PHÁc thảo tình hình sản xuất nông nghiệP…PH¸T TRIÓN M¤ H×NH MíI VÒ Tæ CHøC CHÝNH QUYÒN §¤ THÞ
S.TS Bùi Thế Vĩnh* 1. Đặt vấn đề 1. Việt Nam đã trải qua 22 năm đổi mới (1986 - 2008), đã thực hiện một sự chuyển đổi lớn lao từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung (hệ quả của nó là quan liêu, bao cấp) sang cơ chế kinh tế thị trường. Mô hình quản lý kinh tế mới đã làm cho Việt Nam phát triển và hội nhập nhanh chóng. Tiềm lực và vị thế kinh tế đã được tăng so với trước năm 1986 nhiều lần. Hai thành tựu nổi bật là Việt Nam không chỉ sản xuất đủ gạo tiêu dùng trong nước mà còn xuất khẩu, có thứ hạng cao ở thị trường xuất khẩu, số lượng nhà kiên cố được xây dựng khắp mọi miền tổ quốc, bộ mặt quốc gia thay đổi hàng năm. Sự chuyển đổi đó tất yếu làm cho mô hình tổ chức chính quyền đô thị cũng có sự thay đổi nhất định về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm. Nhưng rõ ràng về căn bản vẫn là mô hình tổ chức chính quyền đô thị theo luật tổ chức HĐND và UBHC năm 1983 và luật tổ chức HĐND và UBND năm 1994, theo Hiến pháp 1980 và hiến pháp 1992. Mô hình tổ chức chính quyền đô thị về căn bản đồng nhất với mô hình tổ chức chính quyền nông thôn. Có thể nói tính áp đặt và thừa kế quá nhiều. 2. Tại hội nghị lấy ý kiến của Bộ, Ngành về cơ chế quản lý và phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, tổ chức tại Hà Nội ngày 5/6/2002, Bộ trưởng, Trưởng ban TCCB chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) Đỗ Quang Trang đã phát biểu: “Chúng tôi rất muốn Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành thí điểm chính quyền đô thị. Bởi nhiều nước trên thế giới, tổ chức chính quyền đô thị và nông thôn là khác nhau, trong khi ở nước ta lại giống nhau. Thành phố cũng 3 cấp chính quyền mà tỉnh cũng 3 cấp chính quyền…, làm sao cho bộ máy được tinh gọn hơn, nhanh nhạy hơn”. 3. Ở Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều đề xuất các mô hình khác nhau về cải cách tổ chức bộ máy chính quyền đô thị, đòi hỏi phải có một luận chứng có sức thuyết phục để tổ chức lại (mô hình mới) một cách căn bản chính quyền trong khu vực nội thành, có sự phân biệt rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm so với chính quyền nông thôn, tổ chức hợp lý HĐND và UBND ở từng cấp như chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 đã chỉ ra. 4. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006), đòi hỏi phải: “Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân định lại thẩm quyền đối với chính quyền nông thôn, đô thị, hải đảo”. 5. Với bài tham dự Hội thảo về lĩnh vực đô thị và Đô thị hoá, tôi chọn tiêu đề “Phát triển mô hình mới về tổ chức chính quyền đô thị” ở Việt Nam trong những năm sắp tới. Đây là một vấn đề đã được nhiều độc giả quan tâm từ lâu, nhưng còn rất nhiều ý kiến khác nhau. Cho đến nay chưa thể có một mô hình mới trong bối cảnh trách nhiệm và thẩm quyền của cơ quan và người đứng đầu cơ quan còn rất “rối ren”, cơ quan tư pháp đang đứng trước một thực tiễn quá bất cập. Hy vọng của tác giả là tổ chức chính quyền đô thị Việt Nam trong quá trình hội nhập và phát triển sẽ có sự thay đổi căn bản mô hình tổ chức, nhờ đó cải cách tổ chức bộ máy chính quyền đô thị tiếp cận được với thông lệ quốc tế, phù hợp với thực tiễn Việt Nam là tốc độ đô thị hoá phát triển nhanh hơn, hiệu quả hơn. 2. Hai điều kiện cơ bản để phát triển mô hình mới về tổ chức chính quyền đô thị 2.1. Điều kiện 1: đổi mới tư duy hành chính Một trong những kinh nghiệm của đổi mới kinh tế Việt Nam thành công là sự khởi đầu bằng đổi mới tư duy kinh tế. Gốc rễ mọi sự đột phá là đổi mới tư duy. Không có tư duy mới thì không có sự đổi mới và cũng không thể hình thành một mô hình tổ chức mới. Nội dung cơ bản của đổi mới tư duy hành chính trong CCHC, theo chúng tôi được biểu hiện trên bốn mặt sau đây:
Chủ tịch Hồ Chí Minh khi ký sắc lệnh 76 ngày 20/5/1950 ban hành quy chế công chức, trong lời nói đầu: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền hành trong nước là của toàn thể nhân dân” Như vậy, nguyên tắc nhà nước phục vụ dân sẽ trở thành một trong những nguyên tắc cơ bản. • Đổi mới tư duy về mối quan hệ biện chứng giữa Nhà nước và thị trường.
Cách tư duy một chiều, đối lập hoặc cường điệu nhân tố Nhà nước hay nhân tố thị trường đều không mang đến hiệu quả trong việc xây dựng một nền kinh tế phát triển với tốc độ tăng trưởng cao, bền vững và một xã hội lành mạnh. • Đổi mới tư duy về vai trò, chức năng và sự can thiệp trực tiếp của các cơ quan hành pháp, cơ quan hành chính và các quá trình xã hội. Việt Nam luôn luôn chú ý đến kinh nghiệm của nhiều nước, đó là quản lý hành chính nhà nước chỉ nên đảm nhận những chức năng phù hợp nhất và có thể thực hiện tốt nhất trong lĩnh vực hoạt động của mình: - Hoạch định chiến lược, chính sách, lập quy hoạch phát triển; - Điều tiết thu nhập; - Buộc mọi tổ chức và công dân phải tuân theo công bằng, bình đẳng theo luật pháp; - Ngăn chặn sự phân biệt chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo; - Ngăn chặn sự bóc lột, tệ nạn xã hội và xoá đói giảm nghèo; - Tập trung tinh lực cho xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tạo môi trường lành mạnh trong cạnh tranh; Để thực hiện tư duy này, cần có bốn kỹ năng tư duy: - Chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước có cần không? Không cần thì loại bỏ. - Chức năng, nhiệm vụ này có nhất thiết phải do Nhà nước đảm nhận không? Không nhất thiết thì xã hội hoá. - Tất cả các công việc này phải do cán bộ, công chức thực hiện? Không nhất thiết thì phải thuê khoán hợp đồng một số công việc nhất định. - Phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ đích thực cho cơ quan hành chính Trung ương và cơ quan hành chính Địa phương đảm nhận thông qua phân công, phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương. Có quy tắc gì chi phối phân công, phân cấp, phân quyền? Quy tắc 1: Những hoạt động hành chính mà cấp dưới làm được thì giao cho họ đảm nhận. Quy tắc 2: Những hoạt động hành chính mà cấp dưới không thể làm được thì cấp trên phải đảm nhận. Quy tắc 3: Mỗi một hoạt động hành chính chỉ giao cho một cấp, một tổ chức, một cơ quan đảm nhận, tránh trùng lặp, chồng chéo, tranh giành. Quy tắc 4: Mọi hoạt động hành chính phải tương ứng với một dòng ngân sách nhất định khi thay đổi, chuyển giao hoạt động hành chính từ cơ quan này sang cơ quan khác, từ cấp này sang cấp khác thì phải kèm theo nguồn ngân sách. Tài chính công là căn cứ tính hiệu quả và phòng ngừa tham nhũng và lãng phí. Quy tắc 5: Các nhiệm vụ hành chính nhà nước càng được chia nhỏ bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Chỉ như vậy mới mô tả được công việc một cách rõ ràng, rành mạch cho từng công chức, từng bộ phận tổ chức. Phân tích bao giờ cũng là cơ sở để thực hiện chuyên môn hoá và chuyên nghiệp hoá. • Đổi mới tư duy về hội nhập quốc tế về hành chính là phải từng bước, kiên trì và kiên quyết chuyển đổi từ nền hành chính công truyền thống sang nền hành chính công hiện đại, phát triển; chuyển đổi từ quản lý theo mô hình tập trung sang mô hình phi tập trung. Đây là vấn đề mang tính quy luật, tất yếu trong quá trình phát triển xã hội trong lĩnh vực lý luận hành chính. 2.2. Điều kiện 2: đổi mới nhận thức về đô thị Đứng trên góc độ tổ chức và quản lý có 5 nhận thức cơ bản như sau: • Mỗi một đô thị là một đơn vị hành chính - lãnh thổ thống nhất, không thể chia cắt. Đó là sự thống nhất về mặt lãnh thổ và sự thống nhất về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội công cộng. Là một đô thị dù lớn hay nhỏ việc quy hoạch xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng, công trình phúc lợi công cộng, quy hoạch các khu dân cư… đều gắn kết chặt chẽ với nhau trên phạm vi toàn đô thị, đều phải theo quy hoạch, kế hoạch chung của cả đô thị, chứ không thể theo từng đơn vị hành chính nội bộ. Đây là căn cứ thiết kế hệ thống giao thông, chống ùn tắc. • Mỗi một đô thị là một chỉnh thể kinh tế - xã hội thống nhất, ràng buộc chặt chẽ và phụ thuộc trực tiếp vào nhau, cần nhấn mạnh rằng tất cả các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại, dịch vụ không bị ràng buộc bởi ranh giới hành chính trong nội bộ, mà là sự đan xen, gắn kết chặt chẽ trong phạm vi toàn đô thị (thành phố, thị xã). Sự gắn kết của người dân với nơi cư trú không chặt chẽ, thường xuyên như ở các vùng nông thôn, không chịu ảnh hưởng của những tập quán, truyền thống, lễ nghi riêng biệt, mà nếu có thì chỉ là những nét đặc trưng của từng đô thị. Cũng cần nói rằng, đặc điểm dân cư đô thị phức tạp và đa dạng hơn các vùng nông thôn, làm gia tăng yêu cầu và chất lượng công tác lãnh đạo, quản lý. • Quản lý nhà nước ta ở đô thị mang tính tập trung cao. Ở đây việc áp dụng việc phân cấp, phân quyền quản lý giữa các cấp chính quyền trong nội bộ đô thị không thể giống như các cấp chính quyền nông thôn (vì Quận, Phường khác với Huyện, Xã). Vì thế, thường thường là sử dụng cơ chế ủy quyền của chính quyền Thành phố, Thị xã cho các cơ quan hành chính và quản lý cấp dưới thực thi một số công việc nhất định, nhưng phải đảm bảo tính thống nhất, không phân tán, tản mạn. • Tính phức tạp, đa dạng với khối lượng lớn, loại hình phong phú trong cung ứng dịch vụ công bao hàm dịch vụ hành chính công, dịch vụ công và dịch vụ công cộng. Công dân đô thị có nhu cầu cung ứng dịch vụ chất lượng ngày càng cao đòi hỏi hưởng thụ các giá trị văn hoá và giải trí đa dạng với phương thức cung ứng thuận lợi nhất. Điều này gắn liền với cải cách thủ tục hành chính, đổi mới hoạt động doanh nghiệp nhà nước công ích và các tổ chức dịch vụ. • Quản lý nhà nước về mặt xã hội trong đô thị là một đặc trưng nổi bật luôn luôn phát sinh nhiều vấn đề mới, nhất là đi lại, công ăn việc làm, tệ nạn xã hội và cũng là nơi có nhiều việc rất khó kiểm tra, kiểm soát so với nông thôn.
Mỗi một danh mục công việc có dòng ngân sách kèm theo. Ý nghĩa của “dòng ngân sách kèm theo” là để chúng ta chú ý đầy đủ “chi tiêu ngân sách nhà nước” hoạt động tự quản, “xã hội hoá”, “hoạt động phi chính phủ” và khu vực tư nhân, từ đó mới có khả năng đưa tiêu chí “hiệu quả” để đánh giá hoạt động các cơ quan hành chính nhà nước. 2. Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Chính quyền đô thị chỉ nên nhận những nhiệm vụ đích thực. Nhiệm vụ đích thực là những nhiệm vụ mà có thể thực hiện tốt nhất để phục vụ xã hội, phục vụ nhân dân, với điều kiện có quyền hạn và nguồn kinh phí kèm theo tương ứng. Đây là giải pháp có hiệu lực để chấm dứt việc nói không gắn với làm. 3. Chúng tôi cho rằng, từ năm 1983 đến nay, số lượng và loại nhiệm vụ mà HĐND và UBND Chính quyền đô thị đảm nhận là quá tải, cần giảm bớt đầu việc so với quy định hiện hành và những việc do Bộ, Ngành cấp trên quy định. Việc “đo lường” thực thi nhiệm vụ đã giao chưa được triển khai, hiện trạng này không còn thích hợp với tiến trình CNH, HĐH, ĐTH và hội nhập quốc tế trong những năm tới. HĐND Chính quyền đô thị chỉ nên tập trung vào 3 chức năng: Chức năng đại diện Chức năng quyết định Chức năng giám sát Việc ra các quyết định HĐND cũng nên thu gọn vào những vấn đề có tính chính sách, giải pháp (kế hoạch, ngân sách, đánh giá tổ chức và nhân sự). UBND chính quyền đô thị cũng nên thu gọn đầu việc và nên quy thành 3 loại việc sao cho rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu. - Những việc đã quy định cụ thể trong luật theo sự phân cấp, phân công, phân quyền giữa trung ương - địa phương. - Những việc theo sự ủy quyền của cấp trên, có văn bản quy định rõ ràng (gắn với định biên và ngân sách nhà nước). - Những việc có tính tự quản của địa phương do HĐND quyết định 4. Mô hình mới tổ chức chính quyền đô thị về đại thể: Theo chúng tôi, mô hình tổ chức hiện nay không chỉ là cồng kềnh mà quá phức tạp, các mối quan hệ ngang dọc chồng chéo lên nhau. Một nhiệm vụ chiến lược là đơn giản hoá bộ máy, đơn giản hoá cơ chế tổ chức. Đối với những thành phố, thị xã có quy mô lớn, dân số đông, mặt bằng phức tạp thì có thể tổ chức các Ban đại diện hành chính tại các khu vực dân cư trong nội bộ đô thị để thực thi một số công việc cụ thể theo cơ chế ủy quyền UBND thành phố thị xã. Có thể giao toàn quyền tổ chức bộ máy cho Thị trưởng đảm trách. Để vận hành tổ chức bộ máy chính quyền đô thị mới, cần phải thiết lập thể chế mới:
Như vậy việc phát triển mô hình mới về tổ chức chính quyền đô thị Việt Nam là hết sức phức tạp, cần một dự án thiết kế tổ cơ chức và liên quan đến hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật hiện hành (từ hiến pháp, các bộ luật, luật, nghị định…), do đó cần có chủ trương cấp thẩm quyền cao nhất, đặt dự án thiết kế tổ chức trong hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Không nên tiếp cận đến thuận ngữ “thí điểm”, mà phải là một quyết sách mới, đột phá sâu sắc đến hệ thống tổ chức hành chính hiện hành và thực hiện đồng loạt như là một dự án luật mới. TÀI LIỆU THAM KHẢO Viện khoa học Tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ; Dự án điều tra thực trạng tổ chức và hoạt động của chính quyền đô thị ở nước ta hiện nay, Hà Nội, 2007. Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội, kỷ yếu Hội thảo khoa học: Phương pháp luận và cách tiếp cận vấn đề xây dựng mô hình tổ chức và quản lý nhà nước, đặc thù các Đô thị trực thuộc Trung ương”, Hà Nội 2008. (Đề tài KX.02-03/06-10). GS.TS Bùi Thế Vĩnh: Mười hai vấn đề về thiết kế và phân tích tổ chức các cơ quan hành chính Nhà nước, NXB Giao thông Vận tải, 2006. Đề tài khoa học cấp thành phố: Tổ chức lại hệ thống chính quyền khu vực nội thành Hà Nội, GS.TS Bùi Thế Vĩnh Chủ nhiệm, 2003. THµNH PHè NHá - T¸C §éNG LíN?
|
|
KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO QUOÁC TEÁ VIEÄT NAM HOÏC LAÀN THÖÙ BA TIEÅU BAN ÑOÂ THÒ VAØ ÑOÂ THÒ HOAÙÙ |
|
annah von Bloh, Tim Kaiser
*Sự đô thị hoá nhanh chóng là một động lực nhưng vẫn là một hiện tượng mới tại Việt Nam. Việt Nam vẫn còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ các khu vực nông thôn, hiện là nơi cư trú của 73% dân số Việt Nam. Điều này đã gợi lên một câu hỏi cốt lõi tự nó đã cho thấy, trong diện mạo của sự đổi thay nhanh chóng, sự tương tác giữa thành thị và nông thôn diễn ra như thế nào? Đặc biệt là làm thế nào để hoà nhập với các khu vực nông thôn và làm thế nào để họ tham gia vào sự phát triển?
Trong bài viết này, những thành phố nhỏ (đặc biệt là các thành phố quận huyện) chính là một điểm nút hoà nhập có tầm quan trọng tiềm tàng mới dành được một ít sự quan tâm nhờ các nghiên cứu. Những tranh luận về chính sách hiện thời tại Việt Nam liên quan đến việc quy hoạch không gian ngoài ra còn tính đến vai trò của các thành phố nhỏ bên trong hệ thống các thành phố lớn. Các bước đi nhằm mục đích phân quyền nhiều hơn chẳng hạn như tạo cho các địa phương có quyền tự trị và phạm vi hành động lớn hơn là một phần của chiến lược này. Hệ thống phân loại quốc gia đối với các trung tâm đô thị giao cho các thành phố nhỏ một vai trò chủ chốt như "trung tâm cấp tỉnh đẩy mạnh phát triển trung tâm nông thôn và/hoặc quận huyện" (Coulthart et. al. 2006: 58). Theo tính toán chính thức, các trung tâm đô thị nhỏ thuộc loại "Hạng V" đại diện cho số lượng rất lớn các trung tâm đô thị bên trong hệ thống phân loại quốc gia; 612 trong số 703 trung tâm đô thị tại Việt Nam được ghi nhận thuộc về nhóm này (Coulthart et al. 2006: 59). Trong khi các thành phố nhỏ không cung cấp nơi cư trú cho phần lớn dân số đô thị cũng như chưa trải qua mức tăng trưởng dân số đô thị cao nhất, tuy nhiên do phân tán trên diện rộng và ở các vùng lân cận, họ lại đóng vai trò thiết yếu cho sự hoà nhập của vùng nông thôn. Do đó, các thành phố nhỏ là những vũ đài quan trọng, mà ở đó các cá thể đến từ rất nhiều nơi là thành thị và nông thôn, nhà nước và nhân dân giao tiếp với nhau.
Một phân tích về những quy trình cục bộ trong những thành phố nhỏ không chỉ hứa hẹn một sự thấu hiểu tốt hơn về những động lực của sự phát triển khu vực mà còn hiểu hơn những quy trình ra quyết định và những cơ cấu quyền lực ở cấp độ có thể ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày của tỷ lệ lớn dân chúng. Sự hoà nhập xảy ra nhờ những cuộc chạm trán, dàn xếp và tương tác giữa rất nhiều cá thể. Một phương pháp tiếp cận cho phép kết hợp những khía cạnh của cá thể và hình ảnh mang tính kết cấu, nhấn mạnh đến "sự ảnh hưởng lẫn nhau và sự xác định chung các nhân tố và mối quan hệ "bên trong" và "bên ngoài" (Long 2001: 13) là khái niệm về cái chung của xã hội. Những không gian xã hội là một "điểm giao nhau then chốt giữa những cuộc đời con người, các lĩnh vực xã hội hoặc các cấp tổ chức xã hội nơi những điểm gián đoạn của xã hội [...] có nhiều khả năng được xác định " (Long 2001: 243). Những không gian này được mô tả bằng những sự chênh lệch về sự phân phối các nguồn lực và những sự khác biệt trong phong cách sống - thuộc tính ngoài ra còn áp dụng vào sự pha trộn cuộc sống nông thôn và thành thị trong các thành phố nhỏ. Khái niệm về những không gian do đó có thể giúp nắm bắt được tác động của những mối liên kết giữa thành phố nhỏ và các trung tâm khác nằm trong hệ thống đô thị, những liên kết trở thành những dòng người, tiền bạc, hàng hoá hoặc thông tin. Trong khi Long coi những không gian xã hội chủ yếu là những "hoàn cảnh xã hội", xem những trung tâm đô thị nhỏ như những không gian ngoài ra còn nhấn mạnh một chiều không gian (Long 2001: 241). Những không gian bao gồm và nằm trong những trung tâm đô thị nhỏ sau đó trở thành khối bê tông trong không gian như địa điểm, đối tượng và biểu hiện tương tác và những chênh lệch về quyền lực. Tôi muốn đề xuất ba không gian để xem xét kỹ lưỡng thêm, cụ thể là những tương tác giữa thành phố và nông thôn, nhà nước và nhân dân cũng như giữa người tiêu dùng và nhà sản xuất (nghĩa là thị trường).
Quỹ Dân số Liên hợp quốc dự đoán tỷ lệ đô thị hoá tăng 3% hàng năm trong các năm từ 2005 đến 2010 (UNFPA 2007). Những trung tâm đô thị lớn hưởng lợi khi nguồn lực và đồng vốn trào vào gần đây có đi kèm với sự phát triển kinh tế nhanh chóng tại Việt Nam. Tuy nhiên, sự phát triển đô thị nhanh và dòng chảy di dân tràn vào đang đặt chính quyền đô thị dưới sức ép ngày càng tăng. Mặt khác, những khu vực nông thôn lại đang trải qua tình trạng kiệt quệ về vốn, nhân lực và những nguồn lực khác. Do sự đẩy mạnh thu hoạch một lần, cuộc sống ở nông thôn đang ngày càng phụ thuộc và dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài. Tất cả những điều này góp phần vào nguy cơ của sự phát triển không bình đẳng về không gian. Hiện tại 70% GDP ở Việt Nam phát sinh từ các trung tâm đô thị, cho dù trong số này chỉ chiếm 27% dân số quốc gia. Mức đô thị hoá vẫn còn tương đối thấp ở Việt Nam tuy nhiên lại mở ra cơ hội cho những chính sách mới gây tác động lên những xu hướng địa lý và nhân khẩu học đảm bảo cho sự phát triển bình đẳng và bền vững hơn.
Các trung tâm đô thị nhỏ và vừa đặc biệt quan trọng đối với các khu vực đang trải qua sự biến đổi nhanh như Việt Nam. Do quy mô và cơ cấu của mình, những trung tâm đô thị nhỏ/các thành phố quận huyện có khả năng phải xử lý những vấn đề đô thị hoá và phát triển theo cách linh hoạt hơn so với các thành phố lớn. Được sở hữu những nguồn lực cần thiết, việc điều chỉnh những trung tâm này dễ dàng hơn liên quan đến việc mở rộng lãnh thổ, những câu hỏi về việc ra quyết định, việc sử dụng các nguồn lực địa phương và tận dụng những lợi thế về địa thế tương ứng nhằm thu hút đầu tư. Những thành phố nhỏ cho thấy một mối liên kết then chốt giữa các vùng đô thị và nông thôn đan xen vào nhau ngày càng nhiều hơn, thu hút những dòng chảy của người, hàng hoá, tài chính và thông tin trong khu vực và toàn cầu. Nhờ tính ưu việt với vị trí trung gian trong hệ thống các thành phố, sự phát triển của những thành phố nhỏ có thể khiến những trung tâm này trở thành những điểm đến lựa chọn hấp dẫn cho dân nhập cư, lưu giữ họ ở lại trong địa phương của mình và qua đó giảm đi sức ép lên các trung tâm đô thị lớn hơn. Những thành phố nhỏ như mối dây liên kết giữa thế giới nông thôn và thành thị có thể đẩy mạnh sự phát triển bên trong nông thôn bằng cách đẩy mạnh sự hoà nhập của các khu vực nông thôn và trong dòng chảy các nguồn lực của địa phương. Chúng đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp cho địa phương tương ứng của mình những hàng hoá, dịch vụ xã hội và kinh tế, hành chính. Là một trung tâm dịch vụ trong địa bàn nông thôn, những thành phố nhỏ còn mang lại sự tiếp cận đối với những cơ sở hành chính, y tế và giáo dục, đến lượt mình lại cho tiếp cận bình đẳng hơn đến các hàng hoá và dịch vụ.
Trước hết điều quan trọng là phải xác định những trung tâm đô thị nhỏ tại Việt Nam. Do đó một cái nhìn vào sự phân loại chính thức những thành phố là điều cần thiết. Hai hệ thống riêng biệt tồn tại: một hệ thống phân loại các trung tâm đô thị theo dân số, mật độ dân số, tỷ lệ phần trăm dân số làm việc ngoài sự cung cấp cơ sở hạ tầng và nông nghiệp. Các trung tâm đô thị được phân chia thành sáu hạng, hạng một "Các thành phố Đặc biệt", bao gồm Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Hạng thấp nhất là các trung tâm Hạng V (Coulthart et al, 2006). Tuy nhiên, sự phân loại sử dụng các chỉ số rất khó đánh giá. Trong khi ngay cả những chỉ số đơn giản nhất, quy mô dân số cũng không dễ đánh giá, thậm chí còn khó khăn hơn cả việc đánh giá tỷ lệ phần trăm lao động phi nông nghiệp. Thêm vào đó, những sự phân loại khác đôi khi được sử dụng, khiến việc so sánh dữ liệu trở nên khó khăn. Song song với nghiên cứu tình huống sau đây, bài viết này chỉ nhìn vào những trung tâm đô thị Hạng V, tạo thành phần lớn tất cả các trung tâm đô thị tại Việt Nam, theo đó một điểm trong nghiên cứu này là ví dụ.
Những công cụ chính chính phủ sử dụng nhằm quản lý và tạo ảnh hưởng lên những quá trình đô thị hoá là những kế hoạch then chốt được chuẩn bị cho bốn cấp hành chính, mỗi kế hoạch liên quan đến lĩnh vực mà các cơ quan tương ứng phải chịu trách nhiệm: các kế hoạch định hướng (chính sách quốc gia), các kế hoạch khu vực, các kế hoạch chính (tỉnh hoặc thành phố) và các kế hoạch khu vực chi tiết (khu vực, khu công nghiệp hay các dự án). (Coulthart 2006: ix). Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, phê chuẩn Kế hoạch Định hướng Chính Phát triển các Trung tâm Đô thị của Việt Nam đến năm 2020 của Bộ Xây dựng, nêu rõ "Những trung tâm nhỏ và trung bình sẽ đảm nhận các chức năng của các trung tâm kinh tế, văn hoá và dịch vụ của các địa phương" và "các thành phố nhỏ sẽ là những trung tâm kinh tế, văn hoá và dịch vụ cho các xã hoặc các cụm xã nhằm thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn và xây dựng những vùng nông thôn mới" (Quyết định của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam số 10/1998/QD-TTg). Trong khi rất chung chung như thế, những tuyên bố này tuy nhiên lại nhận thức được tầm quan trọng của các thành phố nhỏ đối với sự phát triển của nông thôn, quốc gia và đô thị hoá. Tuy nhiên, theo Coulthart và cộng sự (2006: ix) những kế hoạch này tạo thành những kế hoạch được lý tưởng hoá về những gì mà các cơ quan và những nhà lên kế hoạch mong muốn, hơn là những nguyên tắc khả thi. Ngoài ra, không có các chính sách chi tiết nào nói về cách phải thực hiện những mục tiêu được đặt ra như thế nào. Nhiệm vụ này được để lại cho chính quyền ở địa phương, các cấp địa phương và cấp tỉnh, thường xuyên không được giao những nguồn lực, năng lực và những cơ quan cần thiết để thực hiện kế hoạch. Khi Kế hoạch Định hướng không lâu sau khi được phê chuẩn đã được nhìn nhận là không còn ăn nhập với những sự phát triển đô thị nữa, dẫn đến việc chuẩn bị một kế hoạch được sửa đổi:
Trong thời gian đó, các chính sách quốc gia có liên quan sự phát triển chủ chốt tương đương vẫn đang còn nhiều mâu thuẫn. Trong khi đang cần thiết phát triển một hệ thống các trung tâm đô thị và những trung tâm cấp dưới, bao gồm những trung tâm đô thị nhỏ và vừa, cần phải chấp nhận rằng vẫn còn không rõ ràng việc hệ thống này sẽ như thế nào và phải làm như thế nào để đạt tới mục tiêu này. (Quyết định số 10/1998/QD-TTg và Vũ: thông tin riêng).
Những phát hiện mở đầu: Nghiên cứu trường hợp Yên Châu
Thị trấn là một thủ đô cấp quận huyện của huyện cùng tên. Nằm trong tỉnh miền núi Sơn La, gần biên giới Lào. Đường cao tốc Quốc gia số 6 chạy qua thị trấn, nối liền thị trấn với thủ đô cấp tỉnh cách Đồng bằng sông Hồng và Hà Nội 66km về phía tây. Huyện là nơi cư trú của nhiều nhóm dân tộc thiểu số khác nhau, những nhóm chính bao gồm người Thái, Kinh, Xin Mun và H'mông. Tuy nhiên, trong khi người Kinh còn hiếm hoi tại vùng nông thôn, họ lại nhóm chủ yếu ngay trong thị trấn. Điều này bổ sung một số lượng dân tộc nhằm phân chia thành thị-nông thôn (Khong 2002: 106-107).
Thị trấn được thành lập năm 1988 là một trung tâm đô thị đầu tiên của huyện và vẫn còn nguyên cho đến tận hôm nay. Kể từ đó, cơ sở hạ tầng của thị trấn phát triển nhanh chóng mặt. Ngày nay thị trấn có dân số 3536 người, có số lượng lớn những người dân nhập cư khoảng 100 người mỗi năm trong suốt 10 năm qua. (Đào: thông tin riêng, Nguyễn H.: thông tin riêng). Tốc độ đô thị hoá của huyện đạt 5,9% là huyện có tốc độ đô thị hoá thấp thứ ba của tỉnh Sơn La, tuy nhiên đó là trung tâm đô thị nhỏ nhất của toàn tỉnh. Trung tâm đô thị kế tiếp về phía tây là Hat Lot và phía đông là Mộc Châu. Trong khi đây là những thủ đô cấp huyện và chia sẻ sự phân loại tương tự, cả Hat Lot và Mộc Châu đều lớn hơn về quy mô và dân số. Thực ra, Yên Châu là thủ đô cấp huyện nhỏ nhất của Sơn La lại nằm ngay giữa hai thành phố lớn nhất sau Thành phố Sơn La (Bộ Xây dựng 2003).
Thành phố và nông thôn
Thị trấn được phân loại chính thức là Trung tâm Đô thị Hạng 5, nghĩa là thị trấn được trao cho vai trò của một trung tâm hành chính, kinh tế, văn hoá, thương mại và dịch vụ, qua đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của huyện (Bộ Xây dựng 2003: 48).
Trên hết đó là một nơi hoà nhập với huyện. Mọi người từ khắp mọi nơi của huyện đều đến đây bán mua những sản phẩm nông nghiệp cho nhau hay những người dân đô thị của thị trấn tại chợ địa phương hay trên con phố để sử dụng hàng ngày. Qua đó, vai trò truyền thông của các thành phố chợ trên các vùng cao, như Michaud và Turner mô tả vẫn còn nắm vai trò quan trọng cho đến ngày nay (200: 86). Cơ sở hạ tầng vận tải của huyện cũng được nêu ra tương ứng, tất cả những trung tâm xã được nối với thủ đô cấp huyện bằng đường bộ. Dù vậy, hầu hết những người bán hàng đến từ các ngôi làng gần thị trấn chỉ để bán các sản phẩm nông nghiệp trong vài tiếng đồng hồ, sau đó lại quay về làng. Những khoảng cách đi lại tương đối ngắn cho phép những nông dân này nắm bắt những cơ hội tại thị trấn, trong khi cùng lúc đó họ có thể duy trì phương kế sinh nhai nông nghiệp của mình. Đôi khi điều này phải cần tới một thành viên gia đình đi khỏi làng, thường là những phụ nữ trẻ đã có chồng. Họ phải di chuyển ra thành phố thường xuyên để làm việc trong các ngành dịch vụ như nhà hàng hoặc trong khách sạn. Hầu như lúc nào họ cũng đều ở lại nơi làm việc của mình và hiếm khi trở về thăm gia đình. Tuy nhiên, cũng có những mối quan hệ gắn bó với nguồn gốc nông thôn của mình khi họ thường xuyên về thăm làng hàng ngày hoặc ít nhất là hàng tuần. Một chiến lược đó là di chuyển toàn bộ hộ dân ra thành phố nhằm xây dựng việc kinh doanh tại đó trong khi vẫn giữ lại một phần gia đình kiếm sống bằng nông nghiệp. Điều này chỉ áp dụng được đối với những hộ gia đình ở khá gần thành phố và có đất nông nghiệp gần thành phố để tiện đi lại trong thời gian ngắn.
Nhu cầu của người dân thành phố và các du khách đến thành phố mang đến cho những người nông dân cơ hội tham gia vào các hoạt động phi nông nghiệp, mà không phải di chuyển đi xa hơn, qua đó tiết kiệm thời gian và chi phí đi lại. Giữ lại một phần gia đình làm nông nghiệp trong khi một số khác tham gia vào những công việc phi nông nghiệp cho phép các gia đình đa dạng hoá cơ cấu thu nhập và qua đó giảm đi những ảnh hưởng từ những cú sốc bên trong và bên ngoài, như sự sụt giảm giá nông nghiệp trên thị trường. Tuy nhiên, do khoảng cách quá lớn và điều kiện đường sá không tốt, hầu hết các hộ từ các xã vùng sâu vùng xa đều không thể hưởng lợi từ những cơ hội kiếm việc làm phi nông nghiệp này. Một số hộ định cư quá xa thị trấn nhưng lại ở gần NR 6 xây dựng một cửa hàng nhỏ bên rìa đường và tự mình đi vào thị trấn.
Thành phố nhỏ do đó mang lại cho dân số nông thôn của huyện những cơ hội tham gia vào các hoạt động đi kèm với cái hiện đại và tham gia vào sự phát triển toàn diện của đất nước.
Trong sự phân cấp hành chính, thị trấn được xếp hạng tương tự như xã. Kết quả, thị trấn rơi vào sự chỉ đạo và kiểm soát của huyện. Thị trấn Yên Châu do đó là nơi toạ lạc của chính quyền thị trấn cũng như các văn phòng chính quyền quận huyện. Trong khi hoàn cảnh này có thể mang lại lợi ích cho sự phát triển hợp nhất trong huyện và giảm sự phân chia thành thị - nông thôn, một vài khía cạnh cản trở một quy trình quy hoạch đô thị mang lại lợi ích cho cả thị trấn và những khu vực xung quanh.
Liên quan đến sự phát triển đô thị của thị trấn, “Kế hoạch xây dựng thị trấn Yên Châu” của huyện và tỉnh là tài liệu quan trọng nhất (UBND tỉnh Sơn La: 1999). Những mục tiêu của kế hoạch này như có liên quan đến sự tăng trưởng dân số, tất cả đã hết hạn: năm 1999 tổng số dân được báo là 5000, trong khi ngày nay con số những người cư trú chỉ mới 3.500, khiến số dân là 2700 trong năm 1999 sẽ hợp lý hơn. (Nguyên H.: thông tin riêng). Tuy nhiên, trong một kế hoạch đô thị hơn gần đây nhất của tỉnh, trong khi vẫn nhận rõ những sự khác biệt, lặp lại những con số cao không thực tế (Bộ Xây dựng: 2003). Điều này khẳng định quan điểm của Coultharts về những kế hoạch quy hoạch đô thị, trong những kế hoạch này bao gồm những kế hoạch được lý tưởng hoá về những gì các cơ quan và những nhà hoạch định mong muốn, hơn là những quyết sách khả thi. Ngoài ra, không hề có những chính sách chi tiết nên thực hiện những mục tiêu này như thế nào. Nhiệm vụ này được để lại cho chính quyền ở các cấp địa phương, mà thường xuyên không được giao cho những nguồn lực, năng lực và cơ quan cần thiết để thực hiện các kế hoạch đó (2006: ix).
Nhiều cơ quan dịch vụ công và chính phủ như Extension Service hoặc Ngân hàng Nông nghiệp, đều được định hướng theo những khu vực nông thôn xung quanh hơn là nhằm vào thành phố và cư dân của thành phố. Trong khi sự gần gũi chủ yếu của một vài tổ chức hành chính phụ trách việc phát triển nông thôn tại Yêu Châu có thể phát sinh những ảnh hưởng hiệp trợ, điều này không được thực hiện. Các chính sách thường xuyên được một tổ chức thực hiện, mà không có sự tham khảo hoặc hợp tác với các tổ chức khác. Kết quả là có sự lộn xộn giữa những người nông dân cũng như với tổ chức chịu trách nhiệm về dự án đó. Một trường hợp giống như vậy đã diễn ra ở xã Chieng Tuong nơi các cơ quan chính phủ khác nhau đã đẩy mạnh trồng cây ăn quả theo những chương trình khác nhau. Những người dân làng đã nỗ lực làm rõ những trách nhiệm nhưng không thành công, khi các cơ quan không chịu trả lời những lời đề nghị. (Nguyen D. L. 2004: 68). Trong trường hợp này, xảy ra trong một thị trấn và không diễn ra lâu dài tại các khu vực nông thôn, mà mục tiêu trong các chính sách của họ là khiến cán bộ ngày càng xa rời dân số liên quan. Ngoài ra, các công nhân bổ sung cũng phải chịu trách nhiệm với cấp trên của họ hơn là chịu trách nhiệm với những người nông dân họ hiện đang làm việc cùng. Điều này làm hạ thấp tính hiệu quả của những quá trình ra quyết định của người mới tham gia. (Nguyen D. L. 2004: 77). Nói chung, khoảng cách giữa các cán bộ với người dân nông thôn, địa phương cũng được tăng lên theo thực tế rằng nhiều cán bộ là những người dân vùng đất thấp được cử đến phục vụ tạm thời cho chính quyền huyện.
Như đã nói, quan hệ giữa nhà nước - nhân dân thường xuyên diễn ra theo hình thức phân chia nhà nước - nhân dân hoặc nút thắt cổ chai. Thêm vào đó, khi có nhiều hơn quan hệ giữa nhà nước - nhân dân, sự lộn xộn sẽ phát sinh khi những sự phức tạp không được giải thích.
Sự phân chia giữa nhà nước và nhân dân bị lu mờ khi các cán bộ tham gia vào các hoạt động kinh tế do làm cán bộ không có đủ thu nhập. Tại trị thấn Yên Châu, các cán bộ còn quản lý các cửa hàng photocopy hay các nhà hàng. Tại vùng nông thôn, những công nhân làm thêm cũng buôn bán các sản phẩm đầu vào nông nghiệp. (Nguyen D. L. 2004: 53).
Khi hầu như chỉ có sản xuất nông nghiệp tại huyện Yên Châu, những người trung gian thật cần thiết để tạo mối liên kết giữa các nhà sản xuất và người tiêu dùng từ bên trong và bên ngoài huyện.
Nhiều hoạt động yêu cầu một số kỹ năng như điều hành một phòng chăm sóc sắp đẹp hay một cửa hàng bánh, đều do dân nhập cư từ Đồng bằng sông Hồng chiếm giữ, họ đã học nghề tại đó. Những người dân nhập cư này không chỉ mang lại những cơ hội việc làm cho người dân địa phương, họ còn bổ sung vào sự đa dạng tại Yên Châu. Khi một người dân tộc Thái được phỏng vấn đang làm việc trong một khách sạn, cô nói rằng cô rất hạnh phúc khi làm việc tại thị trấn vì cô có thể học được nhiều thứ sẽ có ích cho tương lai của cô. Những vị khách đến thăm chợ cũng không chỉ coi chợ như một nơi họ thu thập thông tin thông qua những câu chuyện phiếm với những người mua hàng và bán hàng khác. Trong những trường hợp như thế này, thành phố nhỏ đóng vai trò như một nơi truyền thụ kiến thức, từ đây thông tin được phân phối cho các khu vực xung quanh bằng sự di chuyển tự nhiên của người dân.
Thành phố nhỏ là một không gian kinh tế khá phức tạp giữa rất nhiều thành phần của cả hai khu vực thành thị và nông thôn trong và ngoài huyện. Những sự tương tác giữa hai thành phần này, những người có thể tiếp cận những nguồn lực khác nhau (kiến thức, mạng lưới xã hội) nhiều khi dẫn đến sự loại bỏ lẫn nhau, đôi khi là phổ biến và sáng tạo kiến thức. Yên Châu là một thành phố chợ vùng cao điển hình theo sự mô tả của Michaud và Turner (2004). Tuy nhiên những cơ cấu và ảnh hưởng đối với thành phố đang ngày trở nên khác biệt. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ có thể chú ý đến một số vấn đề, trong khi những vấn đề khác đều có tầm quan trọng như nhau, chẳng hạn như vai trò của thành phố trong hệ thống đô thị cấp tỉnh và cấp quốc gia, những quá trình bên trong các chính sách của chính quyền và cả nước. Ví dụ như việc xây dựng nhà máy thuỷ điện Sơn La có một tác động sâu sắc lên sự phân bổ dân số và hệ thống đô thị ở tỉnh Sơn La, qua đó tác động lên thị trấn Yên Châu.