởi một mùa băng tuyết kéo dài như nông nghiệp ở các nước xứ lạnh. Thêm vào đó, trong điều kiện đô thị, cơ sở hạ tầng và các điều kiện dịch vụ nông nghiệp tốt hơn, nên tính mùa vụ của nông nghiệp đô thị biểu hiện không đậm nét bằng tính mùa vụ của nông nghiệp nông thôn.

- Thực hiện được các biện pháp xen canh, thiết kế được nhiều tầng cây trên một diện tích canh tác theo trật tự ưu tiên cây cao ưa ánh sáng, cây tán rộng ưa ánh sáng, cây ít ưa ánh sáng và dưới cùng có thể là cây ưa bóng... như nhiều hộ ở TP Hồ Chí Minh, TP Đã Nẵng đã thực hiện.

- Nông sản phẩm khó bảo quản sau khi thu hoạch do nền nhiệt và ẩm cao.

- Tính bấp bênh trong sản xuất: dịch bệnh, thiên tai, hạn, lũ lụt, sự đổi đắp theo mùa của khí hậu và tính thất thường của thời tiết... Trong môi trường đô thị, mật độ xây dựng, nhà ở và dân số rất cao nên dịch bệnh dễ lây lan không chỉ cho cây trồng vật nuôi trong nông nghiệp mà cả con người.



3.4. Nông nghiệp đô thị Việt Nam có nhiều loại hình khác nhau

Loại hình sản xuất nông nghiệp đô thị là tập hợp các hình thức sản xuất nông nghiệp ở khu vực nội thị và ngoại thị có những đặc trưng chung về chức năng, tính chất, mục đích và trình độ phát triển. So với khu vực nông thôn, khu vực đô thị do có nhiều nguồn lực và các nhân tố tác động tới nên sẽ có nhiều loại hình nông nghiệp hơn.

Theo khảo sát của chúng tôi, những năm trước đây nông nghiệp đô thị ở nước ta chủ yếu có 5 loại hình và hiện nay đã có 9 loại hình (Bảng 1). Chứng tỏ quá trình đa dạng hoá nông nghiệp đô thị đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ.

Đáng chú ý các loại hình: nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp du lịch, nông nghiệp nghỉ dưỡng và nông nghiệp công nghệ cao đều là những loại hình nông nghiệp mà nhiều quốc gia trên thế giới đang khuyến khích phát triển.



Bảng 1: Các loại hình nông nghiệp đô thị ở Việt Nam

Các loại hình nông nghiệp đô thị

Trước thập kỷ 90

Hiện nay

1. Nông nghiệp tự cung, tự cấp

2. Nông nghiệp phục vụ khách sạn nhà hàng

3. Nông nghiệp phục vụ xuất khẩu

4. Nông nghiệp xanh

5. Nông nghiệp phòng hộ

6. Nông nghiệp sinh thái

7. Nông nghiệp du lịch

8. Nông nghiệp nghỉ dưỡng

9. Nông nghiệp công nghệ cao


+

+

+



+

+


+

+

+



+

+

+



+

+

+



3.5. Nông nghiệp đô thị Việt Nam có nhiều hệ thống sản xuất

Hệ thống nông nghiệp là sự biểu hiện không gian của sự phối hợp các ngành sản xuất và kỹ thuật do một xã hội thực hiện để thoả mãn các nhu cầu. Nó biểu hiện một sự tác động qua lại giữa một hệ thống sinh học - sinh thái mà môi trường tự nhiên là đại diện và một hệ thống xã hội - văn hoá, qua các hoạt động xuất phát từ những thành quả của kỹ thuật (Vissac.1979). Đương nhiên hệ thống nông nghiệp phải “thích ứng với các phương thức khai thác nông nghiệp của không gian nhất định do một xã hội tiến hành, là kết quả của sự phối hợp của các nhân tố tự nhiên, xã hội - văn hoá, kinh tế và kỹ thuật” (Touve.1988).

Hệ thống nông nghiệp có thể chia thành các hệ thống sản xuất, hệ thống chế biến, hệ thống tiêu thụ, hệ thống quản lý... Trong nghiên cứu này chúng tôi đã sử dụng 7 tiêu chí để phân loại các hệ thống sản xuất nông nghiệp đô thị: vị trí, chủ thể, chức năng, quy mô, công nghệ sử dụng, mức độ thương mại hoá và quyền sở hữu hay sử dụng đất đai và phương thức tổ chức sản xuất. Kết quả được thể hiện ở Bảng 2:

Bảng 2: Các hệ thống sản xuất nông nghiệp đô thị ở Việt Nam


Các hệ thống nông nghiệp đô thị

Trước thập kỷ 90

Hiện nay

1. Hệ thống nông nghiệp gia đình

2. Hệ thống nông nghiệp trên đất công (đất của các công trình khác, đất ở hai bên đường giao thông, bờ kênh, bờ sông, dưới đường dây cao thế, đất công trình chưa xây dựng...)

3. Hệ thống nông nghiệp tại các khuôn viên của các cơ quan, công sở, trường học, xí nghiệp, nhà thờ, đình, đền, chùa...

4. Hệ thống công viên

5. Hệ thống vườn thương mại quy mô nhỏ

6. Trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm quy mô nhỏ

7. Hệ thống nuôi thuỷ sản

8. Hệ thống lâm nghiệp đô thị

9. Xí nghiệp nông nghiệp

10. Hệ thống trang trại đa chức năng



+

+

+



+

+

+



+


+

+

+



+

+

+



+

+

+



+

Đáng chú ý các hệ thống trang trại sản xuất hàng hoá, trang trại đa chức năng và các xí nghiệp nông nghiệp là sản phẩm tất yếu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp và là những hệ thống nông nghiệp mà nhiều quốc gia trên thế giới đang khuyến khích phát triển.

3.6. Một số vấn đề đặt ra trong phát triển nông nghiệp đô thị

- Nông nghiệp đô thị có địa bàn sản xuất không ổn định. Hiện tượng này quan sát thấy ở hầu hết các đô thị Việt Nam. Nguyên nhân chính là do quá trình đô thị hoá đang bước vào giai đoạn tăng tốc, tính khả thi của các quy hoạch đô thị ở nước ta chưa thật cao.

- Nông nghiệp đô thị Việt Nam thường xuyên phải cạnh tranh với các hoạt động khác ở đô thị trong việc sử dụng nguồn lực: quỹ đất, nguồn nước, vốn đầu tư, nguồn năng lượng và lao động trong đô thị. Chẳng hạn, về diện tích đất, Chiến lược phát triển đô thị Việt Nam vạch kế hoạch cho diện tích đất đô thị đến năm 2020 là 460.000ha, nhưng đến 2006 đã thực hiện 477.000ha, vượt kế hoạch 13 năm.

- Lao động trong nông nghiệp có thu nhập thấp so với các hoạt động kinh tế khác ở đô thị là nguyên nhân cơ bản làm cho người dân đô thị ít mặn mà với hoạt động nông, lâm, thuỷ sản ở đô thị.

- Nông nghiệp đô thị ở Việt Nam hiện nay đang là một nguyên nhân quan trọng tác động xấu đến môi trường. Hoạt động chăn nuôi là nguyên nhân làm lây lan dịch bệnh, việc sử dụng nước thải và các loại hoá chất vượt quá mức cho phép trong cả trồng trọt lẫn chăn nuôi làm cho nông sản kém an toàn. Thêm nữa mật độ dân cư và xây dựng ở đô thị cao nên rất dễ lan truyền dịch bệnh.

- Vấn đề việc làm cho người nông dân mất đất canh tác do chuyển mục đích sử dụng.



- Vấn đề quản lý nông nghiệp đô thị. Hiện nay ở Việt Nam, Bộ Xây dựng quản lý việc lập và thực hiện quy hoạch phát triển đô thị còn Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý việc xây dựng và thực hiện quy hoạch phát triển nông nghiệp - nông thôn. Đây là một mâu thuẫn cần sớm được nghiên cứu giải quyết

4. Kết luận và đề xuất

Bước sang thế kỷ XXI, nông nghiệp đô thị của Việt Nam đang được định hình, phát triển và thực sự đã trở thành một bộ phận thiết yếu trong đời sống các đô thị Việt Nam. Ngoài những nét tương đồng với nông nghiệp đô thị của các nước đang phát triển, nông nghiệp đô thị ở Việt Nam cũng có những sắc thái riêng.

Để nông nghiệp đô thị thực sự là động lực để phát triển bền vững đô thị cần phải:

- Tiếp tục nhận thức đúng đắn hơn về đô thị. Trước kia, do quan niệm đô thị là tụ điểm dân cư­ tập trung, hoạt động công nghiệp dịch vụ là chủ yếu, hoạt động nông nghiệp là thứ yếu, với tỷ lệ cụ thể khác nhau, tuỳ từng n­ước. Chính do khái niệm này nên trong hàng trăm năm qua, các công trình quy hoạch xây dựng đô thị trên thế giới, hầu hết chỉ tập trung vào quy hoạch phát triển công nghiệp và dịch vụ, ch­ưa có quy hoạch về phát triển nông nghiệp đô thị. Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng các đô thị phát triển không đồng bộ, gây ra những mất cân đối trong các hoạt động kinh tế xã hội, trong sản xuất và đời sống ở các đô thị.

- Cần hình thành một quan niệm thống nhất về nông nghiệp đô thị. Nông nghiệp đô thị cũng là nông nghiệp nhưng có nhiều đặc điểm khác với nông nghiệp nông thôn cả về vai trò, chủ thể phát triển nông nghiệp, chức năng, cơ cấu ngành, tổ chức lãnh thổ. Vì vậy Việt Nam cần phải nhanh chóng triển khai các nghiên cứu về khu vực nông nghiệp này.

- Cần phải ổn định địa bàn sản xuất nông nghiệp đô thị. Nông nghiệp đô thị nói chung có địa bàn sản xuất không ổn định. Do sự mở rộng không gian đô thị mà nhiều lãnh thổ nông nghiệp đô thị dần biến thành không gian xây dựng, ngoại thành biến thành nội thành, nông nghiệp ngoại thị biến thành khu vực xây dựng và nông nghiệp nội thị, vùng nông nghiệp nông thôn biến thành nông nghiệp ngoại thị.

- Lựa chọn khâu đột phá trong phát triển nông nghiệp đô thị. Nông nghiệp đô thị phải cung cấp những dịch vụ và sản phẩm cao cấp nhất cho người dân đô thị. Trong điều kiện quỹ đất hẹp, lao động dư thừa, nguồn lực tự nhiên phong phú, thì khâu đột phá quan trọng nhất để phát triển nông nghiệp đô thị chính là ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp để nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Các lĩnh vực cần được ưu tiên là sản xuất giống cây, vật nuôi, lựa chọn kỹ thuật canh tác phù hợp, bảo quản và chế biến nông sản, ứng dụng công nghệ thông tin trong xúc tiến thương mại, quản lý giống, dịch bệnh.

CHÚ THÍCH


  1. I.M Madaleno, Cities of the future: urban agriculture in the third millennium. Tropical Institute, Lisbon, Portugal, 2002.

  2. Lê Văn Trưởng, “Phát triển các loại hình nông nghiệp đô thị ở Việt Nam”, tạp chí Kinh tế phát triển, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, số 136, tháng 10/2008.

  3. Lê Văn Trưởng, “Nghiên cứu xác định một số đặc điểm của nông nghiệp đô thị”, Hội thảo khoa học 50 năm Khoa Địa lý, Trường ĐHSP Hà Nội I, 2006.



T I Ể U B A N

ĐÔ THỊ VÀ ĐÔ THỊ HOÁ





PH¸T HUY VAI TRß NH¢N D¢N
TRONG X¢Y DùNG Vµ QU¶N Lý §¤ THÞ
QUA KINH NGHIÖM THùC TIÔN ë THµNH PHè §µ N½NG

P



KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO QUOÁC TEÁ VIEÄT NAM HOÏC LAÀN THÖÙ BA

TIEÅU BAN ÑOÂ THÒ VAØ ÑOÂ THÒ HOAÙÙ





GS.TS Trương Minh Dục*


Đô thị hoá (Urbanization) là quá trình chuyển đổi căn bản mọi mặt đời sống nông thôn sang đời sống xã hội đô thị. Đô thị hoá, theo nghĩa rộng, chính là quá trình tăng trưởng về dân số và diện tích của đô thị và cùng với điều đó là sự mở rộng của văn hoá và lối sống đô thị331. Đô thị hoá là quá trình hình thành và mở rộng không gian đô thị. Quá trình này là một quá trình đa diện, trong đó hai phương diện phổ biến nhất là đô thị hoá về kết cấu hạ tầng kỹ thuật và đô thị hoá về lối sống của cư dân. Hay nói cách khác, đô thị hoá là quá trình biến một vùng không có thuộc tính đô thị thành một vùng có những thuộc tính của xã hội đô thị.

Nếu như trước đây, đô thị hoá chủ yếu là tự phát thì hiện nay chủ yếu diễn ra theo những quy hoạch, kế hoạch, nằm trong chiến lược tổng thể của từng quốc gia, vùng lãnh thổ và địa phương. Đô thị hoá liên quan trực tiếp đến đời sống mọi mặt của người dân, nhất là người dân trong khu vực đang đô thị hoá. Vì vậy, theo những quan điểm hiện nay, để quá trình đô thị hoá thành công, hay nói rộng hơn là để đô thị phát triển bền vững, cần tổ chức thực hiện tốt việc tham gia của người dân vào các lĩnh vực của đời sống đô thị, nhất là trong quản lý, quy hoạch,


giải phóng mặt bằng, tái định cư. Bài viết này xin góp một vài ý kiến về sự tham gia của người dân trong những lĩnh vực như vậy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian từ khi thành phố trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương đến nay.

1. Quá trình đô thị hoá Đà Nẵng

Đà Nẵng có một vị trí địa lý, chính trị, quân sự và kinh tế trọng yếu, là “yết hầu” của miền Trung Việt Nam. Điều này đã được nhìn nhận khi Nguyễn Hoàng vào trấn giữ miền Thuận Quảng (1570 - 1606). Nhưng mãi đến đầu thế kỷ XX, Đà Nẵng thật sự trở thành đô thị trung tâm kinh tế, chính trị, quân sự của một vùng rộng lớn ở miền Trung Việt Nam, khi nó vượt Hội An về kinh tế. Có thể nói rằng, kể từ mốc lịch sử đó, quá trình đô thị hoá ở Đà Nẵng đã diễn ra nhanh hơn.

Với vị thế đặc biệt là “thành phố nhượng địa” duy nhất ở miền Trung Việt Nam, Đà Nẵng đã được người Pháp xây dựng khá nhanh trên các làng nông thôn cũ với các công trình kết cấu hạ tầng, công sở và khu dân cư được xây dựng theo kiểu Pháp chạy dọc sông Hàn, tạo thành “khu phố Tây” khá sầm uất. Trong vòng 6 năm (từ 1923 đến 1929) đã có đến 210 ngôi nhà kiểu phương Tây đã được xây cất.

Thời thuộc Pháp, thành phố nhượng địa Đà Nẵng nổi lên như là trung tâm kinh tế, một cảng biển lớn của xứ Đông Dương. Việc xây dựng thành công đường ô tô và tuyến đường sắt vượt Hải Vân nối Đà Nẵng với Huế được coi là một trong những thành tựu quan trọng trong quá trình khai thác thuộc địa Đông Dương. Và với việc hoàn thành xây dựng các cây cầu bắc qua các con sông lớn ở Nam Trung Bộ, Đà Nẵng đã có thể thông thương bằng xe hơi với Nha Trang, Sài Gòn và toàn Đông Dương. Đến khoảng những năm 1933 - 1935 cảng Đà Nẵng trở thành cảng đứng thứ ba Đông Dương, sau Sài Gòn và Hải Phòng. Mạng lưới giao thông ở Đà Nẵng phát triển hơn những nơi khác đã khẳng định ưu thế nhiều mặt của thành phố này đối với miền Trung - Tây Nguyên. Hầu hết các công ty lớn của Pháp hoạt động ở Đông Dương đều có mặt ở thành phố này. Đà Nẵng đã trở thành một trung tâm kinh tế không chỉ về cảng biển, công nghiệp, dịch vụ mà cả về tài chính. 

Trong chế độ Mỹ - Diệm, vào những năm 1954 - 1955, dân số Đà Nẵng là khoảng hơn 50.000 người, trong đó phần lớn là tiểu thương, thợ thủ công, công chức, công nhân và một bộ phận nông dân, ngư dân ở vùng ven thành phố. Từ tháng 10 năm 1955 chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành phân chia lại địa giới hành chính. Đà Nẵng được sáp nhập trực thuộc tỉnh Quảng Nam. Đến ngày 31/7/1962, chính quyền Sài Gòn tách tỉnh Quảng Nam thành hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín và tách Đà Nẵng thành thành phố trực thuộc Trung ương. Với vị trí chiến lược trọng yếu được Mỹ tập trung xây dựng, Đà Nẵng đã nhanh chóng trở thành một đô thị quân sự quy mô, trung tâm đầu não của Vùng I chiến thuật và của toàn miền Trung - Tây Nguyên. Trong giai đoạn này dân số Đà Nẵng tăng rất nhanh, chủ yếu là tăng cơ học do ảnh hưởng của chiến tranh: năm 1964 dân số thành phố là 148.599 người, sang năm 1965 đã lên tới 164.274 người; năm 1966: 228.035 người; 1967: 269.087 người; 1968: 314.532 người; 1969: 398.627 người; 1970: 411.932 người; 1971: 430.639 người; 1972: 440.000 người; 1973: 470.500 người và đến trước ngày giải phóng 29/3/1975 dân số Đà Nẵng đã lên tới gần nửa triệu người. 

Sau ngày giải phóng 30/4/1975, cùng với cả nước, thành phố Đà Nẵng bước vào công cuộc xây dựng CNXH. Từ một đô thị quân sự phục vụ cho chiến tranh, Đà Nẵng trở thành một trung tâm kinh tế - văn hoá - xã hội của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và của khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Tuy nhiên, trong điều kiện cơ chế cũ, thành phố đã bị hạn chế phát triển về nhiều mặt mặc dù Đà Nẵng được đánh giá là đô thị giàu tiềm năng. Kinh tế - xã hội Đà Nẵng đã phát triển một cách chậm chạp, quá trình kiến thiết thành phố đã diễn ra một cách chậm chạp; kết cấu hạ tầng nhiều mặt bị xuống cấp nhưng lại chậm được tu bổ, xây mới, nâng cấp. Mà một trong những nguyên nhân là: cơ chế tập trung, bao cấp đã xơ cứng hoá các quan hệ làm chủ của người dân, không phát huy được nội lực và tiềm năng trong dân. Sự tham gia của người dân vào quá trình phát triển thành phố không được chú trọng đúng mức, nhất là trong quản lý và quy hoạch đô thị,...



2. Những thành tựu trong việc phát huy vai trò nhân dân trong quá trình thực hiện quy hoạch, quản lý, xây dựng kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị ở Đà Nẵng từ 1997 đến 2007

Theo Nghị quyết của Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, ngày 01/01/1997 Đà Nẵng tách ra khỏi tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng trở thành thành phố trực thuộc Trung ương. Từ đó đến nay, bằng sự đoàn kết, nhất trí, khắc phục khó khăn, nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, Đà Nẵng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trở thành một trong những trung tâm phát triển về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội ở khu vực miền Trung và trong cả nước. Những kết quả mà Đà Nẵng đã đạt được, nhất là cách làm, không chỉ khẳng định vị thế của một thành phố năng động, nhiều tiềm năng mà còn trở thành một cách thức, mô hình phát triển thu hút sự quan tâm nghiên cứu tìm hiểu kinh nghiệm đối với nhiều địa phương khác trong cả nước. Mà một trong những thành công và bài học nổi bật là việc huy động sức dân thông qua mở rộng sự tham gia của người dân trong giải quyết bài toán quản lý và quy hoạch đô thị, trong giải tỏa, đền bù và tái định cư.

Nghị quyết 33 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã xác định: “Xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế - xã hội của miền Trung với vai trò là trung tâm công nghiệp, thương mại, du lịch và dịch vụ; là thành phố cảng biển, đầu mối giao thông quan trọng về trung chuyển vận tải trong nước và quốc tế; trung tâm bưu chính - viễn thông và tài chính - ngân hàng; một trong những trung tâm văn hoá - thể thao, giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ của miền Trung; là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh của khu vực miền Trung và cả nước. Đà Nẵng phải phấn đấu để trở thành một trong những địa phương đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH và cơ bản trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020.”

Để xây dựng và phát triển Đà Nẵng, lãnh đạo thành phố đã có những chủ trương, chính sách đúng đắn khơi dậy những tiềm năng to lớn trong dân. Phần lớn các chính sách này, nhất là các chính sách về quản lý, quy hoạch và chỉnh trang đô thị, tái định cư để xây dựng kết cấu hạ tầng, đã chú trọng vấn đề làm thế nào để huy động được sức dân, để các cộng đồng, các tổ chức chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện, tạo được sự đồng thuận xã hội rộng rãi làm cơ sở để thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách đã ban hành.

Quy hoạch và quản lý đô thị là một công việc đầy khó khăn, phức tạp, nhất là trong điều kiện kinh tế còn eo hẹp, đời sống còn thấp, kết cấu hạ tầng đô thị lạc hậu. Xây dựng, phát triển, hiện đại hoá kết cấu hạ tầng luôn đòi hỏi các nguồn đầu tư lớn, nhưng đây là lĩnh vực đầu tư ít sinh lời nên các nhà đầu tư thường không muốn đầu tư. Vì vậy, sau khi trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, lãnh đạo thành phố đã chọn khâu đột phá tạo tiền đề phát triển kinh tế - xã hội là tập trung phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị, quy hoạch và bố trí lại các khu dân cư, thực hiện kết cấu hạ tầng đi trước một bước. Thực tế cho thấy đây là chủ trương đúng không chỉ ở trên bình diện kinh tế mà còn trên bình diện chính trị, văn hoá và xã hội. Chỉnh trang đô thị, quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng, bố trí lại dân cư có ảnh hưởng trực tiếp đến người dân, vì lợi ích trước mắt/ lâu dài của dân và của thành phố nên việc tham gia rộng rãi của người dân và sự đồng thuận “ý dân” là tiền đề và điều kiện hết sức quan trọng cho sự thành công của chính sách.

Có thể nói rằng, sự lựa chọn đúng đắn khâu đột phá đã tạo cho Đà Nẵng một sức bật mới, từ đó Đà Nẵng đã có những bước phát triển mạnh mẽ hơn. Những thay đổi nhanh chóng của bộ mặt đô thị, của kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật của Đà Nẵng những năm vừa qua có thể thấy bước đột phá đó của lãnh đạo Đà Nẵng đã đơm hoa kết trái như thế nào.



Trong thực hiện chủ trương phát triển kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị, bài toán tìm nguồn vốn luôn là bài toán khó. Thế nhưng, với những nỗ lực chủ quan của lãnh đạo thành phố, của các chủ dự án đầu tư và nhất là sự vận dụng sáng tạo huy động sức dân khi thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” Đà Nẵng đã tạo ra một nguồn lực rất lớn để đầu tư vào lĩnh vực hết sức tốn kém này.

Vào thời kỳ Đà Nẵng chưa trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, nguồn ngân sách hàng năm đầu tư cho cơ sở hạ tầng thành phố chỉ bằng một huyện lớn như Thăng Bình, Quế Sơn, Đại Lộc,... Vào thời điểm khi Đà Nẵng trở thành thành phố trực thuộc Trung ương thì nguồn kinh phí này vẫn hết sức nhỏ bé so với nhiều thành phố cùng cấp. Và từ đó đến nay, từ một đô thị nhếch nhác, lạc hậu, Đà Nẵng đã mang một diện mạo hoàn toàn mới: Những đại lộ trải dài khắp nơi, những toà nhà cao tầng mọc lên, những trung tâm thể thao - văn hoá khang trang ra đời, những khu đô thị sáng sủa, sạch đẹp ngày một nhiều thêm,... Đó không phải là phép mầu của ''Cây đũa thần”, hay "Cây đèn thần” mà chính từ những chủ trương, chính sách hợp lý, sáng tạo, nhất là khơi dậy được ý thức công dân của người dân để người dân thấy được lợi ích của mình và gia đình mình nằm trong lợi ích của thành phố.

Để xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị, thành phố Đà Nẵng đã có cách làm mới, sáng tạo nhằm thực sự khơi dậy và phát huy ý chí, nguồn lực trong các tầng lớp nhân dân huy động được sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần xã hội, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng, tất cả vì mục tiêu phát triển thành phố, phát triển cộng đồng. Bên cạnh các nguồn lực vật chất, nguồn lực tinh thần cũng được chú trọng phát huy để tạo nên sức mạnh tổng hợp tối đa trong phát huy các nguồn lực trong dân từ tiền của, công sức, đất đai đến ý chí, tinh thần vì sự phát triển của thành phố.

Nếu chia các công trình chỉnh trang đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng ở Đà Nẵng thành bốn loại thì ba loại đã được thực hiện theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” chỉ trừ những công trình xây dựng rất lớn mang tính chất trọng điểm quốc gia332.

Đối với công trình loại nhỏ thực hiện ở các khu dân cư, người dân vừa là chủ đầu tư vừa giám sát việc thi công xây dựng; chính quyền quận hỗ trợ một phần kinh phí và bảo đảm các khâu quy hoạch, thiết kế. Tuỳ theo khả năng tài chính của từng quận/huyện mà sự tham gia của ngân sách quận/huyện có thể theo tỷ lệ 4/6; 3/7; 2/8; có nơi người dân đóng góp toàn bộ chi phí thậm chí lo cả việc cơm nước động viên người thi công. Theo con số thống kê chưa đầy đủ con số ước tính của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cho thấy người dân Đà Nẵng đã đầu tư xấp xỉ 100 tỷ đồng cho các công trình dân sinh "loại nhỏ" này. Chính nhờ nỗ lực này mà nhiều điểm tụ cư không theo quy hoạch, dưới chuẩn dần dần đổi thay thành những khu dân cư sạch, đẹp, vệ sinh.

Đối với những công trình cỡ vừa như mở đường mà không có khả năng khai thác quỹ đất, sự đóng góp của người dân càng lớn lao hơn. Chủ trương của thành phố là nếu việc mở rộng đường "đụng" vào nhà dân thì Nhà nước sẽ đền bù phần kiến trúc có trên đất, còn đất thì vận động người dân đóng góp cho Nhà nước một cách tự nguyện. Khó có thể liệt kê hết những đường phố đã và đang được mở rộng nâng cấp ở Đà Nẵng song, thời gian qua, các công trình này đã đưa vào diện "giải tỏa đền bù" gần 15.000 hộ dân với hơn 70.000 nhân khẩu, chiếm gần 10% dân số thành phố, trong đó có nhiều người là cán bộ cao cấp, lão thành cách mạng, có người buôn gánh bán bưng, có cơ sở sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế và cũng có cơ sở thờ tự của các tôn giáo. Những người dân này đã phải dời tới nơi ở mới hoặc phải thu hẹp bớt diện tích nhà cửa, hoặc phá bỏ một phần, xây dựng lại một phần, thậm chí là phải xây lại toàn bộ ngôi nhà,… Thực tế cho thấy, quá trình giải tỏa, chỉnh trang này diễn ra tương đối suôn sẻ, rất ít những vụ khiếu kiện căng thẳng, những "điểm nóng". Với ý thức vì sự phát triển chung của thành phố, phần lớn người dân đã tự nguyện hiến đất cho Nhà nước mở đường. Thành phố cũng đã làm nhiều cách để họ nhận thức rằng họ chịu thiệt một chút nhưng đất đai, nhà cửa của họ sẽ tăng thêm giá trị sau khi mở đường. Ý thức vì cộng đồng, vì thành phố của người dân Đà Nẵng rất đáng trân trọng. Từ sự tự nguyện của người dân, các công trình đã tiết kiệm được khoảng 25 - 40% kinh phí đầu tư nên tính khả thi được nâng cao. Chẳng hạn như dự án mở rộng đường Núi Thành. Theo các phương án được trình ra Hội đồng Nhân dân thành phố: nếu chọn phương án đền bù toàn bộ thì ngân sách phải chi ra 38.823 triệu đồng, song nếu áp dụng công thức "Nhà nước và nhân dân cùng làm" thì tổng mức đầu tư chỉ còn 20.376 triệu đồng, giảm đến hơn 46%. Trong hàng trăm công trình nâng cấp hạ tầng cơ sở và chỉnh trang đô thì đã và đang tiến hành ở Đà Nẵng, phần "tự nguyện" của người dân là bao nhiêu - điều đó hẳn khó tính toán được nhưng dứt khoát không phải là nhỏ.

Một công trình lớn tiêu biểu cho sự khởi đầu công cuộc chỉnh trang đô thị và xây dựng kết cấu hạ tầng ở Đà Nẵng là cầu sông Hàn với tổng vốn đầu tư đến trên 130 tỷ đồng, cũng là biểu trưng cho sự thành công của chính sách “Nhà nước và nhân dân cùng làm” vì quốc kế dân sinh. Đã có hàng chục tỷ đồng của dân, của các cơ quan, đơn vị trong và ngoài địa bàn Đà Nẵng được đóng góp. Có những người dân đã đóng góp hàng chục triệu đồng xây dựng cầu sông Hàn. Cầu Sông Hàn trở thành một trong những biểu tượng của thành phố Đà Nẵng thời kỳ Đổi mới.

Theo thống kê chưa đầy đủ, trong 8 năm (từ 1997 đến 2005) Đà Nẵng đã thực hiện 280 dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trên cơ sở khai thác quỹ đất. Trong số đó đã có 125 khu đã hoàn thành đầu tư kết cấu hạ tầng hoặc thu xong tiền sử dụng đất. Trong các dự án đã hoàn thành, có một khu phố chợ, 38 khu dân cư mới và 87 khu đất chuyển quyền sử dụng đất cho các tổ chức cá nhân đầu tư cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, du lịch. Trong 155 khu đất thành phố đang thực hiện có 105 khu tái định cư và khu đô thị mới, 8 khu đầu tư du lịch, còn lại là chuyển quyền sử dụng đất cho các tổ chức, cá nhân để đầu tư sản xuất kinh doanh và làm dịch vụ. Tổng số tiền khai thác quỹ đất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong


8 năm qua hơn 3.000 tỷ đồng. Trong 125 khu đất và dự án đã hoàn thành việc đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật hoặc thu xong tiền sử dụng đất, có 6 dự án thu tiền sử dụng đất không đủ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng tại chỗ, thành phố cấp bù thêm. Đó là khu chợ Đống Đa, khu siêu thị Bài Thơ và một số khu dân cư khác như Đa Phước 2, Đa Phước 3,... Trên cơ sở tiền khai thác quỹ đất đã thu vào ngân sách, thành phố sử dụng toàn bộ để đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật của từng dự án và một số công trình khác. Tổng số vốn đã đầu tư mà trong đó sử dụng chủ yếu từ nguồn khai thác quỹ đất tính từ năm 1997 đến cuối năm 2004 gần 3.576 tỷ đồng. Trong đó, chi cho công trình giao thông - công chính, hạ tầng đô thị gần 3.107 tỷ đồng, đầu tư cho giáo dục đào tạo hơn 73,4 tỷ đồng, chi cho y tế - xã hội 32 tỷ đồng, chi cho văn hoá - thông tin khoảng 40 tỷ đồng, chi cho thể dục - thể thao hơn 51,2 tỷ đồng, cho ngành thủy sản - nông lâm gần 38 tỷ đồng, công nghiệp gần 140 tỷ đồng, quản lý nhà nước, hội đoàn thể gần 19 tỷ đồng và các ngành khác gần 69 tỷ đồng... Có thể nói, cơ chế tạo nguồn vốn của thành phố Đà Nẵng thực hiện trong những năm qua đã đem lại hiệu quả quan trọng, khai thác tốt nguồn nội lực và tạo cho ngân sách nguồn vốn khá lớn để đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật, phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội trong điều kiện ngân sách còn nhiều khó khăn. Nhờ nguồn vốn từ khai thác quỹ đất, nhiều công trình lớn, có ý nghĩa đối với sự phát triển của thành phố đã phát huy tác dụng: như đường Nguyễn Văn Linh, Hàm Nghi, Nguyễn Tri Phương, Lê Duẩn, quốc lộ 1A (đoạn Liên Chiểu, Hoà Cầm), Nguyễn Tất Thành, Phạm Văn Đồng, Sơn Trà - Điện Ngọc,... Thành phố đã cơ bản hoàn thành việc xoá những khu dân cư ổ chuột, khu nhà chồ nhếch nhác ven bờ sông Hàn, ven bờ biển Thuận Phước... Thành phố đã mở rộng và xây mới hàng loạt các khu dân cư và khu đô thị mới, cũng như xây nhiều khu công nghiệp tập trung,... tạo những điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư đến Đà Nẵng.

Trong vòng 10 năm (1997 - 2006), chỉ riêng quận Ngũ Hành Sơn đã có gần


20 vạn hộ tự nguyện di dời, nhường bớt đất ở, đất sản xuất để góp phần cùng Nhà nước, địa phương tạo ra những tuyến đường lớn, một số công trình hoành tráng trên địa bàn. Những ngôi nhà mới khang trang của công dân, của các thành phần kinh tế đã mọc lên, làm cho tốc độ đô thị hoá nơi đây thay đổi từng ngày. Quá trình đô thị hoá đã làm cho diện tích canh tác ở đây giảm xuống: cả quận hiện chỉ còn 1.371ha đất canh tác (trong đó 671ha lúa nước)333.

Chỉ tính riêng một phường là Thanh Lộc Đán, quận Thanh Khê, theo số liệu năm 2003 nhân dân đã đóng góp kinh phí xây dựng 13 công trình với tổng số tiền 947 triệu đồng. Từ nguồn quỹ ủng hộ người nghèo, phường đã hỗ trợ sửa chữa


3 nhà tình thương, mỗi nhà 8 triệu đồng; hỗ trợ khó khăn và sửa nhà cho các hộ nghèo, nhà mẫu giáo và các hộ chung cư, tái định cư với số tiền 8 triệu 270 nghìn đồng; hỗ trợ 21 nhà cho các hộ khó khăn và nghèo với số tiền 166 triệu đồng; xây dựng 7 công trình vệ sinh với số tiền 10 triệu 500 nghìn đồng. Phường đã vận động nhân dân phát huy tinh thần đoàn kết, tương thân tương trợ, ủng hộ hàng trăn triệu đồng cho các hộ nghèo làm nhà, hỗ trợ sửa chữa 6 ngôi nhà diện chính sách với số tiền 18 triệu đồng. Phường cũng đã hoàn thành 3 công trình xây dựng trên địa bàn, 10 công trình Nhà nước và nhân dân cùng làm với tổng kinh phí 1 tỷ 114 triệu đồng, trong đó nhân dân đóng góp 202 triệu đồng. Trong năm 2005, toàn phường đã có 19 công trình Nhà nước và nhân dân cùng làm với tổng kinh phí 1.036 triệu đồng334.

Trong chính sách khai thác quỹ đất, giải tỏa đền bù, tái định cư, thành phố đã chú trọng giải quyết thỏa đáng nhu cầu về đất ở cho các hộ giải tỏa tái định cư, nhất là các đối tượng chính sách, cán bộ và các đối tượng nghèo. Đây là một trong những nhân tố quan trọng giúp thành phố đẩy nhanh được tiến độ giải phóng mặt bằng và tiến độ xây dựng các công trình trên địa bàn. Cũng cần nhấn mạnh rằng, Đà Nẵng thực hiện tốt việc khai thác quỹ đất còn nhờ làm tốt công tác tuyên truyền vận động nâng cao ý thức của người dân, tạo thế trận lòng dân thuận cho việc chỉnh trang xây dựng thành phố, vì một thành phố giàu đẹp và văn minh. Thành công trên lãnh vực này của Đà Nẵng còn nhờ vào công tác quản lý của Nhà nước được thực hiện khá tốt khiến các nguồn vốn được tạo ra từ quỹ đất không bị thất thoát hoặc rơi vào túi của một số ít các nhà đầu tư.

Nói tóm lại, chính sách và phương thức thực hiện chính sách xây dựng kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị, đền bù, giải tỏa, tái định cư của Đà Nẵng đã “tạo được sự đồng thuận giữa ý Đảng và lòng dân”. Ngoài truyền thống yêu nước vốn có của người Đà Nẵng, thì các chính sách và cách làm đúng đắn, hợp lòng dân này đã có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với người dân, khiến họ tự giác và vững tin sẵn sàng nhường chỗ ở cũ cho Nhà nước để đến nơi ở mới - dù đó mới chỉ là nhà tạm chờ.

Đánh giá về cách khai thác quỹ đất của thành phố Đà Nẵng, GS.TSKH Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng: “Từ khi Đà Nẵng trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, trong điều kiện còn nhiều khó khăn nhưng để đáp ứng nhu cầu chỉnh trang đô thị, phát triển cơ sở hạ tầng, bằng việc khai thác quỹ đất, thành phố Đà Nẵng đã khai thác tốt nguồn nội lực. Cách làm của Đà Nẵng về khai thác và sử dụng quỹ đất là việc làm hay, đáng biểu dương...”

Cơ chế tạo vốn từ quỹ đất của Đà Nẵng là trên cơ sở quy hoạch tổng thể và kế hoạch sử dụng đất của thành phố Đà Nẵng đã được phê duyệt, lãnh đạo thành phố đã thực hiện cơ chế tạo vốn từ quỹ đất với những nguyên tắc phù hợp thực tế thành phố. Thành phố thống nhất về quy hoạch, xây dựng và phê duyệt các dự án, tổ chức khai thác và thu toàn bộ tiền sử dụng đất mới tạo ra, trong đó bao gồm cả chi phí đầu tư và tạo vốn. Trên cơ sở Nghị định của Chính phủ và hướng dẫn của các Bộ, Ngành Trung ương và thực tế tại địa phương, UBND thành phố Đà Nẵng đã ban hành thống nhất một đơn giá đền bù về đất đai, tài sản, cây cối hoa màu, về giá chuyển quyền sử dụng đất và bố trí tái định cư,... Trong công tác giải phóng mặt bằng UBND thành phố đã triển khai đồng bộ cho các ngành liên quan và giao cho các Ban đền bù chuyên trách trực tiếp thực hiện. Trong khai thác quỹ đất, giao cho các chủ đầu tư quản lý các dự án và khai thác quỹ đất. Thành phố Đà Nẵng thực hiện chủ trương thống nhất trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, tiếp dân và xử lý các vướng mắc, kiến nghị của nhân dân. Bên cạnh đó, công tác quản lý nguồn thu, bố trí kế hoạch chi đầu tư XDCB từ nguồn khai thác quỹ đất đều hạch toán đầy đủ qua ngân sách thành phố và được thanh toán theo quy định qua Kho bạc Nhà nước... Về các hình thức thu tiền sử dụng đất, thành phố Đà Nẵng áp dụng theo cách Nhà nước đầu tư trực tiếp. Đối với tất cả các dự án đầu tư khu dân cư, khu tái định cư đều được UBND thành phố phê duyệt quy hoạch chi tiết, phê duyệt dự án đầu tư khả thi và chỉ định đơn vị quản lý. Giá đất để thu tiền sử dụng đất do UBND thành phố quyết định. Đất đã có hạ tầng kỹ thuật được quản lý, bố trí theo chỉ đạo thống nhất của UBND thành phố, ưu tiên theo thứ tự sau: bố trí tái định cư cho các bộ giải tỏa, bố trí theo xét duyệt của UBND thành phố đối với hộ chính sách, CBCNV bức xúc về nhà ở, sau đó còn lại áp dụng hình thức đấu giá chuyển quyền sử dụng đất cho các cá nhân, tổ chức có nhu cầu. Toàn bộ nguồn thu về tiền sử dụng đất, các đơn vị phải nộp vào ngân sách thành phố, sau đó được trích lại 1% để chi phí cho hoạt động quản lý quỹ đất và lập các thủ tục chuyển quyền sử dụng đất. Chi phí đầu tư kết cấu hạ tầng (bao gồm cả chi phí giải phóng mặt bằng) được ngân sách thành phố cấp lại cho các chủ đầu tư theo đúng trình tự cấp phát và thanh toán vốn đầu tư XDCB. Về quy trình thực hiện, việc thực hiện các dự án đầu tư đã được UBND thành phố phê duyệt phải qua các khâu, các công đoạn theo đúng quy định mà trong đó công tác đền bù giải phóng mặt bằng, đầu tư xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng.

Công tác giải phóng mặt bằng được thực hiện nghiêm ngặt theo 6 bước, gồm: thu hồi đất, kiểm định đo đếm xác định số lượng, chất lượng, tài sản, cây cối hoa màu bị thiệt hại; thu thập hồ sơ giấy tờ liên quan đến đất đai, tài sản bị giải tỏa để xét và phê duyệt tính pháp lý về nhà đất; tính toán thẩm định, phê duyệt giá trị đền bù, chi trả tiền đền bù cho hộ bị giải tỏa; nhận mặt bằng và bàn giao cho đơn vị thi công. Việc thu tiền sử dụng đất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng cũng được thực hiện khá năng động và linh hoạt. Những đối tượng có hoàn cảnh khó khăn, hộ giải tỏa có giá trị đền bù thấp thì cho nợ một phần hoặc toàn bộ tiền đất trong thời gian 3 - 5 năm và có thể gia hạn đến 10 năm, có chính sách giảm 10% giá trị sử dụng đất khi nộp đủ số tiền trong thời gian 30 ngày (đối với đất ở) và 60 ngày (đối với đất chuyên dụng) kể từ ngày được giao đất,...

Trong thời gian gần đây, UBND thành phố Đà Nẵng còn áp dụng hình thức khoán gọn việc thu tiền sử dụng đất ở một số dự án đầu tư khu dân cư, khu đô thị mới nhằm thực hiện thu nhanh tiền sử dụng đất vào ngân sách. Với hình thức này, các chủ dự án phải nộp tiền sử dụng đất vào ngân sách theo giá đất nguyên trạng (chưa có kết cấu hạ tầng), sau đó thực hiện đầu tư theo đúng quy hoạch chi tiết do UBND thành phố phê duyệt. Toàn bộ các chi phí đầu tư về cơ sở hạ tầng, giải phóng mặt bằng do chủ dự án lo. Các chủ dự án chủ động quyết định giá chuyển quyền sử dụng đất có đủ cơ sở hạ tầng. Thành phố áp dụng hình thức dùng quỹ đất thanh toán nguồn vốn đầu tư cơ sở hạ tầng. Với hình thức này, đơn vị đầu tư cơ sở hạ tầng phải ứng trước vốn để đầu tư hạ tầng theo đúng thiết kế và dự toán được phê duyệt. Khi đã có quỹ đất đầy đủ, thành phố sẽ định giá theo mục đích sử dụng mới và thay vì dùng tiền thì dùng một phần diện tích đất tương ứng với giá trị đã đầu tư để thanh toán cho đơn vị thi công. Cùng với hình thức kết hợp giữa chuyển quyền sử dụng đất với cho thuê đất trong một dự án, thành phố Đà Nẵng còn tìm ra nhiều biện pháp khai thác có hiệu quả quỹ đất, quỹ nhà, áp dụng phương châm ''Nhà nước và nhân dân cùng làm'' để tạo ra sức mạnh từ nội lực...

Một trong những việc khó khăn nhất và cũng là nhạy cảm nhất đối với người dân là đơn giá đền bù. Đà Nẵng đã sớm ban hành đơn giá này đối với từng loại đất, từng vị trí đất, từng loại nhà cửa, vật kiến trúc, từng loại cây cối, hoa màu, một cách rõ ràng với những chính sách hỗ trợ và thưởng/phạt cụ thể. Cùng với điều đó, Đà Nẵng đã tổ chức tốt công tác tiếp dân giải quyết kịp thời những vướng mắc, khiếu kiện của dân. Đây là địa phương đầu tiên có lịch tiếp dân của chủ tịch UBND định kỳ hàng tháng. Đây là một nguyên nhân làm cho Đà Nẵng ít có khiếu kiện vượt cấp kéo dài mặc dù đến nay, thành phố đã phê duyệt đến gần 70.000 hồ sơ giải tỏa, với tổng giá trị đền bù hơn 3.700 tỷ đồng. Nhận xét về việc này, ông Đặng Hùng Võ đã nói: “Trong những năm qua, Thanh tra Nhà nước, Thanh tra Tài nguyên - Môi trường đã về thành phố Đà Nẵng để thanh tra, và bản thân tôi cũng nhiều lần xem xét những đơn thư khiếu kiện của dân nhưng không có những trường hợp nào sai phạm lớn, vi phạm Luật Đất đai. Với một khối lượng lớn về các hộ giải tỏa nhưng Đà Nẵng làm được điều đó là nhờ công tác tiếp dân tốt.”

3. Một số kinh nghiệm trong việc phát huy vai trò của nhân dân trong quản lý, quy hoạch đô thị và xây dựng kết cấu hạ tầng ở Đà Nẵng

Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ XIX (2005) đã thông qua các chỉ tiêu định lượng chủ yếu là: Từ nay đến 2010, phải nâng tỷ trọng GDP của thành phố chiếm trong tổng GDP cả nước từ 1,8% năm 2005 lên 2,1%. “Nhịp độ tăng trưởng GDP trung bình 14 - 15% giai đoạn 2006 - 2010. GDP bình quân đầu người đến năm 2010 đạt 2.000 USD” và “đạt 5.000 USD vào năm 2020”. Cơ cấu kinh tế sẽ chuyển dịch theo hướng “dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp”, trong đó, “vào năm 2020, ngành dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng trên 60% GDP”335.

Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề nhưng đầy kỳ vọng mà đất nước giao cho Đà Nẵng thực hiện. Để đạt được những mục tiêu trên, Đà Nẵng phải có nỗ lực rất lớn, quyết tâm rất cao và phải hết sức sáng tạo, năng động. Đạt được những mục tiêu kinh tế như vậy phải phát huy nội lực để xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng đô thị văn minh, hiện đại. Để làm được điều đó, trong các chính sách phát triển của mình Đà Nẵng phải phát huy được nội lực từ trong dân, tiếp tục mở rộng sự tham gia của người dân vào quá trình quy hoạch, quản lý đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị,...

Những cách làm của Đà Nẵng trong phát triển, đặc biệt là xây dựng kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị, trong giải tỏa đền bù, tái định cư và xây dựng lối sống văn minh đô thị đã thể hiện sự năng động, sáng tạo của một thành phố có nhiều tiềm năng. Đà Nẵng trở thành một mô hình phát triển thu hút sự quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu kinh nghiệm đối với nhiều tỉnh, thành trong cả nước.336 Trong những thành công đạt được của Đà Nẵng thời gian qua, có phần đóng góp đáng kể của người dân Đà Nẵng. Bằng cách của mình, họ đã tích cực tham gia đóng góp vào sự phát triển của thành phố nói chung, của sự nghiệp xây dựng kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị nói riêng.

Những thành tựu trong quá trình đô thị hoá, xây dựng kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị của Đà Nẵng có thể rút ra một số kinh nghiệm về việc phát huy vai trò nhân dân như sau:

- Trước hết, mọi chính sách đô thị hoá, xây dựng kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị phải thực sự hướng tới mục tiêu đem lại lợi ích cho người dân chứ không vì lợi ích cục bộ của một nhóm người nhỏ bé nào. Trên tinh thần đó thành phố cần rà soát, điều chỉnh, bổ sung các loại quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án phát triển của thành phố và các ngành, các cấp ở Đà Nẵng làm cho các quy hoạch, kế hoạch, chương trình này thống nhất, liên kết được với nhau và phù hợp với nhu cầu thực tế và định hướng phát triển chung của Đà Nẵng.

- Hai là, cách tiến hành thực thi các chính sách này phải luôn được cải tiến cho phù hợp theo hướng công bằng và công khai hơn và dân chủ hơn, trong đó đối tượng của chính sách nên được tham gia ở mức độ cao nhất có thể vào quá trình lập quy hoạch và triển khai các dự án có liên quan đến họ.

- Ba là, trong quá trình phát triển xã hội đô thị hiện đại đòi hỏi phải xây dựng hệ thống chính trị các cấp có đủ khả năng thiết lập và thực thi các chính sách liên quan đến đô thị hoá, quy hoạch và quản lý đô thị.

Cần phải thấy rằng, những thành tựu đạt được ở Đà Nẵng trong phát triển nói chung, trong xây dựng kết cấu hạ tầng chỉnh trang đô thị nói riêng, một phần rất lớn bắt nguồn từ hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ trong hệ thống này. So với nhiều địa phương, phần lớn cán bộ trong hệ thống chính trị các cấp ở Đà Nẵng có “tâm” và đủ “tầm” hơn. Để làm tốt hơn công cuộc phát triển thành phố cần chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ công chức các cấp - nhất là cán bộ lãnh đạo của thành phố có tư chất và phong cách làm việc thực sự “trọng dân, gần dân, hiểu dân và có trách nhiệm với dân”. Mặc dù, những năm qua, đội ngũ cán bộ thành phố đã được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn, bố trí, song so với yêu cầu đòi hỏi trong giai đoạn mới thì trình độ, phong cách làm việc của phần đông đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở ở Đà Nẵng vẫn còn nhiều bất cập. Vì vậy, điều quan trọng trong công tác cán bộ ở thành phố hiện nay là phải lựa chọn được đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt “có tầm” và “có tâm” hơn.

Việc chủ động tổ chức đối thoại trực tiếp giữa lãnh đạo chủ chốt của thành phố với các tầng lớp nhân dân, thành tâm nghe dân phát biểu nguyện vọng, từ đó tập trung giải quyết tích cực, kịp thời những vấn đề bức xúc đối với người dân ở cơ sở; việc các cuộc họp của HĐND thành phố, đặc biệt là các buổi trả lời chất vấn của lãnh đạo các cơ quan nhà nước được truyền hình trực tiếp để nhân dân theo dõi, tham gia góp ý kiến và giám sát,... đã tạo nên sự đồng thuận giữa Đảng với dân trong các quyết sách chính trị có liên quan đến các vấn đề “quốc kế, dân sinh” của thành phố trong những năm qua. Đó là nền tảng sức mạnh, là động lực bên trong để thành phố có thể giải quyết một cách cơ bản, vững chắc những vấn đề tưởng chừng như chưa thể giải quyết được trong điều kiện trước mắt.

- Bốn là, việc thực hiện các chính sách liên quan đến xây dựng kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị, đền bù, giải tỏa, tái định cư cần tạo nên các cuộc tuyên truyền vận động có sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể quần chúng, lồng ghép với các phong trào khác như “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” “thành phố 5 không”, “thành phố 3 có”,... nhằm nâng cao nhận thức người dân, nâng cao ý thức cộng đồng, ý thức công dân tạo điều kiện thuận lợi để các chính sách, các dự án sớm đi vào cuộc sống.

Trong quá trình thực hiện các dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị cần nâng cao khả năng tuyên truyền, vận động của các Ban dự án. Công tác tuyên truyền, vận động phải mềm dẻo, linh hoạt, để người dân thấy được sự hài hoà giữa lợi ích quốc gia, lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân trong thực hiện dự án. Ngoài cơ quan chuyên môn, cần mời thêm các tổ chức quần chúng như Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, thậm chí là các tổ chức tôn giáo cùng tham gia để tạo sự đồng thuận của dân trong quá trình thực hiện dự án - nhất là những dự án có giải tỏa, đền bù, huy động sự đóng góp của dân, hạn chế những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình thực hiện dự án.

- Năm là, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị, cần tiếp tục quá trình mở rộng dân chủ, tăng cường tính tự quản ở khu dân cư, tạo lập và giữ gìn sự đồng thuận xã hội để người dân tích cực hơn nữa tham gia vào quá trình xây dựng, chỉnh trang này. Theo hướng này cần tiếp tục coi việc thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở như là một phương cách tốt để thực hiện và mở rộng sự tham gia của người dân vào trong quá trình quy hoạch, quản lý đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị.

Với tính cách là công cụ để mở rộng dân chủ, tăng cường tự quản ở khu dân cư, nội dung quy chế dân chủ cũng như quá trình tổ chức thực hiện nó cần phải được điều chỉnh, bổ sung, làm rõ hơn:

Chẳng hạn, các Nghị định của Chính phủ về thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở mới quy định các việc phải làm nhưng lại chưa quy định biện pháp chế tài kèm theo nên việc chấp hành các quy định này vẫn còn tuỳ thuộc khá nhiều vào sự nhận thức, đặc biệt là quan niệm, tính cách của người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Điều này cho thấy cần thiết phải pháp luật hoá và cụ thể hoá hơn nữa các nội dung của các Nghị định này cũng như cần thiết lập cơ chế kiểm tra, xử lý những cá nhân và tập thể vi phạm hiệu quả, nghiêm minh.

Công khai tài chính là một biện pháp quan trọng để cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân thực hiện quyền giám sát, kiểm tra nhằm ngăn chặn những sai phạm trong các hoạt động có liên quan... Thực tế cho thấy, những quy định này vẫn mang tính hình thức. Nội dung này trong quy chế cần phải được cụ thể hoá, đồng bộ hoá một bước. Trước mắt, cần công khai và minh bạch các nguồn thu - chi của các dự án, chương trình xây dựng và phát triển thành phố; nâng cao trình độ hiểu biết của mọi người dân và phát huy thực sự quyền giám sát của họ trong quá trình tổ chức thực hiện các công trình có tính quốc kế, dân sinh.

Cần công bố công khai và rộng rãi các quy định của Nhà nước liên quan tới xây dựng kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị, di dời, giải tỏa và tái định cư, tạo điều kiện để người dân hiểu và tham gia vào quá trình quy hoạch, quản lý, xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị.

- Sáu là, quy hoạch, chỉnh trang đô thị, phát triển kết cấu hạ tầng nhằm hướng tới phục vụ cuộc sống của con người, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi tầng lớp nhân dân. Người dân thành phố đã nhận rõ điều đó qua thực tế, đó là nguyên nhân căn bản tạo nên sự đồng thuận xã hội trong việc thực hiện những chủ trương, chính sách có tính nhạy cảm về mặt lợi ích mà các cấp lãnh đạo, quản lý thành phố đề xướng. Tuy nhiên, cần nhận thấy rằng, hiện nay vẫn còn một bộ phận dân cư chưa hoàn toàn được hưởng lợi, nếu không nói bị thiệt hại (như mất công ăn việc làm, thu nhập bấp bênh, các quan hệ truyền thống bị phá vỡ,...) Vì vậy, cần tập trung nghiên cứu để có những giải pháp giúp đỡ những đối tượng này.

Mặt khác, các cấp có thẩm quyền cần theo dõi chặt chẽ và xử lý nghiêm minh tất cả các cơ quan, đơn vị, cá nhân tư túi, tư lợi, nhũng nhiễu, chèn ép người dân trong quá trình triển khai thực hiện các dự án đền bù, tái định cư.

- Bảy là, các chính sách giải tỏa, đền bù, tái định cư cần phải được điều chỉnh, bổ sung thường xuyên cho phù hợp với cuộc sống và đảm bảo đầy đủ lợi ích cho người dân. Cho đến nay, chính sách tái định cư của Nhà nước vẫn chủ yếu tập trung vào đền bù, giải tỏa di chuyển dân đi mà chưa thật sự quan tâm giải quyết hiệu quả những vấn đề “hậu tái định cư”. Chẳng hạn, ngay trong chính sách đền bù, khung giá của nhà nước, kể cả sự vận dụng của các địa phương, vẫn quá thấp so với giá chuyển nhượng thực tế trên thị trường và rất chậm thay đổi so với sự biến đổi của giá thực tế; Số tiền hỗ trợ chuyển đổi nghề cho những người tái định cư lại quá thấp so với yêu cầu của mức đầu tư bình quân để tạo nên một chỗ làm mới trong thực tế337 đã làm cho người tái định cư khó khăn trong tạo việc làm, tăng thu nhập khi chuyển đến nơi ở mới.

Tái định cư hiện nay được hiểu là một quá trình bao gồm đền bù các thiệt hại về đất đai và tài sản, hỗ trợ di chuyển, ổn định và khôi phục cuộc sống cho những người tái định cư, tạo điều kiện cho họ có mức sống không thua kém ở nơi ở cũ. Từ nhận thức như vậy, Chính sách tái định cư cần tính toàn đầy đủ cả các lợi ích kinh tế lẫn cả các lợi ích xã hội, trong đó kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội như tạo việc làm, ổn định cuộc sống và giảm nghèo đói cho những người bị ảnh hưởng của dự án. Người tái định cư cần được thông báo đầy đủ và được tham khảo ý kiến chi tiết về các phương án đền bù và tái định cư. Trong các đối tượng tái định cư, cần đặc biệt chú trọng đến các phụ nữ và các gia đình có phụ nữ làm chủ hộ, các hộ nghèo đói, các đối tượng chính sách xã hội vì những đối tượng này thường gặp nhiều khó khăn, bất lợi hơn cũng như khó có điều kiện phát triển hơn khi di chuyển đến nơi ở mới.

Cho đến nay, các chính sách đối với người tái định cư, nhất là chính sách về việc làm và thu nhập vẫn còn những bất cập, chưa hợp lý hoặc chưa đầy đủ. Các cơ quan chức năng có liên quan đến tái định cư cần nghiên cứu để sớm khắc phục những vấn đề này.



Là một thành phố đang trong quá trình đô thị hoá với tốc độ rất nhanh, bộ mặt Đà Nẵng đang thay đổi hàng ngày. Không gian đô thị và kết cấu hạ tầng thành phố không ngừng mở rộng và hiện đại hoá. Đây là niềm tự hào của Đảng, chính quyền và nhân dân thành phố Đà Nẵng trong công cuộc đổi mới hiện nay. Với những thành công khá ngoạn mục khởi đầu, Đà Nẵng đang cố gắng phát huy lợi thế và những tiềm năng quyết tâm xây dựng Đà Nẵng thành một đô thị văn minh, hiện đại, trở thành thành phố động lực của khu vực miền Trung - Tây Nguyên và của cả nước.

1   ...   18   19   20   21   22   23   24   25   26




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương