PHÁc thảo tình hình sản xuất nông nghiệP…



tải về 9.17 Mb.
trang23/26
Chuyển đổi dữ liệu08.05.2018
Kích9.17 Mb.
#37785
1   ...   18   19   20   21   22   23   24   25   26

Q



KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO QUOÁC TEÁ VIEÄT NAM HOÏC LAÀN THÖÙ BA

TIEÅU BAN ÑOÂ THÒ VAØ ÑOÂ THÒ HOAÙÙ





U¸ TR×NH §¤ THÞ HãA ë SµI GßN - THµNH PHè Hå CHÝ MINH
Tõ N¡M 1860 §ÕN N¡M 2008 Vµ NH÷NG KÕT QU¶ T¸C §éNG §ÕN Sù PH¸T TRIÓN KINH TÕ - X· HéI CñA THµNH PHè

Nguyễn Đức Hoà*


Đặt vấn đề

Trong lịch sử, do vị trí địa kinh tế cực kỳ thuận lợi về phát triển giao thương, kinh tế nên quá trình đô thị hoá ở Sài Gòn diễn ra tương đối sớm và rất nhanh chóng. Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố lớn nhất ở Việt Nam, có lịch sử hình thành, phát triển còn rất trẻ, song hiện nay là khu vực có nền kinh tế năng động nhất cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh vừa là trung tâm văn hoá lớn đồng thời là trung tâm kinh tế hàng đầu của cả nước. Chỉ với số dân khoảng 8,5 triệu người (theo thống kê năm 2007), nhưng thành phố đã nộp ngân sách gần 70.000 tỷ đồng (chiếm 1/3 tổng thu ngân sách), GDP chiếm tới 20% và kim ngạch xuất khẩu chiếm hơn 1/3 tổng kim ngạch của cả nước. Đánh giá đúng vị trí trọng yếu của Thành phố đối với đất nước, Chính phủ Việt Nam đã đề ra mục tiêu đưa Thành phố Hồ Chí Minh trở thành thành phố công nghiệp có công nghệ cao của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và của Việt Nam vào năm 2015 - 2017341.

Nhìn từ góc độ lịch sử - văn hoá, quá trình đô thị hoá ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh có những nét đặc trưng riêng gồm nhiều yếu tố phức hợp về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá. Bài viết đề cập đến vấn đề đô thị hoá ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, cho thấy đô thị hoá là một quá trình tất yếu, có những tác động lớn lao đến sự phát triển kinh tế xã hội của thành phố. Qua nghiên cứu quá trình đô thị hoá của thành phố từ năm 1860 đến nay, người viết rất quan tâm và có đề xuất nhỏ liên quan đến việc khắc phục và giải quyết những vấn đề tồn tại để xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một đô thị văn minh hiện đại trong thế kỷ XXI.

1. Quá trình đô thị hoá ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1860 đến năm 2008

Đô thị hoá là quá trình tất yếu của các quốc gia gắn với quá trình phát triển kinh tế công thương nghiệp. Đô thị hoá là một quá trình chuyển từ hoạt động nông nghiệp phân tán sang hoạt động phi nông nghiệp tập trung trên địa bàn nhất định. Đây là hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp, nó diễn ra trên một không gian rộng lớn và trong khoảng thời gian lâu dài để chuyển biến các xã hội nông nghiệp - nông dân - nông thôn sang các xã hội đô thị - công nghiệp và thị dân342. Đô thị hoá còn là quá trình tập trung dân cư ngày càng đông vào các đô thị và nâng cao vai trò thành thị đối với sự phát triển của xã hội343. Với vị trí đặc biệt thuận lợi cho phát triển kinh tế, nhất là kinh tế công thương nghiệp, quá trình đô thị hoá ở vùng đất Sài Gòn xưa có những điều kiện xuất hiện khá sớm.



1.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Sài Gòn xưa

Thành phố Hồ Chí Minh - với tên gọi quen thuộc từ xưa là Sài Gòn, là một vùng đất sớm hình thành và phát triển. Thành phố được hình thành trên lằn ranh giới giữa hai vùng phù sa cũ và mới nối từ Tây Ninh xuống thành phố và từ thành phố xuống Long Điền (Bà Rịa - Vũng Tàu). Thành phố Hồ Chí Minh thuộc vùng Đông Nam Bộ cận kề mật thiết với ba vùng Tây Nguyên, duyên hải Nam Trung Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Thành phố hiện nay có diện tích khoảng 2.095km2, chiếm 0,76% diện tích toàn quốc, nằm ở toạ độ địa lý 10010’ - 10038’ vĩ Bắc đến 106022’ - 106054’ kinh Đông. Thành phố Hồ Chí Minh gồm 24 quận, huyện với


Ư317 phường xã chia ra 19 quận đô thị nội thành với 254 phường rộng 494km2
5 huyện nông thôn ngoại thành với 63 xã rộng 1.601km2. Thành phố Hồ Chí Minh có hình dáng như chim đại bàng tung cánh ra biển Đông, thân hình từ đông Thủ Đức tới tây Bình Chánh rộng 47km, hai cánh từ bắc Củ Chi tới nam Cần Giờ dài 102km344. Nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới ẩm, cũng giống như các tỉnh Nam Bộ khác, thành phố không có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông rõ rệt, chỉ có hai mùa mưa, nắng riêng biệt, với thời tiết điều hoà, nóng ẩm, tạo môi trường thuận lợi cho cây cối phát triển tươi tốt. Cư dân thành phố vào khoảng hơn 8,5 triệu người (2008), thuộc nhiều thành phần dân tộc khác nhau, ngoài người Việt còn có người Hoa, Khơ - me, Ấn, Mạ, S - tiêng và cả một số ngoại kiều, với mật độ dân số khoảng 4.057,3 người /km²345.

Vào những thế kỷ đầu công nguyên, vùng Sài Gòn thuộc lãnh thổ vương quốc cổ Phù Nam. Đến thế kỷ thứ VII, Phù Nam suy yếu và bị Chân Lạp thôn tính, Sài Gòn trở thành vùng đất phụ thuộc lỏng lẻo Chân Lạp gồm hai khu vực Kampong Krâbei (tức Bến Nghé - nội thành Sài Gòn ngày nay) và Brai Nokor (nay là Sài Gòn - Chợ Lớn). Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức cũng nói Gia Định là đất thuộc Chân Lạp xưa, tên gọi Sài Gòn xuất phát từ tên Brai Nokor, nghĩa là “rừng cây gòn”, người Hoa phiên âm thành Sài Côn, người Việt đọc thành Sài Gòn. Nội bộ Chân Lạp có chiến tranh liên miên và do người Khơ - me có thói quen sinh sống ở các rẻo ruộng cao, nên phần lớn vùng Nam Bộ vốn có nhiều đầm lầy, sông rạch bị bỏ thành hoang phế và gần như vùng đất vô chủ.

Năm 1620, chúa Nguyễn Phúc Nguyên gả công chúa Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp Chey Chetha II (1618 - 1686) và ông đã cho lập hai đồn thu thuế ở Sài Gòn là Kas BrobeiBrai Nokor (1623). Các nhà nghiên cứu cho rằng đồn
Kas Krobei có nghĩa là Bến Nghé hay Bến Trâu ở gần cột cờ Thủ Ngữ trên bờ sông Sài Gòn. Đồn thu thuế Brai Nokor có lẽ đặt trên bờ rạch Bến Nghé hay kênh Tàu Hủ. Việc chúa Nguyễn Phúc Nguyên đặt các cơ sở kinh tế tạo ra điều kiện thuận lợi cho cư dân Việt và cả người Hoa vào lập nghiệp ở vùng đất Sài Gòn. Vào năm 1679, một số quan lại cũ dưới triều Minh như Dương Ngạn Địch, Hoàng Tiến, Trần Thượng Xuyên, Trần An Bình không chịu thuần phục nhà Thanh đã đem
3.000 quân cùng gia đình trên 50 chiếc thuyền sang xin thần phục chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn Phúc Tần đã phong cho họ quan chức và cho phép các nhóm người Hoa vào làm ăn sinh sống rộng khắp vùng đất Nam Bộ xưa. Số người Hoa đó đã sớm trở thành công dân đất Việt, góp phần cùng với người Việt khai phá vùng đất Sài Gòn. Nhóm Dương Ngạn Địch theo cửa Tiểu, cửa Đại vào định cư ở Mỹ Tho. Còn nhóm Trần Thượng Xuyên theo cửa Cần Giờ, Soài Rạp vào sông Đồng Nai, tới cù lao Phố lập nghiệp. Đầu năm 1679, Sài Gòn được chọn làm nơi trú đóng cho các cơ quan công quyền bán chính thức của nhà Nguyễn.

Năm 1698, chúa Nguyễn cử thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược. Nguyễn Hữu Cảnh đã lấy “đất Nông Nại làm phủ Gia Định, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn; mỗi dinh đặt chức lưu thú, cai bộ và ký lục để cai trị”346. Ranh giới giữa hai huyện Phước Long (Đồng Nai) và Tân Bình (Sài Gòn) là sông Sài Gòn. Hữu ngạn thuộc huyện Tân Bình, tả ngạn thuộc huyện Phước Long. Năm 1698 trở thành mốc đánh dấu hình thành Sài Gòn, vì từ đó mới có phủ sở Gia Định, huyện sở Tân Bình thuộc phủ Gia Định, xứ Sài Gòn từ lúc đó mới chính thức là đất Việt Nam. Thủ phủ Gia Định đặt ở Bến Nghé và phố thị Bến Nghé (hay còn gọi là phố thị Bến Thành) xưa nằm trải trên bờ sông Sài Gòn và đường Nguyễn Huệ ngày nay. Từ năm 1698, Sài Gòn trở thành trị sở quan trọng nhất cho vùng đất mới phía nam.

Vào năm 1771 diễn ra giao tranh lớn giữa Tây Sơn và quân Nguyễn ở vùng đất Đồng Nai; cù lao Phố bị tàn phá nên người Hoa (vốn nắm vai trò kinh tế trọng yếu ở đây) bỏ chạy xuống Gia Định, tái lập cơ nghiệp dọc theo kênh Bến Nghé từ khu vực Chợ Cũ Sài Gòn ngày nay đến khu vực Chợ Lớn cũ ngang Xóm Củi (khu vực bưu điện Quận 5 ngày nay). Phố thị Sài Gòn xưa, nay là Chợ Lớn thuộc Quận 5. Nhiều người cho rằng địa danh “Chợ Lớn” có lẽ được phát âm theo tiếng Khơ - me “Cần Chớ” có nghĩa là cái cần ché hay , loại vật dụng đan bằng tre để phục vụ ngày mùa hay săn bắt thủy hải sản. Ở Nam Bộ nhất là Sài Gòn, Chợ Lớn ngày nay vẫn còn thông dụng nhiều vật dụng đan lát bằng tre, trong đó có cần xé - có nguồn gốc từ chữ Cần Chớ. Người Việt chỉ ghi nhận chữ “Chớ” đọc thành “Chợ”. Người ta gọi Chợ Lớn ở Sài Côn có lẽ là để phân biệt với Chợ Nhỏ ở Bến Nghé.

Sài Gòn vẫn phát triển không ngừng, kể cả trong giai đoạn tranh chấp giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn. Không phải Tây Sơn không nhận thức rằng chiếm Sài Gòn sẽ làm chủ được vùng đất phía Nam, nhưng do Nguyễn Huệ bận chinh chiến trong Nam ngoài Bắc, Nguyễn Lữ lại không đủ năng lực quản lý đất Gia Định, nên thế lực Nguyễn Ánh dần dần phục hồi. Sau khi lấy lại Gia Định (năm 1788), Nguyễn Ánh thấy các luỹ đất chưa đủ vững chắc để bảo vệ Gia Định, nên năm 1790, ông ta đã sai Trần Văn Học cùng một số người Pháp xây dựng thành Gia Định theo kiểu công sự Vauban. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, vị trí thành Gia Định nằm trên vùng đất tiếp giáp giữa bốn đường Lê Thánh Tôn - Tôn Đức Thắng, Đinh Tiên Hoàng - Nguyễn Đình Chiểu - Nam Kỳ Khởi Nghĩa ngày nay. Từ thế kỷ XVII trở đi, Sài Gòn dần dần trở thành trung tâm hành chính quan trọng và là đầu mối trung tâm, phố chợ của một vùng đất đai rộng lớn, với số dân “hơn 4 vạn hộ”. Trên vùng đất mới này, vì muốn nhanh chóng khai thác đất đai, lúa gạo, chúa Nguyễn đã ban hành cơ chế quản lý khá mềm dẻo: cho cư dân tự do khai phá và chiếm hữu ruộng đất, cho mua bán nô tì và khuyến khích phát triển thương mại. Chính sách kinh tế xã hội khá “thoáng” và linh hoạt của nhà Nguyễn đã góp phần đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang lập ấp và biến lúa gạo thành hàng hoá thương phẩm quan trọng ở vùng Gia Định xưa. Do vậy, việc xuất hiện “thị trường lúa gạo ở Gia Định đã khá sớm, khá lớn, đã tấp nập, ít ra là từ giữa thế kỷ XVIII”347. Gia Định không chỉ trở thành vựa lúa quan trọng hàng đầu đối với vùng đất phía nam mà còn đối với cả nước. Các hoạt động nông nghiệp truyền thống đã tạo điều kiện cho kinh tế công thương nghiệp phát triển, thay đổi bộ mặt vùng đất mới . Do đấy, Sài Gòn đã trở nên thành phố hay thành thị rất sớm và luôn phát triển cùng với toàn vùng đất miền Nam.



1.2. Quá trình đô thị hoá ở Sài Gòn dưới thời Pháp thuộc (1860 - 1945)

Sau khi đánh chiếm thành Gia Định (1859), Pháp đã đổi tên thành phố Chợ Lớn (khu vực quận 5) và phố thị Bến Nghé (hay khu vực phố thị Bến Thành) là thành phố Sài Gòn. Thành Gia Định (tức thành Phụng) Pháp cũng gọi là thành Sài Gòn. Từ 1860, Pháp xúc tiến xây dựng, khai thác Sài Gòn để phục vụ cho nuôi dưỡng chiến tranh xâm lược, nên việc xây cất Sài Gòn đã có những thay đổi mạnh mẽ. Ngày 22 tháng 2 năm 1860, Pháp cho mở hải cảng Sài Gòn đón thương thuyền của Pháp và các nước Châu Âu và để xuất cảng lúa gạo, nông sản Nam Kỳ348. Thực dân Pháp bắt đầu xây dựng khu hành chính trung tâm, cùng hàng loạt các công trình giao thông, dinh thự, nhà thờ cùng các cơ sở hạ tầng, đã làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt của đô thị Sài Gòn.

Sài Gòn dưới thời Pháp thuộc là một đô thị thương cảng nổi tiếng ở vùng Đông Nam Á và Đông Bắc Á. Sài Gòn trở thành một trong những thương cảng hàng đầu trong các quốc gia thuộc địa của Pháp. Ngày 15/3/1874, tổng thống Pháp ký sắc lệnh thành lập thành phố Sài Gòn. Đầu thế kỷ XX, Chợ Lớn sáp nhập vào thành phố Sài Gòn và Sài Gòn trở thành đô thị lớn nhất xứ Đông Dương thuộc Pháp. Pháp đã cho xây dựng hàng loạt các công trình hạ tầng ở Sài Gòn phục vụ cho việc cai trị và khai thác thuộc địa, nên tiến trình đô thị hoá ở thành phố Sài Gòn diễn ra khá mau chóng. Sơ đồ quy hoạch đô thị Sài Gòn được trung tá công binh Pháp là Coffyn vẽ trên cơ sở của Nghị định do Charner phác hoạ ngày 11/2/1861. Phác đồ này gồm nhiều khu hành chính, thương mại, nhà ở công chức Pháp, trại lính… dành cho số dân là 500.000 người. Đề án của Coffyn bị coi là hết sức viển vông và bị người Pháp bác bỏ, vì họ cho rằng không bao giờ Sài Gòn có đủ số dân đó (cả Nam Bộ lúc đó chỉ có gần 1 triệu dân). Coffyn đã đúng, nhưng có lẽ ông cũng chưa hình dung hết quá trình đô thị hoá ở Sài Gòn sau này lại diễn ra rất nhanh chóng. Điểm khởi đầu của quá trình đô thị hoá ở Sài Gòn là việc xây dựng phố Catinat và một hệ thống nhà thờ Công giáo ở khu vực người Việt và người Hoa. Từ năm 1905 cho đến năm 1935, đô thị hải cảng Sài Gòn đã được xây dựng và hoàn chỉnh, cấu trúc đô thị Sài Gòn không khác nhiều lắm so với năm 1954 sau này. Cho đến năm 1905, phố xá và khu vực đô thị, các công thự, đường đi của đô thị Sài Gòn đã có phần bề thế, khang trang còn hơn cả một số đô thị khác ở Đông Nam Á như Singapour, Kualampur, Băng Cốc... Đô thị trung tâm Sài Gòn được tập trung chỉnh trang, xây cất nhiều ở các khu vực quận 1 và một phần đất của quận 3 ngày nay349. Ở các vùng lân cận hai khu vực trên tốc độ đô thị hoá cũng diễn ra mạnh mẽ.

Suốt hơn 80 năm dưới thời thuộc Pháp, Sài Gòn là thành phố đứng hàng đầu Đông Dương và được mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn Đông”. Nó là thủ phủ của xứ Nam Kỳ thuộc địa Pháp, trở thành thủ đô kinh tế của Liên bang Đông Dương350 và là đầu cầu giao thương với thị trường Hồng Kông và Singapore thuộc Anh. Vào năm 1929, Sài Gòn - Chợ Lớn có hơn ba trăm ngàn dân và dân số của nó đạt tới 498.000 người vào năm 1943351. Hàng vạn nông dân từ các vùng nông thôn đổ về Sài Gòn, làm thuê trong các nhà máy của Pháp, đã làm cho dân số ở thành phố Sài Gòn tăng lên nhanh chóng.



1.3. Quá trình đô thị hoá ở Sài Gòn thời kỳ Mỹ tiến hành chiến tranh Việt Nam
(1954 - 1975)

Do tác động của thực dân mới của Mỹ, tiến trình đô thị hoá ở Sài Gòn trong thời kỳ 1954 - 1975 có bước phát triển mau chóng, nhưng cũng tạo ra sự lộn xộn làm đảo lộn cấu trúc xã hội352, đặc biệt là gia tăng dòng người nhập cư. Ở miền Nam, từ năm 1955 cho đến năm 1960, Mỹ và chính quyền Sài Gòn ra sức cưỡng bức dân nhập cư công giáo (khoảng 1 triệu đồng bào công giáo miền Bắc di cư vào Nam) lập ra những vành đai dân cư bảo vệ an ninh từ xa cho Sài Gòn và các căn cứ quân sự. Khoảng thời gian từ năm 1960 cho đến đầu năm 1965, chính quyền Sài Gòn xúc tiến thực hiện đô thị hoá cưỡng bức tạo ra một sự tăng vọt cư dân các đô thị miền Nam, nhất là thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn. Tỷ lệ dân số đô thị miền Nam năm 1960 từ 10% so với tổng số dân tăng lên 30% năm 1965353. Do chính sách khủng bố và đàn áp, chiến dịch bình định nông thôn, “tát nước bắt cá” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, hàng triệu nông dân miền Nam buộc phải rời bỏ làng quê, vào sống trong các ấp chiến lược hoặc trở thành người tị nạn và kéo vào các thành phố.

Quá trình đô thị hoá cưỡng bức ở Sài Gòn diễn ra ráo riết dưới tác động của chiến tranh xâm lược, đặc biệt là khi quân Mỹ nhảy vào miền Nam (8/3/1965). Các chiến dịch khai quang của Mỹ từ 1961 đến 1972, đặc biệt là chương trình sử dụng chất độc hoá học chứa dioxin triệt hạ lương thực (Denial Food Programs) đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp và đời sống nông thôn miền Nam Việt Nam nơi có tới 80% dân số là nông dân. Nó đã tạo nên quá trình đô thị hoá cưỡng bức đã làm xáo trộn và gây ra những tác hại toàn diện đối với môi trường và kinh tế xã hội miền Nam Việt Nam.

Ngoài khối lượng lớn bom đạn dội xuống miền Nam (vượt xa chiến tranh Thế giới lần thứ hai), Mỹ và quân đội Sài Gòn còn dùng chất độc làm trụi lá cây để đẩy nông dân vào các trại tập trung. Một bộ phận quan trọng của nông dân bị đẩy ra khỏi ruộng đất canh tác, vốn là nguồn sống cơ bản của một xã hội nông nghiệp. Ước tính dè dặt nhất cho rằng 1965 - 1968, có ít nhất 3 triệu nông dân bị đẩy khỏi làng quê, bị ép buộc vào sống trong các trại tập trung, hoặc họ trở thành dân tỵ nạn vào sống lang thang trong các đô thị lớn, chủ yếu là Sài Gòn. Hầu hết 3 triệu người tỵ nạn (chỉ tính từ 1965 - 1969) là nông dân mà nhà cửa ruộng vườn của họ đã bị bom đạn và chất độc hoá học huỷ hoại sạch để cắt nguồn tiếp tế cho “Việt cộng”. Người nông dân bị đẩy vào những trại tỵ nạn ở đô thị với kẽm gai rào quanh, thực chất là một trại tập trung và là dạng nhà tù trá hình. Mỗi người tỵ nạn là nạn nhân của sự ngược đãi và tài sản của họ đều bị huỷ diệt, mối liên hệ giữa họ và tổ tiên (mồ mả cha ông) bị xâm phạm. Đô thị hoá cưỡng bức đã tạo nên mật độ dân cư ở Sài Gòn gia tăng nhanh chóng. Trong các trại tập trung, những “khu tỵ nạn” với diện tích thường từ 2 - 4km2 mà phải chứa từ 1,5 vạn đến 3 vạn người. Các học giả Mỹ đến miền Nam nhận xét rằng những người tỵ nạn ở Sài Gòn đều mòn mỏi về thể chất, suy sụp về tinh thần trong các trại tập trung, đó là lỗi do chính người Mỹ gây ra354. Những người dân nghèo thành thị phải sống chen chúc nhau trong những căn hộ chật hẹp, với hệ thống xử lý chất thải đô thị và nhà ở của người lao động là rất lạc hậu như chung cư Ấn Quang gồm 850 căn hộ trên khu vực đất rộng 2,39ha hay chung cư Bàn Cờ với 1.260 hộ/3,62ha355. Do chỗ ở chật chội, người tỵ nạn chui rúc thiếu oxy để thở, lại thêm khí thải của nhiều xe cộ lưu thông, cho nên không khí trong các trại tỵ nạn bị ô nhiễm rất nặng. Tình trạng ăn ở chen chúc tồi tệ và thiếu vệ sinh một cách kinh khủng như ăn đói, thiếu nước uống và tắm rửa, thiếu thuốc men khi đau ốm, đã làm cho người dân bị cưỡng ép vào đây đi đến chỗ chết dần, chết mòn.

Sau Tết Mậu Thân các trại tỵ nạn ở Sài Gòn đông nghẹt người, người tỵ nạn sống hoàn toàn dựa vào đồ viện trợ của Mỹ. Đó là dịp để Mỹ và chính quyền Sài Gòn mở ra chiến dịch tuyên truyền chính trị rầm rộ, vu cáo cách mạng tạo ra cái gọi là dòng người “tỵ nạn cộng sản”. Trong các thành thị và các khu dồn dân, bệnh lao, bệnh phong và các bệnh hoa liễu đã trở thành phổ biến. Ở Sài Gòn có 15.000 người mắc bệnh phong đi lang thang trên đường phố356. Năm 1971, Jean Mayer cố vấn đặc biệt về dinh dưỡng của Nixon đã cảnh báo rằng: chính sự thiếu ăn tại nhiều vùng ở miền Nam Việt Nam và những chứng bệnh nguy hiểm như phù thũng, thiếu máu và lao sẽ gia tăng, nếu như chương trình huỷ diệt thực phẩm bằng chất độc hoá học vẫn tiếp tục. Một khi đã vào trại tập trung, mức sống người nông dân giảm đi mất hai phần ba, còn mất mát về tâm lý thì không sao kể xiết. Kết quả là đô thị hoá một xã hội nông thôn một cách chưa từng thấy trong thế kỷ này357. Nạn thất nghiệp và đủ mọi loại tệ nạn xã hội tràn lan trong những người tỵ nạn. Ở Sài Gòn, Hoa kiều chiếm khoảng 1/6 dân cư đô thị, nắm độc quyền hầu hết các hoạt động kinh tế quan trọng, những người tới sau may mắn lắm chỉ có thể làm những công việc tạp dịch hoặc lao động thuê mướn thủ công theo thời vụ.

Năm 1960, 20% dân miền Nam sống trong các vùng đô thị; tỷ lệ đó lên 26% năm 1964, 36% năm 1968, năm 1971 còn tăng cao hơn nữa, một tốc độ tăng gấp năm lần so với tất cả các nước kém phát triển trong cùng thập kỷ. Do kết quả của quá trình “đô thị hoá cưỡng bức” này, dân số đô thị miền Nam Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng. Vào đầu những năm 1970 dân số Sài Gòn đã tăng lên tới 3.000.000 người (gấp 10 lần trước đây)358. Dân cư tăng rất nhanh ở ngoại thành Sài Gòn, nhưng ở nội thành tỷ lệ tăng không lớn so với các đô thị khác như Cần Thơ, Đà Nẵng, Biên Hoà, Huế... Đến năm 1971 số dân ở Sài Gòn chiếm 43% toàn bộ số dân đô thị miền Nam, nhưng nếu không tính vùng ngoại ô, thì tỷ lệ đó là 1/5. Nhìn chung, sự phát triển dân số đô thị Sài Gòn chủ yếu là nguyên nhân chiến tranh, còn lý do kinh tế thì rất phụ, vào năm 1971, 3/4 những người dân đô thị ở Sài Gòn không phải sinh ra ở đây359. Làn sóng nông dân liên tục tràn vào Sài Gòn, làm cho dân số của thành phố tăng gấp 3 lần, đến năm 1969 là 12.740 người trên một dặm vuông, đã biến Sài Gòn trở thành một trong những thành phố có mật độ dân số cao nhất thế giới360. Dân tỵ nạn tăng vọt ở các trại tập trung và đô thị đã gây ra những đổ vỡ nền tảng đạo đức và băng hoại đời sống xã hội miền Nam Việt Nam, dù vào đầu năm 1969 con số người tỵ nạn tụt xuống còn 50% so với trước đây. Ngày15/9/1971 Tổng Giám đốc Y tế Sài Gòn thú nhận bệnh hoa liễu đang tràn lan khắp thành thị và vùng nông thôn do chính quyền Sài Gòn kiểm soát361. Hiện tượng thường thấy là trẻ con đánh giày, con gái bán “bar” hoặc một số làm điếm, nhiều bé gái mới 13, 14 tuổi đã sa vào mại dâm, cũng đã mắc bệnh này. Quá trình”đô thị hoá cưỡng bức” đã phá hoại những yếu tố văn hoá truyền thống thôn quê và đẻ ra bao tệ nạn xã hội.

Tuy nhiên, nhờ vào viện trợ của quân đội Mỹ đổ ồ ạt vào miền Nam, bộ mặt của thành phố Sài Gòn biến đổi nhanh chóng. Nhiều cao ốc khách sạn, văn phòng sang trọng nhằm đáp ứng nhu cầu nhà ở nghỉ ngơi, giải trí cho đội quân viễn chinh đông đảo. Do nhu cầu phục vụ chiến tranh xâm lược, Sài Gòn - Gia Định ngày càng được mở rộng. Mỹ tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, xa lộ, những công trình kiến trúc và các khu căn cứ quân sự khổng lồ. Công việc chỉnh trang đô thị Sài Gòn được đẩy mạnh, sân bay được mở rộng và xây dựng mới, khách sạn tối tân, nhà cao tầng, vũ trường, casino, nhà hàng snack - bar, đại lộ mở rộng, các dịch vụ hiện đại, một số xí nghiệp tối tân ra đời, xe ô tô con thượng hạng cùng xe jeep quân sự… đi lại ngày càng nhiều trên đường phố Sài Gòn. Bộ mặt phồn vinh của đô thị Sài Gòn chỉ là bên ngoài, song về thực chất sự phát triển của đô thị Sài Gòn trong giai đoạn 1954 - 1975 vẫn mang tính chắp vá, không thể phát triển đồng bộ theo chỉnh thể và bố cục thống nhất. Giáo sư Mạc Đường cho rằng trước năm 1975, Sài Gòn chủ yếu vẫn là một trung tâm quyền lực chính trị, không giống với các thành phố công nghiệp của các nước tư bản phát triển362. Đô thị Sài Gòn giai đoạn này phát triển theo quy luật của một xã hội tiêu thụ hiện đại vừa mang tính lệ thuộc về kinh tế với nước ngoài, lại vừa có sự chi phối của các hoạt động quân sự phục vụ chiến tranh xâm lược do Mỹ điều khiển.

1.4. Quá trình đô thị hoá ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh từ 1975 đến 2008

Ngày 30/4/1975, với sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước Việt Nam thống nhất. Cuối tháng 6 đầu tháng 7 / 1976, Quốc hội khoá VI họp kỳ họp đầu tiên tại Hà Nội, quyết định đổi tên Sài Gòn là Thành phố Hồ Chí Minh. Quá trình đô thị hoá ở Thành phố Hồ Chí Minh đã trải qua nhiều thay đổi qua giai đoạn 1976 - 1985 và từ 1986 đến nay363.

- Giai đoạn 1976 - 1985: thành phố chú trọng phục hồi kinh tế sau chiến tranh, chưa có công trình xây cất gì lớn. Năm 1982 với sự giúp đỡ của Liên Xô, Viện Quy hoạch bước đầu triển khai phương hướng cải tạo và xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh, dù chưa được phê duyệt. Đến năm 1985, Trung ương xác định Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm kinh tế lớn, một trung tâm giao dịch quốc tế và du lịch của cả nước… có vị trí quan trọng chỉ sau Thủ đô Hà Nội. Giai đoạn này, lượng người nhập cư chủ yếu từ các tỉnh phía Bắc (40,8%)364, đại bộ phận là người miền Nam tập kết trở về cùng gia đình và những người miền Bắc được phân công vào công tác ở Thành phố Hồ Chí Minh.



- Giai đoạn từ 1986 đến nay: thành phố bước vào giai đoạn đổi mới, dòng người nhập cư vào thành phố trong giai đoạn này từ Đồng bằng sông Cửu Long, khu 4 và duyên hải miền Trung vào làm ăn sinh sống. Trong những năm 1991 - 1994 khi cả nước bước đầu thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, bước đầu phục hồi kinh tế thì sức ép về dân nhập cư vào thành phố lại càng mạnh mẽ hơn.

Bảng 1: Thống kê số dân nhập cư vào thành phố qua các giai đoạn

(Đơn vị tính: người)



Giai đoạn

Số người nhập cư

Trung bình hằng năm

1976 - 1980

82.989

20.747

1981 - 1985

125.847

25.169

1986 - 1990

178.916

44.729

1990 - 2000

202.129

50.532

Nguồn: Lê Văn Năm (2002), “Di dân nông thôn - đô thị và sự phát triển đô thị bền vững - nghiên cứu trường hợp Thành phố Hồ Chí Minh”, Phát triển đô thị bền vững,
NXB Khoa học Xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002, tr.198, 650 trang.

Trong sự gia tăng dân số nhanh chóng của Thành phố Hồ Chí Minh, con số gia tăng cơ học đã đóng góp một phần quan trọng. Dân cư đổ về Thành phố Hồ Chí Minh vì ở đây dễ kiếm tiền và có việc làm, có mức sống tốt hơn nhiều so với nông thôn. Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một cực thu hút mạnh luồng người từ các nơi đổ về tìm việc làm và cư ngụ. Bên cạnh người Việt, cộng đồng người Hoa gồm hơn 600.000 người đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của thành phố365.

2. Những tác động của quá trình đô thị hoá đến sự phát triển của Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh

2.1. Những tác động của đô thị hoá đến sự phát triển kinh tế

Cũng như thời Pháp thuộc, đô thị hoá ở Sài Gòn (1954 - 1975) tiếp tục là một tiến trình cưỡng bức, lệ thuộc, do đó bị buộc phải đô thị hoá gắn liền với tình trạng di dân ồ ạt trước khi có quy hoạch đô thị và xây dựng phát triển hạ tầng. Về phương diện kinh tế, đời sống của đô thị Sài Gòn và các đô thị miền Nam Việt Nam hoàn toàn tuỳ thuộc vào việc kéo dài chiến tranh xâm lược của Mỹ. Về khách quan, viện trợ Mỹ đổ vào và sự tiêu dùng của quân đội viễn chinh Mỹ có kích thích một số ngành dịch vụ, kinh tế miền Nam phát triển. Các ngành dịch vụ, ngân hàng, xây dựng, cầu đường, công nghiệp thực phẩm, đồ uống, đồ hộp, thuốc lá, đồ điện, nhựa dẻo, giấy phát triển khá mạnh ở Sài Gòn và các khu đô thị lân cận. Vào những năm 1970 - 1973, nhằm thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, phát triển kinh tế miền Nam, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã mở rộng cho tư bản nước ngoài đầu tư vào miền Nam. Trong những năm này, khu công nghiệp Sài Gòn - Biên Hoà hình thành, tập trung hơn 80% năng lực sản xuất công nghiệp của cả miền Nam, với máy móc trang thiết bị khá hiện đại. Đến giai đoạn này, hiện tượng nhập cư vào Sài Gòn - Gia Định vẫn tiếp tục diễn ra, nhưng không còn gay gắt như trước đây. Năm 1974, Sài Gòn - Gia Định có khoảng 38.000 cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Đô thị Sài Gòn - Gia Định trong thời kỳ 1954 - 1975 “tồn tại và phát triển theo định hướng phục vụ cho chiến tranh”, “thành trung tâm chính trị, kinh tế của khu vực lệ thuộc vào Mỹ, trở thành hậu phương vững chắc và nguồn nhân lực chủ yếu phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược”366.

Trải qua một thời kỳ dài khó khăn (1975 - 1986), nhờ sự năng động và những cơ chế chính sách hợp lý Thành phố Hồ Chí Minh có sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, tiến trình đô thị hoá tiếp tục đẩy mạnh theo đà tăng trưởng, khởi sắc của kinh tế. Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh có sự chuyển dịch mạnh mẽ về cơ cấu, thành phố trở Thành trung tâm xuất nhập khẩu lớn nhất cả nước. Kim ngạch xuất khẩu của thành phố ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của đất nước. Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn đạt 12,4 tỷ USD, tăng 21,6% so với năm 2004. Cơ sở vật chất ngành thương mại được tăng cường với khoảng 400 chợ bán lẻ, 81 siêu thị, 18 trung tâm thương mại, 3 chợ đầu mối. Khu vực dịch vụ tăng trưởng vượt kế hoạch, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất - kinh doanh và phục vụ đời sống dân cư. Giá trị gia tăng các ngành dịch vụ tăng 12,2% so với năm 2004367. Năm 2005, cơ cấu kinh tế của thành phố với các ngành nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ như sau:

- Nông nghiệp (khu vực I): 1,2%

- Công nghiệp (khu vực II): 48,2%

- Dịch vụ (khu vực III): 50,6%368.

Vị trí công nghiệp của thành phố so với cả nước không ngừng tăng lên: 1980 chiếm 21,6%; 1985: 23,0%; 1990:25,8%; 1995:28,5 %; 1999: 29,6%369. Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố đông dân nhất ở Việt Nam và là một trong những đô thị lớn trong khu vực Đông Nam Á và thế giới. Theo Tiến sỹ Tôn Nữ Quỳnh Trân (một người khá am hiểu về đô thị hoá ở Thành phố Hồ Chí Minh), Thành phố Hồ Chí Minh đã vượt qua ngưỡng của đô thị siêu hạng và đang có khuynh hướng trở thành thành phố cực lớn (mega city)370. Thành phố hiện có 3 khu chế xuất, 12 khu công nghiệp, 1 khu công nghệ cao và công viên phần mềm Quang Trung . Người ta dự kiến đến năm 2010 dân số của Thành phố sẽ đứng ở mức 7,5 - 8 triệu người, tuy nhiên dân số của Thành phố thực tế đã vượt qua con số 8,5 triệu người vào năm 2007371. Các nhà thiết kế cho biết sẽ xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh thành một đô thị đa trung tâm, với năm phân khu chính, vượt qua bờ bên kia sông Sài Gòn. Trong đó, sẽ có hai khu đô thị xây mới hoàn toàn trên nền đất nông nghiệp hiện nay - khang trang đẹp đẽ như khu Phú Mỹ Hưng. Ngoài ra, sẽ còn chín khu đô thị vệ tinh kết hợp với các khu công nghiệp mới - xuất hiện như những cụm công nghiệp có dân cư, rải rác ở các huyện ngoại thành; một số cụm sẽ kéo dài và tiếp giáp với các tỉnh lân cận372. Bước vào năm 2007 - 2008, Thành phố Hồ Chí Minh là nơi diễn ra các hoạt động kinh tế diễn ra sôi động nhất cả nước. Cả thành phố như một công trường lớn, các cao ốc và các khu công nghiệp, khu dân cư cao cấp được xây dựng với tốc độ chóng mặt. Trong 6 tháng đầu năm 2008, Thành phố Hồ Chí Minh đã thu hút được hơn 7,1 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài; các ngành dịch vụ, sản xuất công nghiệp và nông nghiệp đều tăng trưởng rất khả quan. Theo báo cáo của Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, trong 6 tháng đầu năm 2008, tổng sản phẩm nội địa (GDP) trên địa bàn thành phố tăng 10,5% so năm 2007373. Có thể nói thành phố là hạt nhân trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và trung tâm đối với vùng Đông Nam Bộ. Với mức đóng góp GDP là 66,1% trong vùng và đạt mức 30% trong tổng GDP của cả khu vực Nam Bộ. Nhìn từ góc độ phát triển kinh tế, đô thị hoá là một xu hướng tất yếu của sự phát triển. Ngày nay, để hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, nhu cầu cơ cấu lại nền kinh tế, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước - đồng nghĩa với thúc đẩy quá trình đô thị hoá. Cùng với quá trình thực hiện chính sách đổi mới kinh tế cộng với quá trình đô thị hoá, Thành phố Hồ Chí Minh đã dẫn đầu cả nước về tăng trưởng kinh tế. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu thực hiện tại Hải quan Thành phố trong năm 2007 đạt 38,47 tỷ USD374.

Do tốc độ phát triển nhanh chóng về kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua, các xí nghiệp, các cơ sở sản xuất gia tăng, mức sống của người dân thành phố trở nên tốt hơn nhiều so với trước. Nhu cầu tiêu dùng của cư dân đô thị thường lớn, đa dạng và có xu hướng đổi mới nhanh. Do đó mạng lưới dịch vụ, như các siêu thị nhà hàng ngày càng phát triển nhanh hơn. Các ngành dịch vụ phát triển mạnh, góp phần làm thay đổi cơ cấu ngành nghề giữa các khu vực: nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ. Tình hình đó đã tạo nhu cầu nhân công lớn, thu hút mạnh luồng người từ các nơi đổ về tìm việc làm. Ở nông thôn nhất là ở miền Trung và cả miền Tây, mức thu nhập thấp, tình trạng dư thừa lao động là phổ biến. Do đó, số lao động dư thừa trong nông thôn tìm đến đô thị mong tìm việc làm hoặc tìm việc làm có thu nhập cao hơn ở quê nhà. Về khách quan, đô thị hoá đã phần nào giúp giải quyết nạn thất nghiệp. Đô thị hoá đòi hỏi biến đổi nhanh chóng các hoạt động nghề nghiệp của tầng lớp cư dân đô thị. Các hoạt động sản xuất công nghiệp và dịch vụ, thương mại ngày càng đòi hỏi người lao động phải có trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp… nếu họ muốn nâng cao thu nhập. Trình độ học vấn, năng lực chuyên môn của đội ngũ lao động tăng lên, nguồn chất xám phong phú đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của thành phố.

Tuy nhiên, do lượng dân nhập cư đổ về thành phố là một con số khổng lồ và ngày một tăng lên nên hiện nay thành phố đang phải đối đầu với nạn thất nghiệp, những vấn đề về giải quyết việc làm. Một nghịch lý đang diễn ra tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng như ở các đô thị khác: đô thị hoá càng nhanh thì số lượng người thất nghiệp càng nhiều. Tình trạng “người thừa việc thiếu” vẫn luôn tồn tại. Tỷ lệ thất nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh dao động từ 9 - 19%375. Thiếu việc làm, nhiều người phải làm tạm những công việc bán thời gian để chờ cơ hội tìm việc làm chính thức, gây lãng phí nguồn nhân lực. Sự phân bố các cơ sở hạ tầng kinh tế của thành phố cũng chưa hợp lý. Đô thị hoá cùng với việc xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển công nghiệp (nhưng không chú trọng xử lý chất thải) đã làm cho môi trường Thành phố Hồ Chí Minh bị ô nhiễm nặng. Mỗi ngày ở Thành phố Hồ Chí Minh có gần 4000m3 rác thải. Bình quân nước sinh hoạt ở Thành phố Hồ Chí Minh chưa tới 100 lít/ người/ ngày, không ít người dùng nước ngầm chứa các chất rất độc hại (khu Bình Hưng Hoà, Gò Vấp...). Ô nhiễm không khí độc không kiểm soát được. Ở Thành phố Hồ Chí Minh, tiếng ồn và không khí bụi gây ô nhiễm đến mức báo động, có nơi 24/24 giờ tiếng ồn, vượt quá khả năng cho phép gấp 2 lần (mức chịu đựng của con người là 60 dB). Những nhân tố trên tác động rất xấu đến sức khoẻ, tuổi thọ của con người. Phát triển đô thị và bảo vệ môi trường sinh thái là hai quá trình không thể tách rời nhau. Đô thị hoá đang thu hẹp dần mặt bằng, dần dần phá vỡ cơ cấu sản xuất truyền thống của các làng nghề, như trường hợp của làng hoa ở quận ven Gò Vấp. Làng hoa cung cấp đến 1/3 nhu cầu hoa của Thành phố Hồ Chí Minh. “Cơn sốt đất” lan đến Gò Vấp vào khoảng năm 1995 làm nhịp độ mua bán đất (đất canh tác bị biến thành đất thổ cư) sôi động hẳn lên, làm diện tích làng hoa mau chóng bị co hẹp lại. Để giữ lại làng hoa, Thành phố Hồ Chí Minh và quận Gò Vấp có chủ trương quy hoạch một khu trung tâm vườn hoa với diện tích 20ha, nhưng dự án này không đứng vững trước sự tấn công của cơn lốc chuyển nhượng đất. Làng hoa kiểng Gò Vấp đang teo dần376, đất canh tác bị mua bán bất hợp pháp, kéo theo nhiều quan chức ra vành móng ngựa. Sự tồn tại của nhiều làng nghề thủ công tại Thành phố Hồ Chí Minh đang đứng trước sức ép rất lớn của quá trình đô thị hoá, có nguy cơ thu hẹp hoặc biến mất. Nếu không có những giải pháp tổng thể, đô thị ở Thành phố Hồ Chí Minh có thể dẫn đến sự mất mát các giá trị văn hoá truyền thống cùng với nạn thất nghiệp gia tăng.

2.2. Những tác động của đô thị hoá đến sự phát triển văn hoá - xã hội

Đô thị hoá về khía cạnh văn hoá là “quá trình chuyển đổi văn hoá nông thôn thành văn hoá đô thị”. Trải qua quá trình lịch sử hình thành và phát triển, qua những biến động của đô thị hoá, văn hoá cũng chịu ảnh hưởng, biến đổi. Văn hoá Sài Gòn là sự kết hợp của nhiều nhân tố hỗn hợp của văn hoá cư dân Việt 3 miền: Bắc, Trung, Nam. Ngoài ra, văn hoá Hán vùng nam sông Dương Tử, đặc biệt là văn hoá Hán ở 3 tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây miền Nam Trung Quốc thông qua những dân nhập cư lâu đời tạo nên một nền tảng của văn hoá Sài Gòn trên nhiều bình diện khác nhau377.

Sài Gòn dưới thời Pháp thuộc chịu ảnh hưởng của nền văn hoá Pháp địa phương, đặc biệt là miền Nam nước Pháp. Người Pháp khi xây dựng các công trình kiến trúc ở Sài Gòn đã “bê nguyên si nghệ thuật kiến trúc Pháp và châu Âu vào”378. Các công trình kiến trúc mới lạ, khác hẳn kiến trúc truyền thống Việt Nam, xuất hiện sớm nhất ở Sài Gòn có thể kể đến như: Nhà thờ lớn (nay là nhà thờ Đức Bà), phủ Toàn Quyền (nay là Hội trường Thống Nhất), Toà án, dinh Xã Tây (nay là Uỷ ban Nhân dân), các biệt thự, khu cư xá và chung cư mang nét văn hoá phương Tây (cư xá Les Terrasses Fleuries, Larégnère)…Văn hoá tỉnh lẻ của Pháp đã theo gót chân quân viễn chinh tồn tại trong vùng phố chợ Bến Nghé - Sagun (tức Chợ Lớn ngày nay). Sài Gòn khi ấy là một thành phố với những đại lộ râm mát bóng cây và những ngôi nhà lớn được xây dựng theo kiểu tân cổ điển, những khu cư xá thoáng mát. Sài Gòn cũng là nơi du nhập thú vui nâng cao cảm giác, tạo ra nhiều suy nghĩ bằng cách hút thuốc phiện - thú tiêu khiển đương thời của một vài nhóm trí thức. Sài Gòn là nơi của những người giàu có, thượng lưu “làng Tây trắng và dân Tây da vàng” (tức người Việt lấy quốc tịch Pháp), họ sống theo văn hoá, phong cách người dân tỉnh lẻ miền Nam nước Pháp và hướng tới kiểu sống thời thượng của giới thượng lưu Paris lúc bấy giờ. Văn hoá đô thị Sài Gòn trong lịch sử từ nửa cuối thế kỷ XIX cho đến năm 1945 “là một nền văn hoá đô thị phương Nam của tộc người Việt được xây dựng theo môtíp kiến trúc tân cổ điển châu Âu và đã hoà nhập phần nào với văn hoá Hán và văn hoá Pháp. Văn hoá đô thị Sài Gòn vừa mang tính chung của văn hoá đô thị Việt Nam, vừa mang tính riêng của đô thị Sài Gòn”379.

Khi Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam, chiếm đóng các đô thị, …thì nhiều đô thị như Sài Gòn, Mỹ Tho, Biên Hoà, Đà Nẵng… nở rộ những hoạt động dịch vụ đáp ứng nhu cầu của đội quân xâm lược. Ở đây, một lối sống theo kiểu “lính Mỹ” nhằm đẩy mạnh nhịp độ “văn hoá tiêu thụ” đã được hình thành. Nhiều cao ốc khách sạn, văn phòng sang trọng nhằm đáp ứng nhu cầu nhà ở nghỉ ngơi, giải trí cho sỹ quan, binh lính Mỹ và Sài Gòn. Công việc chỉnh trang đô thị được đẩy mạnh, sân bay được mở rộng và xây dựng mới, khách sạn tối tân, nhà cao tầng, vũ trường, casino, nhà hàng snack - bar, đại lộ mở rộng, các dịch vụ hiện đại, một số xí nghiệp tối tân ra đời, xe ô tô con thượng hạng cùng xe jeep quân sự … đi lại ngày càng nhiều trên đường phố Sài Gòn. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như: Khách sạn Rex, khách sạn Palace … với đầy đủ tiện nghi hiện đại là nơi trú ngụ dành cho sỹ quan Mỹ thuê. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian từ năm 1954 - 1975, do chính sách “tát nước bắt cá, bình định nông thôn” của Mỹ, lượng dân nhập cư đổ vào Sài Gòn ngày càng đông, hậu quả là Sài Gòn bị biến thành một thành phố phát triển hỗn độn, xô bồ, thiếu sự quy hoạch chung thống nhất: Những khu nhà ổ chuột, những khu dân cư nghèo nàn, nhà trên kênh rạch mọc tràn lan … Điều đó đã để lại rất nhiều trở ngại mà cho đến nay việc khắc phục nó vẫn còn rất khó khăn.

Thượng nghị sỹ Mỹ Fullbright đi Nam Việt Nam (1966) về nói rằng: “Mỹ đã biến Sài Gòn thành một nhà chứa khổng lồ”. Một năm sau, báo Pháp viết: “Sài Gòn ngập ngụa trong một làn sóng bán dâm, tham ô và nạn chợ đen rất ghê tởm, không thể tưởng tượng nổi”. Nạn du đãng, hút chích thuốc phiện, văn hoá đồi truỵ lan tràn. Đó là một thứ vũ khí của Mỹ - nguỵ nhằm phá hoại tinh thần chiến đấu của nhân dân ta, tiêu hủy tâm hồn của thế hệ thanh niên, nó là kẻ “mộ lính đánh thuê cho Mỹ”380. Khi người dân quê chạy về đô thị, thì các yếu tố truyền thống gắn với đời sống làng xã cũng mất theo. Nền văn hoá cổ truyền của người Việt Nam bị huỷ diệt ngay tại các đô thị381 và thay thế vào đó một trật tự xã hội hoàn toàn sống phụ thuộc vào người Mỹ. Thanh niên xa rời văn hoá truyền thống, bị chi phối bởi các yếu tố văn hoá lai căng, thực dụng. Bên cạnh âm mưu thâm độc tách cư dân khỏi cách mạng, Mỹ muốn tạo miền Nam Việt Nam thành một xã hội tiêu thụ, hoàn toàn phụ thuộc vào viện trợ Mỹ và phục vụ cho chiến tranh xâm lược của Mỹ.

Quá trình đô thị hoá từ 1954 đến 1975 đã gây nên sự phân hoá sâu sắc về văn hoá xã hội ở miền Nam Việt Nam. Ngày càng có nhiều người giàu lên nhanh chóng, nhờ vào các hoạt động dịch vụ cho bộ máy chiến tranh xâm lược. Số những người tỵ nạn chạy trốn khỏi các vùng bị pháo binh và máy bay Mỹ bắn phá và phun rải chất độc hoá học dạt vào Sài Gòn ngày càng gia tăng.

Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc hoàn toàn thắng lợi, thành phố Sài Gòn được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh. Cùng với quá trình phát triển không ngừng, hội nhập, giao lưu, quá trình đô thị hoá cùng với văn hoá thành phố đã có những thay đổi mạnh mẽ. Về kiến trúc xây dựng nhà cửa, do tác động của đô thị hoá đã ảnh hưởng rõ rệt lên sự sử dụng vật liệu xây cất nhà. Những vật liệu công nghiệp như tôn, bê tông, thép, sắt, thủy tinh… thay thế dần cho những vật liệu như tre, gỗ, lá dừa. Kiểu dáng nhà cũng đa dạng, do ảnh hưởng mạnh của đô thị hoá, nhất là ven các con đường lớn, trục giao thông xuất hiện những căn nhà ống, mái bằng hoặc một mái theo kiểu phố thị. Xu hướng của các gia đình hiện nay là sống theo kiểu gia đình nhỏ, một thế hệ, chứ không còn là kiểu đại gia đình “tam đại đồng đường” hay “tứ đại đồng đường như ngày xưa”.

Ngày nay, ở Thành phố Hồ Chí Minh cũng như ở Hà Nội, trang phục hiện đại đã trở nên quen thuộc trong đời sống. Chiếc áo dài truyền thống vẫn giữ vị trí độc tôn, nhưng các trang phục khác như váy, áo đầm, quần short, jean, áo pull vẫn được ưa chuộng do tính chất đơn giản, gọn gàng, tiện lợi của nó. Trong văn hoá ẩm thực của cư dân Sài Gòn cũng có nhiều sự thay đổi. Thành phố Hồ Chí Minh nổi tiếng với những nhà hàng sang trọng với các món ăn Việt Nam. Bên cạnh những món ăn ngoại nhập, các món ăn cổ truyền vẫn được lưu giữ, ưa chuộng. Món ăn truyền thống vào những ngày lễ tết phải là thịt kho, canh chua. Tập tục này không thay đổi, được lưu giữ cho đến ngày nay. Những thức ăn chế biến sẵn như: mỳ ăn liền, phở ăn liền, đồ hộp, thực phẩm đông lạnh, món ăn nhanh ngày càng giành được nhiều sự lựa chọn do tính tiện lợi, thích hợp với nhịp sống năng động của thành phố. Lối sống, cư xử của con người sinh sống trong các đô thị cũng khác xa với cuộc sống thôn quê. Ngoài mối quan hệ gia đình, xóm giềng, “cư dân đô thị còn có nhiều quan hệ giao tiếp ẩn danh, ngẫu nhiên và giao tiếp công cộng hơn”. Cách cư xử của cư dân đô thị văn hoá, lịch sự hơn, tuy nhiên lại mang tính khách sáo. Ảnh hưởng của đô thị hoá còn thể hiện cả ở lễ cưới ở Thành phố Hồ Chí Minh. Ông mai, bà mối đã mất đi vai trò quyết định của mình trong việc tác thành đôi lứa. Lục lễ không còn nữa, các lễ đã được giản lược đi nhiều (ngay cả trong cộng đồng người Hoa). Trang phục của cô dâu không chỉ là áo dài mà là váy đầm đủ kiểu. Chú rể cũng bận theo đồ Tây. Khách mời cũng ăn mặc theo kiểu đô thị. Hầu hết các đám cưới ở Thành phố đều sử dụng dịch vụ cho thuê bàn ghế, chén dĩa, nấu nướng. Thành phần khách mời cũng được chọn lựa kỹ hơn, chỉ những người thân tình mới được mời382. Đô thị hoá đã tạo nên những tác động to lớn đến mọi mặt đời sống văn hoá - xã hội của cư dân Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh.

Đô thị hoá làm sự chuyển hoá các cụm cư dân nông thôn thoát ly nông nghiệp theo hướng phát triển trình độ dân trí, khoa học kỹ thuật, hình thành các ngành nghề mới xây dựng nếp sống văn minh đô thị383. Quá trình công nghiệp hoá ở Thành phố Hồ Chí Minh làm cho khối lượng xây dựng các công trình đô thị tăng lên mau chóng. Các khu chung cư, cao ốc văn phòng, khu đô thị mới, khách sạn, các khu chợ, siêu thị, trung tâm mua sắm và các khu chế xuất nhanh chóng mọc lên. Đường phố đông đúc, nhộn nhịp. Một mặt có ý nghĩa lớn trong mối quan hệ giữa đô thị hoá và phát triển nông thôn là vấn đề đô thị hoá nông thôn. Chủ trương “điện, đường, trường, trạm” cho nông thôn đang tạo ra cơ sở hạ tầng cho việc nâng cao cuộc sống của người dân. Khi chất lượng cuộc sống ở vùng nông thôn được nâng lên, các cơ sở hạ tầng kinh tế được xây dựng, phát triển thì sẽ giảm được luồng dân nhập cư vào thành phố, góp phần giải quyết tình trạng thiếu việc làm cho lực lượng lao động ở nông thôn. Khi chất lượng cuộc sống của cư dân đô thị được nâng cao, người ta có nhu cầu dịch vụ bảo vệ sức khoẻ, những tiện nghi giải trí để phục hồi và tái tạo sức lao động. Nhu cầu giải trí của người dân Thành phố sau những giờ làm việc căng thẳng ngày càng lớn. Các khu vui chơi tại Thành phố Hồ Chí Minh như: Đầm Sen, Suối Tiên, Wonderland, Thảo Cầm Viên, Văn Thánh, Suối Tiên… các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, thẩm mỹ… đang thực sự trở thành những địa điểm không thể thiếu được trong đời sống hàng ngày, giúp con người thư giãn đầu óc, nâng cao sức khoẻ thể chất cũng như tinh thần. Người dân xây cất nhiều hơn, tiêu dùng nhiều hơn, cần các dịch vụ đa dạng hơn. Muốn nâng cao chất lượng cuộc sống, cần phải gia tăng nguồn thu nhập. Xuất phát từ nhu cầu muốn nâng cao nguồn thu nhập cho bản thân, một nghề nghiệp đầy triển vọng, tương lai vững chắc, nên phần đông thanh niên thành phố rất nỗ lực học tập, học hỏi, phấn đấu, thường xuyên cập nhật, tiếp cận công nghệ thông tin. Con người cư xử với nhau văn minh, lịch sự, biết tôn trọng ý kiến cộng đồng, tập thể. Đô thị hoá tạo nên những tác động rất tích cực, đặc biệt đối với giới trẻ, thế hệ tương lai sau này của Thành phố Hồ Chí Minh.

Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhận thấy rằng mâu thuẫn giữa văn hoá kiểu thực dân đô hộ (Sài Gòn nằm khá lâu dưới sự thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới) và truyền thống văn hoá bản sắc Việt Nam, cũng đã tạo ra sự phát triển thiếu đồng bộ, bảo thủ, lạc hậu của văn hoá đô thị Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Sự tập trung dân cư trong đô thị đến mức quá tải so với nhu cầu phát triển của công nghiệp, dịch vụ và cơ sở hạ tầng gây nên tình trạng khó khăn trong việc giải quyết nhà ở. Khu vực nội thành trở nên chật chội hơn, nhà cửa được xây dựng chen chúc nhau, diện tích ở bình quân trên mỗi đầu người rất thấp, các công trình vệ sinh, cống rãnh không đủ thỏa mãn cho nhu cầu sống của từng căn hộ, xuất hiện các khu nhà ổ chuột. Bên cạnh đó, người ngụ cư bất hợp pháp cũng xây dựng nhà cửa tạm bợ, trái phép dọc theo các kênh rạch, các vùng đất ngoại thành làm tăng thêm sự hỗn độn trong kiến trúc đô thị. Ngoài đường phố thì mật độ xe cộ lưu thông dày đặc. Tình trạng kẹt xe, tắc nghẽn giao thông xảy ra thường xuyên, thời gian tắc nghẽn kéo dài hơn, tai nạn giao thông vẫn tiếp tục gia tăng. Sống trong một đô thị với nhiều áp lực, sự mệt nhọc về thể xác, căng thẳng về tinh thần, áp lực công việc đeo đuổi mãi với người dân thành thị, theo thống kê, trong 9 tháng đầu năm 1996 đã có 390 ca tự tử ở Thành phố Hồ Chí Minh384. Ở các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, đã chuyển dần phương thức ở kiểu đại gia đình theo huyết thống sang căn hộ tiểu gia đình độc lập của hai vợ chồng. Lối sống đô thị đã làm thay đổi một cách sâu sắc truyền thống của dân tộc bắt đầu từ đơn vị cơ sở của cộng đồng người Việt là gia đình ở thành phố385. Những tập tục, những giá trị văn hoá cổ truyền không phù hợp với xã hội mới bị phá vỡ. Điều đáng bàn là các hoạt động mê tín dị đoan vẫn còn tác động, ảnh hưởng đến bộ phận không nhỏ cư dân thành phố. Dù dân trí và đời sống văn hoá của người dân Thành phố Hồ Chí Minh đã được nâng cao đáng kể, nhưng các hoạt động bùa ngải, bói toán, đồng cốt vẫn còn tràn lan, khó kiểm soát trong các dịp lễ hội ở các cơ sở văn hoá, tôn giáo lớn của thành phố.

Trong quá trình hội nhập, giao lưu, lối sống hiện đại, các chương trình nghèo nàn về văn hoá và việc không lưu giữ cách ăn mặc truyền thống dần dần xâm nhập vào giới trẻ. Ngày nay, giới trẻ không thể hình dung được cây lúa có hình dáng như thế nào, cảnh “con trâu đi trước, cái cày đi sau” ra sao, mái nhà tranh, đồng ruộng là gì. Tình trạng thất nghiệp, mong muốn thích nghi với cuộc sống mới ở đô thị, mong có một cuộc sống khấm khá hơn, người ta buộc phải tìm mọi cách để kiếm ra tiền. Bên cạnh những người làm ăn lương thiện, một số nhỏ đã dấn thân vào những việc không lành mạnh như buôn bán ma tuý, buôn lậu, bia ôm, mại dâm, cướp giật, lừa đảo, giết người. Tệ nạn xã hội lan tràn. Theo thống kê, tại Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ trong vòng hai tháng 8 và 9 năm 1996 đã xảy ra 21 vụ giết người, trong đó 4 vụ là giết người cướp của, từ đầu năm 1996, bình quân mỗi tháng bắt được từ 15 - 20 vụ vận chuyển, tàng trữ, buôn bán và sử dụng ma tuý, cuối tháng 10 năm 1996, phát hiện 95 vụ buôn heroin. Cần sớm có biện pháp khắc phục những hạn chế do đô thị hoá mang lại để xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một thành phố hiện đại, năng động, nhưng vẫn bảo lưu được các giá trị văn hoá cổ truyền, xứng đáng là một trong những trung tâm văn hoá lớn của đất nước.

Kết luận

Quá trình đô thị hoá từ năm 1860 đến nay đã có những tác động ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế, văn hoá – xã hội của Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh. Đô thị hoá là một quá trình tất yếu, góp phần tạo ra sự phát triển vượt bậc về kinh tế xã hội của thành phố, nên rất cần có chính sách quy hoạch tổng thể. Các yếu tố của đô thị hoá nhiều khi không tương thích với nhau. Dân số tăng 10% thì hạ tầng phải tăng 5%. Vì không có quy hoạch tổng thể nên ở Thành phố Hồ Chí Minh rất thường xuyên xảy ra tình trạng sụt lún, kẹt xe, ngập nước. Phân luồng giao thông không dựa trên cơ sở khoa học. Nhiều quận, huyện phân luồng mang tính chất cảm tính, không tham khảo ý kiến các nhà chuyên môn, nên tình trạng tai nạn giao thông ngày một tăng lên, gây lãng phí nguồn lực quốc gia. Thậm chí, có ý kiến cho rằng Thành phố Hồ Chí Minh đang bị lún ở phía Đông. Đô thị hoá ở Thành phố Hồ Chí Minh góp phần tạo ra tăng trưởng nhanh về kinh tế, nhưng cũng đang đặt ra những vấn đề nan giải cho các nhà hoạch định chính sách, nhất là tăng trưởng kinh tế của thành phố có biểu hiện chậm lại, chỉ số giá tiêu dùng tăng cao, công tác quản lý đô thị còn yếu, cải cách hành chính còn chậm. Năm 2008, nạn đào đường tràn lan ở Thành phố Hồ Chí Minh gây ra kẹt xe dữ dội, làm thiệt hại thời gian, giá trị vật chất rất lớn, đó là chưa kể ô nhiễm môi trường nặng do nạn ùn tắc giao thông trên diện rộng. Đô thị hoá tạo ra tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế, nhưng chất lượng cuộc sống của cư dân Thành phố Hồ Chí Minh chưa được chú trọng thích đáng. Vấn đề phát triển đô thị Thành phố Hồ Chí Minh phải gắn liền với mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người, đảm bảo sự phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần, hạn chế sự phân cực giàu nghèo trong xã hội. Nhân dân thành phố đang trông chờ những giải pháp cho phát triển đô thị Thành phố Hồ Chí Minh trong kỳ họp sắp tới của Hội đồng Nhân dân Thành phố.





C¶I THIÖN M¤I TR¦êNG ë
CHO C¸C KHU D¢N C¦ NGHÌO §¤ THÞ
TRONG QU¸ TR×NH §¤ THÞ HãA ë VIÖT NAM

N



KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO QUOÁC TEÁ VIEÄT NAM HOÏC LAÀN THÖÙ BA

TIEÅU BAN ÑOÂ THÒ VAØ ÑOÂ THÒ HOAÙÙ





guyễn Tố Lăng*


Mở đầu

Sau hơn hai mươi năm đổi mới, Việt Nam phát triển nhanh chóng về mọi mặt, từ kinh tế - xã hội, khoa học kỹ thuật đến mức độ đô thị hoá. Trong thời gian qua, mạng lưới đô thị trên toàn quốc ngày càng được mở rộng và phát triển. Cùng với những đóng góp đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước, kết cấu cơ sở hạ tầng, không gian và bộ mặt đô thị đã thay đổi nhanh chóng với những tiến bộ rõ rệt.

Trong các đô thị, trung tâm hành chính, chính trị, khoa học kỹ thuật, văn hoá và các khu chức năng khác được phát triển đồng bộ, hiện đại. Nhiều khu đô thị mới, nhiều khu nhà ở được xây dựng hoàn chỉnh, có tiện nghi và điều kiện sống cao, đặc biệt ở các thành phố lớn. Tuy nhiên bên cạnh đó, nhiều khu dân cư nghèo vẫn còn tồn tại với điều kiện sống hết sức thấp kém với một hệ thống cơ sở hạ tầng đô thị thiếu thốn nghiêm trọng. Để xây dựng các đô thị phát triển bền vững, môi trường ở trong những khu vực nghèo này phải được cải thiện đáng kể; để làm được điều đó cần có những giải pháp thích hợp và sự quan tâm thích đáng của các cấp chính quyền cũng như ngay chính người dân trong khu vực.

Bài viết này trình bày tổng quan sự phát triển đô thị hoá ở Việt Nam, các tiêu chí và thực trạng của khu dân cư nghèo trong đô thị, một số giải pháp nhằm cải thiện môi trường ở cho người dân trong các khu vực nghèo đô thị và vai trò cũng như trách nhiệm của các thành phần xã hội trong việc quy hoạch cải tạo và chỉnh trang các khu dân cư nghèo, góp phần xây dựng các đô thị Việt Nam phát triển nhanh chóng và bền vững.



1. Thực trạng công tác quy hoạch và quản lý đô thị trong quá trình đô thị hoá ở Việt Nam

Trong những năm qua, cùng với sự tăng trưởng về kinh tế - xã hội, Việt Nam đã đạt được tốc độ đô thị hoá khá cao, mạng lưới đô thị ngày càng được mở rộng và phát triển. Hiện nay, cả nước có 729 đô thị với 95 thành phố và thị xã, trong đó có 2 đô thị loại đặc biệt là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, 3 đô thị loại I, 14 đô thị loại II, 38 đô thị loại III, 38 đô thị loại IV và 634 đô thị loại V386. Trên địa bàn cả nước đã và đang thành lập khoảng 150 khu công nghiệp tập trung, 10 đô thị mới, 25 khu kinh tế mở, khu kinh tế cửa khẩu, khu kinh tế đặc thù, góp phần mở rộng mạng lưới đô thị quốc gia tại các vùng ven biển và biên giới.

Trong quá trình phát triển kinh tế nói chung, khu vực đô thị đã đóng góp một tỷ lệ quan trọng, khoảng 65%-70% tổng GDP của cả nước. Quá trình đô thị hoá đã diễn ra theo hướng tích cực, không gian đô thị, cơ sở hạ tầng đô thị và bộ mặt đô thị đã có nhiều thay đổi và có những tiến bộ quan trọng.

Tỷ lệ đô thị hoá tăng từ 18% (năm 1986) lên 27% (tháng 6 năm 2006). Nhiều đô thị đã phát triển và mở rộng vượt ra ngoài dự báo cả về tăng trưởng dân số, nhu cầu sử dụng đất, trình độ phát triển cơ sở hạ tầng... Năm 2005, dân số đô thị khoảng 22 triệu người, đất xây dựng đô thị khoảng 398.712ha với chỉ tiêu khoảng 180 m2/người387.

Hệ thống đô thị Việt Nam thực sự là hạt nhân của quá trình phát triển kinh tế xã hội với nhiều thành công đạt được trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, bài viết này tập trung chủ yếu vào những vấn đề cơ bản vẫn còn tồn tại ở các đô thị Việt Nam để xem xét khắc phục.

Hiện nay, cơ sở kinh tế kỹ thuật tạo động lực phát triển đô thị còn yếu, tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tăng trưởng dân số. Cơ cấu tổ chức không gian và phân bố dân cư trên địa bàn cả nước còn mất cân đối, sự cách biệt giữa đô thị và nông thôn, giữa vùng phát triển và kém phát triển còn lớn. Tình trạng di dân tự do, chủ yếu là những người thiếu việc làm từ nông thôn ra thành thị làm gia tăng sức ép lên đô thị như vấn đề giao thông, nhà ở, môi trường, nghèo đói, an toàn xã hội... tác động xấu đến sự phát triển và tốc độ tăng trưởng của đô thị.

Về tài chính, nhu cầu phát triển các đô thị ngày càng tăng nhưng khả năng tài chính hạn hẹp và công tác quản lý đô thị chưa làm chủ được tình hình phát triển đô thị. Quy hoạch đầu tư chưa được xác định theo thứ tự ưu tiên hiệu quả, hiếm có những phân tích nghiêm ngặt về kinh tế và tài chính được tiến hành.

Việc sử dụng đất nông nghiệp, lâm nghiệp vào mục đích xây dựng đô thị đang là nguy cơ lớn đối với an toàn lương thực, thực phẩm và mất cân bằng sinh thái.

Quá trình phát triển của đô thị Việt Nam có được từ hai chuyển đổi chính là sự di dân từ nông thôn ra thành thị và sự chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế theo cơ chế thị trường. Hầu hết các doanh nghiệp dịch vụ và công nghiệp nằm trên địa bàn đô thị, cũng vì vậy mà các đô thị đóng góp khoảng 70% sản lượng kinh tế và đa số đầu tư trực tiếp nước ngoài hướng vào các thành phố, đặc biệt các thành phố lớn. Với những lý do đó, các cơ hội kinh tế ở khu vực đô thị đã thu hút làn sóng di dân từ nông thôn và ngược lại, sự mở rộng các đô thị đã khuyến khích tăng trưởng kinh tế. Người nghèo di chuyển đến đô thị vì ở đó họ có nhiều cơ hội về công ăn việc làm hơn, kết quả là đói nghèo ở nông thôn giảm, nhưng tình trạng đói nghèo ở đô thị tăng lên nhất thời.

Về sức ép của dân số, với thu nhập thấp như nước ta thì tỷ lệ dân thành thị phải chịu đựng cảnh nghèo khổ và sự thoái hoá môi trường rất cao, việc thiếu nước sinh hoạt, thiếu điều kiện vệ sinh, điều kiện y tế là những mối nguy hiểm cho cuộc sống của họ. Việc làm trong các đô thị là một trong những vấn đề nan giải. Đô thị không thể đáp ứng được những nhu cầu về việc làm cho dòng người di dân từ nông thôn ra thành thị đã tạo nên các chợ người và các tệ nạn xã hội như mại dâm, cờ bạc, trộm cắp, nghiện hút... Vì vậy vấn đề đặt ra là phải quản lý chặt chẽ quá trình đô thị hoá để nó phát triển theo hướng tích cực.

Cũng như ở các nước đang phát triển, quá trình đô thị hoá ở Việt Nam là hệ quả của sự bùng nổ dân số, sự phát triển công nghiệp thấp kém, sự phát triển không đồng đều giữa các vùng trong một nước, sự suy thoái của nông nghiệp và nông thôn tạo ra sự mâu thuẫn ngày càng sâu sắc giữa đô thị và nông thôn, giữa vùng chậm phát triển và vùng phát triển.



Ở Việt Nam, sự gia tăng dân số đô thị chủ yếu là cơ học. Làn sóng dịch cư tới các đô thị tăng nhanh hơn tốc độ tăng công nghiệp, dịch vụ (ví dụ ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện người nhập cư chiếm 1/3 dân số). Sự bùng nổ hệ thống khu đô thị mới đang diễn ra, một mặt vừa giảm áp lực về chỗ ở cho dân, vừa đem lại lợi nhuận khổng lồ cho giới kinh doanh bất động sản. Mặc dù vậy, các khu đô thị mới chỉ phát triển các công trình để ở, còn bỏ ngỏ các công trình dân sinh, hạ tầng xã hội...

Trong thời gian gần đây, công tác quy hoạch và quản lý đô thị đã được cải thiện đáng kể. Bộ Xây dựng đã soạn thảo và ban hành các Thông tư hướng dẫn tạo cơ sở và căn cứ cho công tác quản lý xây dựng và phát triển đô thị, giảm dần các vướng mắc góp phần loại bỏ nhiều quy định không phù hợp tại các địa phương.



Những khu đô thị mới hiện đại với các điều kiện sống và làm việc cơ bản đạt tiêu chuẩn quốc tế được xây dựng không chỉ đảm bảo chỗ ở mà còn cung cấp đầy đủ không gian đô thị hài hoà với các điều kiện hạ tầng hiện đại thuận lợi cho cộng đồng cư dân. Tính riêng về nhà ở, trong khoảng thời gian từ năm 2001 đến năm 2006, cả nước đã xây dựng được khoảng 12 triệu m2 (trong đó nhà ở xây dựng theo dự án khoảng 2 triệu m2, còn lại là nhà ở do dân tự xây dựng).

Hệ thống hạ tầng đô thị trong những năm gần đây được đầu tư cơ bản và rộng khắp, thay đổi và nâng cao điều kiện sống và làm việc của dân cư trong các đô thị. Nhiều dự án lớn về phát triển giao thông đô thị được triển khai như hệ thống tàu điện ngầm, các bãi đỗ xe ngầm tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh; các nút giao thông, nhiều cầu lớn bắc qua sông ở các đô thị và việc triển khai các dịch vụ vận tải công cộng. Chất lượng phục vụ của giao thông công cộng ngày càng tốt hơn, công tác xã hội hoá trong việc thu gom vận chuyển chất thải rắn có nhiều tiến bộ, cung cấp thông tin liên lạc phát triển và thuận tiện nhanh chóng... Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng trên diện rộng của từng đô thị còn yếu kém, ô nhiễm môi trường và vệ sinh đô thị chưa được giải quyết đã ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững các đô thị. Tỷ lệ dân cư đô thị được cấp nước bình quân khoảng 65% - 70%. Tỷ lệ thu gom chất thải rắn trung bình đạt 70% - 75% tại các thành phố lớn và khoảng 30% - 50% tại các đô thị vừa và nhỏ. Tỷ lệ chiếu sáng các đường phố chính đô thị trung bình đạt 85% - 100%388 [3] và hầu hết các đô thị tỉnh lỵ, huyện lỵ đều có hệ thống chiếu sáng công cộng.

Trình độ quản lý đô thị của các cơ quan thuộc các chính quyền địa phương được nâng cấp qua quá trình quản lý thực tiễn, các khoá đào tạo và chương trình nâng cao năng lực. Chính quyền các đô thị đã đóng vai trò điều phối tạo cơ chế và hành lang pháp lý cho công tác phát triển đô thị, qua đó đẩy mạnh sự phát triển kinh tế xã hội và nâng cao vị thế của từng đô thị.

Quá trình phát triển đô thị đã thu hút được một nguồn vốn đầu tư lớn từ mọi thành phần kinh tế cho công tác phát triển hạ tầng đô thị và nâng hiệu quả sử dụng đất, mang lại một nguồn thu đáng kể cho ngân sách nhà nước. Không gian đô thị không ngừng mở rộng, bộ mặt đô thị đã có những thay đổi rõ nét. Nhiều công trình, đường phố, khu đô thị đã được xây dựng theo quy hoạch, nhất là ở các đô thị lớn. Tại nhiều thành phố trong cả nước đã xuất hiện một số khu phố mới khang trang với những công trình kiến trúc có hình khối, bố cục, đường nét của kiến trúc hiện đại, thể hiện sự phát triển của đất nước trong thời kỳ đổi mới.

2. Tổng quan về các khu dân cư nghèo trong các đô thị

2.1. Khái niệm khu dân cư nghèo trong các đô thị

Khu dân cư nghèo (hay khu vực thu nhập thấp) gồm các khu chung cư đông dân nghèo trong nội thành, nội thị; những nơi ở lấn chiếm, phát triển không theo quy hoạch trong đô thị hoặc tại các khu vực ven đô, là các khu vực chưa được đầu tư cải tạo do chưa có nguồn vốn hoặc thiếu sự quan tâm của thành phố; thiếu các điều kiện sống và sinh hoạt cơ bản như hệ thống hạ tầng kỹ thuật (đường giao thông, vỉa hè, đèn đường, cấp nước, thoát nước mưa, thu gom rác thải, vệ sinh môi trường); hạ tầng xã hội (trường học, nhà trẻ, trạm y tế, khu vui chơi giải trí, không gian giao tiếp của cộng đồng) và các dịch vụ tối thiểu khác.

Theo Quyết định 170/2005/QĐ-TTg ngày 8 tháng 7 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về quy định chuẩn nghèo quốc gia thì trong giai đoạn 2006 - 2010, hộ nghèo đô thị là hộ gia đình ở vùng thành thị có thu nhập bình quân đầu người thấp hơn 260.000 đồng/người/tháng. Tiêu chí xác định khu dân cư nghèo có thể dựa trên những chỉ số sau:

Bảng 1. Tiêu chí xác định khu dân cư nghèo389


TT

Tiêu chí

Các chỉ số

1

Quy hoạch của khu dân cư

Trong vòng 10 năm nữa vẫn ổn định và không phải di dời

2

Quy mô

- Là khu vực có số hộ gia đình và diện tích như sau:

+ Đô thị loại I: 200 hộ trở lên; diện tích 1,2ha trở lên;

+ Đô thị loại II: 150 hộ trở lên; diện tích 0,9ha trở lên;

+ Đô thị loại III, IV: 100 hộ trở lên; diện tích 0,6ha trở lên.

- Là khu vực có số hộ gia đình nghèo và cận nghèo so với tổng số hộ của khu vực như sau:

+ Đô thị loại I: 15% trở lên;

+ Đô thị loại II: 10% trở lên;

+ Đô thị loại III, IV: 10% trở lên.



3

Hệ thống đường sá trong khu vực dân cư

- Mật độ đường thấp (tổng chiều dài đường trong khu vực / diện tích khu vực), nhỏ hơn 5 km/km2

- Có trên 50% đường nội bộ hẹp hơn 2,5m và mặt đường còn là đường đất và cấp phối.



4

Cung cấp nước sạch

- Có trên 30% hộ gia đình chưa được dùng nước máy

- Tiêu chuẩn nước cho các khu đô thị nhỏ và vừa là 75-80 lít/người/ngày; cho các khu đô thị lớn là 100-150 lít/người/ngày.



5

Hệ thống thoát nước thải và nước mưa

- Có trên 30% hộ gia đình có đường cống thoát nước thải chưa được nối với cống chung của khu vực.

- Khu vực bị ngập về mùa mưa thời gian nửa ngày



6

Vệ sinh môi trường

- Có trên 20% hộ gia đình không có hố xí tự hoại và bán tự hoại.

- Có trên 30% hộ gia đình không được thu gom rác thải



7

Điện chiếu sáng

- Có trên 50% đường nội bộ chưa có đèn đường chiếu sáng.

8

Số nhà tạm trong khu vực

- Có trên 30% là nhà tạm so với tổng số nhà ở trong khu vực

- Có trên 30% hộ gia đình có diện tích sàn nhỏ hơn 40 m2/hộ



9

Sự tham gia của cộng đồng và chính quyền địa phương

- Nhất trí và tích cực tham gia theo quy định:

+ 100% các cấp chính quyền

+ trên 50% cộng đồng dân cư


Khu dân cư nghèo thường có tỷ lệ hộ thu nhập thấp khá cao, môi trường bị ô nhiễm, nhiều bệnh tật phát sinh ảnh hưởng đến sức khoẻ của dân cư và sự phát triển bền vững của đô thị. Các khu dân cư nghèo tồn tại trong nhiều đô thị, rất đa dạng nhưng có thể nêu lên bốn loại khu dân cư nghèo tiêu biểu là390:

- Khu dân cư nghèo nằm ở trung tâm các thành phố lớn

Đa số dân cư trong các khu nghèo này làm nghề tự do, thu nhập thấp và không ổn định. Mật độ dân số cao, từ 200 đến 300 người/ha. Có tới 70% - 80% nhà ở là nhà tạm 1 tầng, mỗi hộ trung bình có từ 6 đến 7 người sinh sống với nhiều thế hệ, thậm chí có nhà chỉ có 30m2 mà có tới 3 thế hệ sống chung với nhau.



Về giao thông, khu phố có nhiều ngõ, hẻm hẹp đi lại rất khó khăn, mặt đường thường là cấp phối, chiều rộng chỉ từ 1 đến 1,5 mét, chật hẹp đến mức không thể lắp cột điện vào các ngõ, các hộ đều phải câu dây điện từ xa, dây điện mắc chằng chịt, không an toàn, điện năng tổn thất lớn.

T
Hình 1. Khu phố nghèo đô thị


rong khu dân cư không có hệ thống thoát nước, chỉ có một số đoạn mương hở hoặc mương có nắp đan, nước thải sinh hoạt thường chảy tràn trên mặt đường. Các đường ống cấp nước và cống thoát nước chồng chéo lên nhau, gây khó khăn cho việc sửa chữa và bảo dưỡng. Tình trạng vệ sinh môi trường yếu kém, rác thải chưa được thu gom triệt để, có nhiều bãi rác đổ ngay trên mương trong khu dân cư, bốc mùi hôi thối nồng nặc.

- Khu dân cư nghèo bên cạnh các xí nghiệp công nghiệp

Hiện nay tình trạng các khu dân cư nghèo, nơi ở của những công nhân lao động tạm bợ bên cạnh các xí nghiệp công nghiệp đang xuất hiện ngày một nhiều theo sự phát triển của các khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất. Nhà ở chủ yếu là nhà thuê, chất lượng thấp, mật độ ở cao và đặc biệt là thiếu nghiêm trọng hệ thống dịch vụ công cộng và hạ tầng kỹ thuật. Do các khu công nghiệp được đầu tư ồ ạt, thiếu vốn, thiếu năng lực; các khu công nghiệp lại không quan tâm đến nơi ở của công nhân đã làm tăng nguy cơ ô nhiễm môi trường, mất an toàn và thiếu quản lý, kiểm soát.

Các khu nghèo trong đô thị gia tăng do việc tăng nhanh lao động ở thuê tại các khu công nghiệp, rải rác xen kẽ trong các đô thị lớn và các vùng ven đô đang là mối đe dọa làm cho các đô thị nghèo đi và môi trường xuống cấp. Hình thức này hình thành nhanh chóng các khu nghèo kiểu mới và sự xuống cấp trầm trọng môi trường ở tại các khu đô thị.

- Khu dân cư nghèo mới chuyển từ làng xã sang phường (từ nông thôn chuyển sang đô thị).

Thu nhập của các hộ dân tại các phường mới chuyển từ xã sang phường chủ yếu là thấp, tỷ lệ hộ thu nhập dưới 300.000 đồng/tháng/người là khá cao, chiếm trên 20%, có khu là 45%, dân cư ở đây đang trong quá trình chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp sang các ngành nghề sản xuất công nghiệp và các chức năng chuyên dùng khác. Cơ sở hạ tầng của các khu dân cư nghèo loại này còn rất yếu kém, phổ biến nhất là chưa có hệ thống thoát nước, nước thải sinh hoạt chỉ thấm ra khu xung quanh, có khi chảy tràn trên mặt đường.

Vệ sinh môi trường thấp kém, chỉ có một số hộ gia đình có hố xí bán tự hoại, số còn lại dùng hố xí 2 ngăn, 1 ngăn, xí tạm không hợp vệ sinh; rác thải sinh hoạt ít được thu gom, chủ yếu còn chôn lấp tại vườn nhà. Nhiều khu dân cư chưa được cấp nước máy, nhân dân phải dùng nước giếng khơi hoặc nước sông, chất lượng nước không hợp vệ sinh. Đường sá trong các khu dân cư chưa được quy hoạch và phần lớn mặt đường là đường đất, không có hệ thống chiếu sáng công cộng.

- Khu dân chài nghèo đánh bắt hải sản ở các thành phố ven biển.

Khu nghèo này gồm phần lớn là ngư dân, sống chủ yếu bằng đánh bắt hải sản, họ chịu nhiều rủi ro về kinh tế khi liên tục gặp phải thời tiết xấu và thiên tai. Ngoài đánh bắt hải sản theo mùa, họ còn làm các nghề tự do khác như sơ chế hải sản, buôn bán chạy chợ và các dịch vụ khác,... vì thế thu nhập thường không ổn định, đời sống bấp bênh.

Phần lớn nhà ở là tạm bợ, diện tích chật hẹp, mỗi gia đình thường có khoảng từ 5 đến 6 người sống trong gian nhà khoảng 30 m2. Cơ sở hạ tầng thấp kém, đường sá chật hẹp, quanh co, mặt đường bằng đất cát. Các khu dân cư loại này thường không được cấp nước, không có cống rãnh thoát nước, khi mưa thì ngập úng, nước thải sinh hoạt tự thấm xuống cát. Vệ sinh môi trường rất kém, không có hố xí tự hoại ở các gia đình. Người dân phải sử dụng nhà vệ sinh công cộng, thậm chí không có nhà vệ sinh mà phải đi đại tiện ở bãi biển, bãi sông.

2.2. Thực trạng về các khu dân cư nghèo trong các đô thị

Người dân trong các khu nghèo đô thị thường là người di cư tự do từ các vùng nông thôn vào, chủ yếu là trẻ em và người trong độ tuổi lao động; họ tìm kiếm công ăn việc làm bằng các nghề tự do hoặc làm việc trong các khu công nghiệp tập trung, tương đối khó khăn trong việc có thu nhập ổn định. Ngoài ra là các nhóm đối tượng xã hội khác như những người không nghề nghiệp, người lang thang cơ nhỡ và bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã hội. Đối tượng này rất khó kiểm soát, hết sức phức tạp trong việc quản lý của các chính quyền đô thị.

Hệ thống hạ tầng kỹ thuật trong các khu dân cư nghèo phần lớn rất yếu kém, không đáp ứng được nhu cầu của người dân. Rất nhiều đường chính đô thị không có vỉa hè, mặt đường vẫn là đường đất. Đường sá thường là các ngõ xóm chật chội chất lượng kém, mặt đường nhỏ hẹp dưới 2,5 mét chiếm trên 50%. Thêm vào đó, việc tăng nhanh phương tiện cơ giới cá nhân gây ách tắc giao thông thường xuyên và làm gia tăng mức độ ô nhiễm không khí. Tình trạng lầy lội, úng ngập trong các khu nghèo là rất phổ biến do không có hệ thống thoát nước mưa, thông thường nước thoát chảy tràn trên mặt đường.

Mặc dù số hộ gia đình trong các khu nghèo có nước và điện tăng lên nhưng chất lượng còn yếu kém. Rất ít hộ nghèo được hưởng đầy đủ dịch vụ cung cấp nước sạch, ở một số nơi hệ thống cấp nước đã được đấu nối nhưng thiếu nước hoặc không có nước do chưa có kinh phí cải tạo, nâng cấp. Đa số các hộ trong khu nghèo phải tự khoan đào giếng để sử dụng nên chất lượng nước không đảm bảo vệ sinh. Chỉ có 61% người dân đô thị được tiếp cận với nước máy, chỉ có một vài đô thị ở Việt Nam có thu gom và xử lý nước thải. Hệ thống thoát nước chủ yếu là cống, rãnh hở rất mất vệ sinh; nước thải sinh hoạt, chăn nuôi xả trực tiếp ra cống, đổ ra ao, hồ trong khu vực, gây ô nhiễm môi trường và nguồn nước nghiêm trọng. Đây là nguyên nhân chính gây ra các bệnh truyền nhiễm và bệnh hiểm nghèo trong dân cư.

Vấn đề ngập úng và rác thải là khó khăn bức xúc của nhiều đô thị (trên 80% bãi chôn lấp đã gần đóng cửa và không hợp vệ sinh, có những khu vực úng ngập hàng tuần). Rác thải thu gom không triệt để, phần lớn đổ xung quanh nhà, đổ không đúng nơi quy định, gây mất vệ sinh trong khu dân cư và ảnh hưởng đến môi trường sống của chính người dân. Chất thải sinh hoạt và công nghiệp không được thu gom thường xuyên, hầu hết chưa được xử lý chôn lấp an toàn, gây ùn tắc cống rãnh đã làm cho môi trường xuống cấp trầm trọng.

Mạng lưới điện cũ, thiếu an toàn, chất lượng dịch vụ cấp điện còn thấp, thường xuyên xảy ra nhiều sự cố, hệ thống điện chiếu sáng công cộng hầu như không có. Dịch vụ bưu chính viễn thông tương đối ổn định hơn so với các dịch vụ khác trong hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị ở các khu nghèo song mức độ chi trả tiền dịch vụ quá cao so với thu nhập của người nghèo nên số lượng người sử dụng vẫn còn rất hạn chế.

Khảo sát của các chuyên gia Ngân hàng Thế giới cho thấy: Trong các khu đô thị nghèo, hệ thống cơ sở hạ tầng và các dịch vụ cơ bản yếu kém, thiếu thốn. Tốc độ đô thị hoá đang tăng cao dẫn đến hiện tượng di cư ra thành thị ngày một lớn, và vì vậy, đói nghèo từ nông thôn đang chuyển dần sang thành thị. Hạ tầng xuống cấp nghiêm trọng đang ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống của dân nghèo.

Nhà ở chật chội với chất lượng kém, có khoảng 25% nhà ở được coi là dưới mức tiêu chuẩn hoặc là nhà tạm. Khoảng 300.000 người đang phải sống trong những khu ổ chuột ở Thành phố Hồ Chí Minh. Nhà ở có đủ các loại mái lợp, tường bao khác nhau (kiên cố, bán kiên cố, tạm bợ...), các công trình công cộng như chợ, trường học, trạm y tế, công viên, vườn hoa... đều cách xa khu nghèo đô thị.

Theo điều tra của Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội, hiện tại 30% số người sống dưới mức 3 m2/người, 65% người thu nhập thấp cần nhà ở, 50% số người có nhu cầu về nhà ở hy vọng được ở tại các khu chung cư391. Một số dự án xây dựng chung cư cho người có thu nhập thấp ra đời. Tuy nhiên, khi những chung cư này vừa khởi công thì số người nộp đơn thường đã nhiều gấp 3 lần số căn hộ trong một chung cư và cũng chỉ có 30% là mua được với giá gốc, 70% là qua trung gian và người mua chấp nhận bị đội giá từ 20% - 30% so với giá gốc mà không mua được nhà. Người nghèo đô thị thực sự có nhu cầu về nhà ở không thể mua được nhà vì số tiền quá lớn so với thu nhập của họ. Một căn phòng của chung cư mua giá gốc từ 400 triệu đồng đến trên 1 tỷ đồng (tuỳ theo diện tích và số tầng) nhưng nếu qua trung gian, phải mất thêm từ 30 - 50 triệu đồng cho một căn hộ392. Điều này cho thấy chung cư là một giải pháp hữu hiệu về nhà ở nhưng người nghèo đã, đang và sẽ không tiếp cận được.

Theo thống kê của Bộ Xây dựng thì trong 3,444 triệu m2 chung cư được khảo sát tại 7 địa phương và 1,85 triệu m2 ở Thành phố Hồ Chí Minh, có 36% diện tích kém chất lượng, gần 64% chất lượng trung bình, không tới 1% có chất lượng khá trở lên393. Đây là những con số thật sự đáng lo ngại.

Lực lượng cán bộ của nhiều phòng quản lý đô thị địa phương vừa thiếu vừa yếu, về cả số lượng, năng lực cũng như cơ sở vật chất. Tuy nhiên, sự tham gia của cộng đồng trong các đô thị tương đối tốt, nhiều đô thị đã có các cuộc vận động như xây dựng nhà đoàn kết, nhà tình thương, xây dựng đường ngõ xóm và đã đạt được những kết quả đáng kể.



3. Một số giải pháp cải thiện môi trường ở cho các khu dân cư nghèo đô thị

3.1. Chính sách, cơ chế

Đối với các khu dân cư nghèo trong đô thị, việc cần thiết là phải đưa ra được những chính sách, cơ chế hợp lý. Các vấn đề chính cần quan tâm hiện nay là:

Định hướng phát triển đô thị có sự quan tâm thích đáng đến các khu dân cư nghèo phù hợp với tình hình hiện tại, kể cả các giải pháp thích hợp cho hệ thống hạ tầng kỹ thuật, trong đó khuyến khích nâng cấp đô thị tại chỗ cho những khu vực có thu nhập thấp. Cần phân cấp mạnh hơn đối với việc tạo nguồn thu, quy hoạch đô thị và xét duyệt các dự án. Xác định đầu tư theo thứ tự ưu tiên có hiệu quả với các chính sách giảm giá, trợ giá hoặc đầu tư theo kiểu trả góp cho người nghèo. Cần có hướng dẫn cho chính quyền địa phương trong xem xét đánh giá những đầu tư chi phí cao cho hệ thống vận chuyển công cộng và các quy trình xử lý chất thải hiện đại.

Trách nhiệm của các cơ quan chuyên môn, các sở, ban, ngành, chính quyền địa phương cần được xem xét lại và xác định rõ ràng; Cần trao thêm nhiều quyền lực cho chính quyền địa phương để rà soát và thực hiện các quy hoạch tổng thể trong một khuôn khổ quy định chặt chẽ nhằm ngăn ngừa việc lạm dụng quyền lực.

Bổ sung, ban hành những Nghị định, Thông tư hướng dẫn đối với các lĩnh vực cấp thoát nước, quản lý chất thải rắn, giao thông đô thị và bảo vệ môi trường có quan tâm đến người nghèo. Gần đây, “Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về Quy hoạch xây dựng” ban hành theo Quyết định số 04/2008/QĐ-BXD ngày 3 tháng 4 năm 2008 của Bộ Xây dựng đã quy định một số vấn đề liên quan đến cải tạo và chỉnh trang đô thị, trong đó có những vấn đề cụ thể cần quan tâm đến khi nghiên cứu cho người nghèo đô thị:

- Hệ thống hạ tầng kỹ thuật trong các khu vực cũ cần được cải tạo đồng bộ, lộ giới đường giao thông trong nhóm nhà ở hiện trạng cải tạo phải đảm bảo lớn hơn 4 mét, đường cụt một làn xe không được dài quá 150 mét và phải có điểm quay xe. Đối với khu vực cũ trong các đô thị, khi quy hoạch cải tạo phải ưu tiên tối đa cho việc bố trí các công trình phúc lợi công cộng, mặc dù chỉ tiêu sử dụng đất có thể được phép giảm so với các chỉ tiêu thông thường. Bán kính phục vụ của các công trình công cộng được phép tăng không quá 2 lần so với quy định thông thường, đồng thời phải đảm bảo các quy định chuyên ngành.

- Đối với nhà ở: Diện tích tối thiểu của mỗi lô đất xây dựng nhà liền kề là 25m2, mỗi chiều của lô đất không được nhỏ hơn 2,5 mét với tầng cao theo quy định chung trong trường hợp lô đất là bộ phận cấu thành của cả dãy phố; Trong trường hợp lô đất đứng đơn lẻ, diện tích tối thiểu của lô đất được xây dựng công trình trên đó là 50 m2/căn nhà với mỗi chiều của lô đất không nhỏ hơn 5 mét; Khoảng cách giữa các dãy nhà liền kề hoặc công trình đơn lẻ phải đáp ứng được các yêu cầu về vệ sinh môi trường và phòng chống cháy;

Các chỉ tiêu cần đạt được trong các khu nhà ở đến năm 2020 như sau:

- Di dời 100% nhà xây tại các khu vực không đảm bảo an toàn và không phù hợp cho sinh sống của người dân;

- Xây dựng đạt chuẩn về mật độ đường giao thông cho các loại đường khác nhau và nâng cấp hệ thống đèn đường chiếu sáng;

- Cấp nước sạch tới 100% hộ dân của đô thị;

- Khôi phục và lắp đặt hệ thống thoát nước chung cho cả thoát nước mưa và nước thải nhằm giảm bớt nguy cơ lụt lội và ngấm vào các nguồn nước ngầm; 45% lượng nước thải và 100% chất thải rắn phải được thu gom và xử lý; 100% hộ dân của đô thị có nhà vệ sinh có nối đến bể tự hoại;

- Đảm bảo các khoản cho vay để cải tạo nhà ở đối với hộ gia đình có nhà ở chưa đạt chuẩn tại các khu dân cư nghèo.



3.2. Tổ chức thực hiện quy hoạch xây dựng cải tạo và chỉnh trang

Quy hoạch không gian cần phối hợp hiệu quả hơn với các quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch chuyên ngành và có sự tham gia của tất cả các bên liên quan, cộng đồng. Các đồ án quy hoạch cần mang tính chiến lược và mềm dẻo để đáp ứng những nhu cầu không dự báo trước được của một nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Hơn thế nữa, quy hoạch phải dựa trên hiện thực đối với mức độ nguồn lực sẵn có cho thực thi, chúng cần được thực hiện một cách hiệu quả và hoàn thiện hơn.

Cần dành sự ưu tiên cao nhất để giải quyết tắc nghẽn giao thông và giao thông công cộng cho các thành phố lớn. Bên cạnh đó là việc mở rộng phạm vi cung cấp nước máy, thu gom và xử lý nước thải và thoát nước, đặc biệt tại các khu dân nghèo cũng như nơi tình trạng úng ngập và ô nhiễm diễn ra nghiêm trọng; Về thu gom, quản lý và xử lý chất thải rắn, cần ưu tiên cho việc xử lý an toàn những bãi chôn lấp với thiết kế và hoạt động hợp lý.

Giải quyết nhà ở, đặc biệt xây dựng nhà ở cho thuê trong khả năng chi trả của người nghèo bằng các biện pháp khuyến khích các nhà phát triển tư nhân là điều cần thiết, hiện nay khu vực kinh tế tư nhân bắt đầu đáp ứng phần nào nhu cầu của những người dân có thu nhập trung bình. Tuy nhiên, đáp ứng nhu cầu của những người thu nhập thấp, đặc biệt là những người dân mới di cư vẫn là một thách thức. Giải pháp là phải tạo ra những khuyến khích vật chất thích hợp đối với các nhà phát triển tư nhân.

Nâng cấp tại chỗ những khu vực hiện tại của người thu nhập thấp là một phương thức hiệu quả hỗ trợ chi phí cho người nghèo đô thị, tránh đảo lộn cuộc sống và nhiều khi còn là nơi kiếm sống của họ.

3.3. Tài chính thực hiện dự án

Việc dự trù tài chính cho phát triển là một yếu tố hết sức cần thiết, không thể thiếu khi xác định định hướng phát triển đô thị. Theo Ngân hàng Thế giới, dự kiến tài chính cho các hoạt động về hạ tầng kỹ thuật tại các đô thị Việt Nam như sau:



Bảng 2. Dự kiến nhu cầu tài chính cho cấp nước394




2010

2020

Dân số đô thị (người)

32.000.000

46.000.000

Số dân đô thị có nước máy năm 2000 (người)

9.120.000

9.120.000

Số dân cần có nước máy (người)

22.880.000

36.880.000

Ước tính chi phí cho mỗi người theo thời giá năm 2000 (USD)

165

165

Vốn cần thiết để cung cấp 100% nước máy (triệu USD)

3.775

6.085

Bảng 3. Dự kiến nhu cầu tài chính cho thu gom và xử lý nước thải395




2010

2020

Dân số đô thị (người)

32.000.000

46.000.000

Bình quân chi phí cho mỗi người về thu gom nước thải theo thời giá năm 2004 (USD)

30

30

Bình quân chi phí cho mỗi người về xử lý nước thải (theo phuơng pháp hồ xử lý ô xy hoá) theo thời giá năm 2004 (USD)

57,5

57,5

Bình quân tổng chi phí cho mỗi người (USD)

87,5

87,5

Chi phí cung cấp hệ thống thu gom và xử lý nước thải cho toàn bộ dân cư đô thị (triệu USD)

2.800

4.025

Bảng 4. Dự kiến nhu cầu tài chính cho thoát nước396




2010

2020

Dân số đô thị (người)

32.000.000

46.000.000

Bình quân chi phí cho mỗi người về các nhánh thoát nước cấp 1, 2 và 3 theo thời giá năm 2004 (USD)

53,3

53,3

Bình quân chi phí cho mỗi người để phục hồi kênh mương theo thời giá năm 2004 (chỉ tính các thành phố loại đặc biệt và loại 1 - khoảng 40% dân số) (USD)

53,4

53,4

Chi phí cho tiêu thoát nước cấp 1, 2 và 3 (triệu USD)

1.709

2.456

Chi phí phục hồi kênh mương thoát nước cho 40% dân số (triệu USD)

684

983

Dự kiến Nhu cầu tài chính cho giao thông đô thị và nhà ở chi phí thấp397:

- Giao thông đô thị: dự kiến nhu cầu tài chính về quy hoạch tổng thể giao thông cho riêng Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là 17,3 tỷ USD tới năm 2020 (khoảng 6 tỷ USD cho tới năm 2010);

- Nhà ở: cung cấp nhà ở chi phí thấp cho những người dân đô thị nghèo nhất (khoảng 15%) dự kiến chi phí khoảng 8,4 tỷ USD tới năm 2010.

Bảng 5. Dự kiến nhu cầu tài chính cho toàn bộ hạ tầng đô thị tới năm 2010398


Chuyên ngành

Dự kiến Nhu cầu Tài chính

tới năm 2010 (tỷ USD)

Cấp nước

3,8

Thu gom và Xử lý nước thải

2,8

Thoát nước

2,4

Giao thông Đô thị

(Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội)



6,0

Nhà ở Chi phí thấp

8,4

Tổng số

23,4

Dự kiến đầu tư này vào hạ tầng thiết yếu nhằm giải quyết những tồn tại và đáp ứng nhu cầu tăng trưởng rõ ràng vượt quá các nguồn lực ngân sách sẵn có của Chính phủ. Chính vì vậy, cần phải huy động thêm các nguồn tài chính khác, sắp xếp các đầu tư theo thứ tự ưu tiên hợp lý và công tác thực thi phải tiến hành một cách có hiệu quả hơn.

Huy động các nguồn tiết kiệm trong nước là lựa chọn tốt nhất. Để làm được điều này, các chính quyền địa phương phải hoạt động theo hướng thương mại hơn nhằm đem lại sự tin cậy cho những nhà đầu tư. Ngoài ra là việc xem xét đánh giá xếp hạng tín dụng độc lập, phát hành trái phiếu, tăng số tự thu như tăng lệ phí nước thải, rác thải và áp dụng thuế tài sản.

Một công việc cũng hết sức quan trọng là sử dụng các nguồn lực ngân sách hạn hẹp làm đòn bẩy cho các nguồn lực khác nhằm giải quyết những vấn đề tác động tới sức khoẻ nhân dân và hỗ trợ những người bị thiệt thòi nhất.

4. Vai trò và trách nhiệm của các thành phần xã hội trong Quy hoạch cải tạo và chỉnh trang khu dân cư nghèo đô thị

4.1. Vai trò và trách nhiệm của nhà nước trung ương và địa phương

Trong thời gian tới, với quan điểm xây dựng hệ thống đô thị bền vững có nền tài chính đô thị mạnh, sự liên kết và phối hợp chặt chẽ, phát triển cân bằng có sự liên kết đô thị và nông thôn, tăng cường sự tham gia và nâng cao nhận thức cộng đồng, phân cấp và tăng cường thể chế, nâng cao năng lực và tính chủ động của chính quyền đô thị, Chính phủ Việt Nam đang tập trung vào các chính sách và giải pháp lớn về phát triển đô thị399, đặc biệt cho các khu nghèo đô thị, chủ yếu như sau:



1. Xây dựng chiến lược phát triển đô thị, đẩy mạnh mối liên kết và giảm sự cách biệt giữa đô thị và nông thôn.

2. Tiến hành cải cách giấy tờ thủ tục hành chính công trong các lĩnh vực đất đai và quản lý nhà ở, kinh doanh và cấp phép xây dựng, đăng ký hộ khẩu...

3. Mở rộng các chính sách phát triển nhà ở cho dân nghèo thành thị, nâng cấp các khu vực dân cư phụ cận có tính đến điều kiện kinh tế và đảm bảo việc làm cho họ và tiếp tục hoàn thiện chính sách phát triển nhà ở cho người thu nhập thấp.

Trong quy hoạch xây dựng đô thị, việc di dời, bố trí sắp xếp lại dân cư là điều cần thiết nhưng cần cố gắng tìm kiếm phương án tái định cư tại chỗ.

Thực hiện các dự án nâng cấp hạ tầng đô thị vừa đảm bảo các yêu cầu về vệ sinh môi trường, vừa quan tâm đến các yêu cầu của dân nghèo thành thị và khả năng chi trả của họ. Hỗ trợ dân nghèo đô thị cải thiện môi trường cư trú, xây dựng chính sách khuyến khích người dân tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng và quản lý sử dụng các dịch vụ xã hội tại nơi cư trú.

Hoàn chỉnh tiêu chuẩn, quy phạm một cách hợp lý, đáp ứng từng bước phù hợp với khả năng tài chính và kỹ thuật của dân nghèo trong đô thị.



4. Tạo cơ hội cho người dân thành thị, kể cả dân nhập cư sử dụng các dịch vụ xã hội cơ bản như trường học, y tế, chợ, công trình công cộng, vui chơi, giải trí cho người nghèo và đưa ra các biện pháp giúp người nghèo tìm kiếm việc làm phù hợp ở các đô thị.

5. Tiếp tục phát triển các chương trình xây dựng, nâng cấp mạng lưới hạ tầng kỹ thuật, từng bước cải tạo, mở mang giao thông đô thị, phát triển giao thông công cộng, chống ùn tắc và bảo đảm an toàn giao thông.

Nâng cao năng lực quản lý hạ tầng kỹ thuật cho chính quyền đô thị. Đảm bảo quyền bình đẳng hưởng thụ các dịch vụ cấp thoát nước, thu gom xử lý rác thải, vệ sinh, chiếu sáng công cộng đối với mọi người dân cũng như nghiên cứu xây dựng chính sách xã hội hoá trong việc tham gia giảm thiểu ô nhiễm môi trường và bảo vệ môi trường sống đô thị đồng thời giảm chi phí đóng góp cho người nghèo.



6. Tạo quỹ đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ xã hội cho người nghèo đô thị thông qua việc cung cấp các khoản vay vốn cho người nghèo, tiến tới hình thành quỹ hỗ trợ cho người nghèo đô thị.

Hướng tiếp cận mới là xây dựng Chiến lược phát triển đô thị (CDS), giúp cho các tổ chức phát triển song phương và đa phương sử dụng CDS để xây dựng một chương trình hỗ trợ nhằm tạo mối liên kết giữa ngoại lực và nội lực hài hoà, hiệu quả, cho một mục tiêu phát triển đô thị bền vững hội đủ bốn tiêu chí là: có điều kiện sống tốt; có một nền tài chính lành mạnh; có tính cạnh tranh và có một chính quyền mạnh với một bộ máy quản lý tốt.



4.2. Cộng đồng tham gia công tác quy hoạch cải tạo và chỉnh trang các khu dân cư nghèo trong đô thị

Sự tham gia của cộng đồng trong quản lý đô thị là một quá trình mà nhà nước và người dân cùng nhận các trách nhiệm cụ thể trong các hoạt động cung cấp dịch vụ đô thị trên nguyên tắc hợp tác và hài hoà lợi ích. Đây không đơn giản là huy động nguồn lực, mà chính là đảm bảo cho những người chịu tác động của dự án đô thị (ở tất cả các lĩnh vực) được tham gia vào quá trình hình thành và thực hiện dự án. Các yếu tố chính bao gồm:

- Sự nỗ lực và tự chủ tối đa của người dân để cải thiện chính điều kiện sống của mình.

- Khai thác tối đa các nguồn lực trong cộng đồng, hợp tác và tổ chức hợp tác nhằm thực hiện các mục tiêu của cộng đồng.

- Chính phủ hoặc các tổ chức có sự trợ giúp về kỹ thuật và nguồn lực cũng như dịch vụ để hỗ trợ cộng đồng nâng cao năng lực tự chủ, sáng tạo trong cộng đồng như một quá trình xúc tác.

Các lợi ích lớn của đất nước có sự tham gia cộng đồng sẽ bền vững hơn nhiều, nhất là trong công tác quy hoạch xây dựng và quản lý đô thị. Ý nghĩa của sự tham gia này là thiết thực, cụ thể:

- Người dân có quyền tham gia vào quá trình hoạch định đô thị vì các quyết định đó sẽ tác động vào cuộc sống của họ. Nếu thuận thì họ sẽ tự đóng góp cho quá trình này bằng nhiều cách, ít nhất là ủng hộ và tuân thủ quy hoạch.

- Tăng sức mạnh của cộng đồng dân cư tại chỗ ở và họ sẽ tự can thiệp vào các vật cản làm chậm quy hoạch cũng như thực hiện quy hoạch bằng phương thức điều phối cộng đồng.

- Các dự án quy hoạch, xây dựng sẽ đạt kết quả tốt nhất nếu có sự ủng hộ và giám sát quá trình thực hiện của người dân. Đây cũng là ưu điểm lợi thế nhất, đặc biệt đối với các công trình ngầm và hạ tầng kỹ thuật đô thị.

- Cộng đồng có thể huy động nguồn nhân lực, vật lực rất dồi dào trong dân cư và họ sẽ gắn kết quyền lợi với dự án, tạo điều kiện cho các dự án xây dựng đẩy nhanh tiến độ và hiệu quả.

Không thể nói hết các lợi ích mà sự tham gia của cộng đồng đem lại khi chính phủ không đủ khả năng cung cấp nhà ở và các dịch vụ cơ bản cho người nghèo. Vì vậy, sự tham gia của cộng đồng rất quan trọng, do họ huy động được nguồn lực tại chỗ hoặc tự cung cấp các dịch vụ sẵn có cho cộng đồng. Ở Việt Nam hiện nay các cơ chế, chính sách cần thiết để đảm bảo cho việc tham gia của cộng đồng chưa được quan tâm đúng mức, nhất là ở các đơn vị cơ sở cấp phường, quận trong các dự án xây dựng có lấy đất của dân.

Chính vì vậy cần có quy trình khoa học để làm căn cứ cho việc đưa chủ trương có sự tham gia của người dân trong quản lý đô thị, có thể như sau:

- Xây dựng quan điểm và phương pháp tiếp cận.

- Xây dựng quy trình thực hiện “Pháp lệnh dân chủ cơ sở” và áp dụng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra” theo hướng tăng quyền cho cộng đồng.

- Đưa sự tham gia cộng đồng vào các dự án quy hoạch ở tất cả các giai đoạn.

- Đưa sự kiểm tra, giám sát của cộng đồng dân cư tại chỗ trong việc xây dựng các dự án đô thị theo các quy định và quy chế có ràng buộc pháp lý giữa Chủ đầu tư - Nhà nước - Cộng đồng dân cư tại chỗ - Người hưởng thụ dự án.

- Kiểm tra tài chính dự án, dân phải có quyền so sánh giá xây dựng và các chỉ tiêu kinh tế giá thành khác.

- Duy trì, bảo dưỡng sau xây dựng càng cần có ý kiến người dân địa phương bởi dự án hàng ngày tác động lên cuộc sống của họ một cách tích cực hoặc tiêu cực.



4.3. Sự tham gia của thành phần kinh tế tư nhân

Trong nền kinh tế kế hoạch tập trung, nhà nước có trách nhiệm phát triển và cung cấp các dịch vụ và cơ sở hạ tầng đô thị. Trong nền kinh tế với định hướng thị trường, vai trò của khối tư nhân lớn hơn nhiều trong việc tạo ra và cung cấp các dịch vụ đô thị.

Trong nền kinh tế thị trường, khối tư nhân đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra và cung cấp các dịch vụ đô thị. Nhà nước ngày càng trông chờ khối tư nhân tạo ra và cung cấp một phần dịch vụ đô thị một cách độc lập hoặc là đối tác với khối nhà nước. Đây sẽ là xu hướng chính trong tương lai của quản lý đô thị. Sự thay đổi trong việc tạo ra và cung cấp các dịch vụ đô thị đòi hỏi một sự quản lý cẩn thận mối quan hệ giữa khối tư nhân và nhà nước. Vai trò của nhà nước đang thay đổi cùng với đặc tính của nhà nước và trong thời gian gần đây, ít có sự khác biệt trong cấu trúc quản lý của khối tư nhân và nhà nước trong nền kinh tế thị trường.

Trong cơ chế thị trường hiện nay, khối tư nhân có thể phân phối dịch vụ đô thị hiệu quả hơn và có thể huy động nguồn lực tốt hơn nhằm làm giảm bớt những rủi ro mà một nhà đầu tư riêng rẽ có thể gặp phải; Nhà nước không nên liên quan nhiều đến việc cung cấp dịch vụ công cộng và cơ sở hạ tầng bởi khối tư nhân có thể gánh chịu những rủi ro trong lĩnh vực này là hợp lý hơn.



4.4. Người dân tham gia công tác quy hoạch cải tạo và chỉnh trang các khu dân cư nghèo trong đô thị

Trong các khu nghèo đô thị, bản thân người dân đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng khu ở của mình. Những công việc mà người dân nghèo đô thị có thể tham gia gồm:

- Thể hiện mọi ý chí, nguyện vọng của mình về cải tạo, chỉnh trang khu nhà ở;

- Cung cấp các thông tin cần thiết cho công tác cải tạo, chỉnh trang;

- Đóng góp ý kiến về định hướng và giải pháp cho công tác quy hoạch cải tạo khu nhà ở;

- Cam kết thực hiện mọi quy định, nguyên tắc cải tạo, chỉnh trang khu dân cư của chính quyền đô thị;

- Nâng cao ý thức trong công tác quản lý và bảo vệ môi trường, tham gia tích cực công việc thu gom chất thải rắn, không xả nước thải ra không gian cộng đồng, không gây ô nhiễm môi trường...;

- Đóng góp nguồn nhân lực, khoản kinh phí mình có được để thực hiện, triển khai công tác cải tạo ngay chính chỗ ở của mình;

- Tham gia công tác quản lý, duy tu, bảo dưỡng và duy trì mọi hoạt động cho khu đô thị.

Kết luận

Quan tâm đến mọi tầng lớp của xã hội, trong đó có dân nghèo thành thị là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của toàn Đảng và toàn dân ta. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước về kinh tế xã hội, không gian và bộ mặt các đô thị đã được thay đổi nhanh chóng với đầy đủ các khu chức năng phục vụ cuộc sống của con người. Bằng mọi nỗ lực của toàn xã hội, các khu ở đô thị đã được phát triển, nâng cấp đáng kể cả về chất lượng và số lượng. Tuy nhiên, bên cạnh các khu ở khang trang, hiện đại đầy đủ tiện nghi vẫn còn một bộ phận không nhỏ các khu nghèo đô thị, phân bố rải rác trong các đô thị lớn, đô thị mở rộng, đô thị ven biển và các khu công nghiệp tập trung.

Để có được các đô thị phát triển hoàn chỉnh, đồng bộ và bền vững, môi trường ở trong các khu dân cư nghèo đô thị phải được cải thiện. Giải pháp cải thiện môi trường ở cho người dân trong các khu vực nghèo đô thị cần bao gồm các chính sách, cơ chế, việc tổ chức thực hiện quy hoạch và yếu tố tài chính triển khai thực hiện dự án. Việc xác định vai trò và trách nhiệm của các cấp chính quyền cũng như mọi thành phần của xã hội là hết sức cần thiết, trong đó sự tham gia của cộng đồng đang ngày càng có ý nghĩa trong mọi hoạt động của xã hội, kể cả xây dựng và phát triển đô thị.

Cải thiện môi trường ở cho các khu dân cư nghèo đô thị trong quá trình đô thị hoá ở Việt Nam là góp phần thiết thực thực hiện phương châm xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đem lại hạnh phúc cho mọi người.400





PH¸T TRIÓN §¤ THÞ ë TØNH Hµ NAM, VIÖT NAM

N



KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO QUOÁC TEÁ VIEÄT NAM HOÏC LAÀN THÖÙ BA

TIEÅU BAN ÑOÂ THÒ VAØ ÑOÂ THÒ HOAÙÙ





guyễn Đình Minh*


1. Mở đầu

Việt Nam là một nước đang phát triển ở khu vực châu Á Thái Bình Dương. Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới như một thành viên đầy đủ vào năm 2007, và đang tích cực phấn đấu trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 xuất phát từ một nước nông nghiệp. Để đạt được mục tiêu đó, Việt Nam phải tích cực huy động nội lực và ngoại lực cho công cuộc công nghiệp hoá và đô thị hoá. Theo hướng đó, phát triển đô thị trở thành một hợp phần của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước và mỗi tỉnh thành.

Về hành chính, Việt Nam có 63 tỉnh thành ở 8 vùng kinh tế xã hội. Trong những năm gần đây, công nghiệp hoá và đô thị hoá là các quá trình địa lý nổi bật diễn ra nhanh chóng trên cả nước, đặc biệt ở châu thổ sông Hồng. Các quá trình đó đã trở thành chủ đề nóng trong Việt Nam học.

Trong quá trình hội nhập và phát triển, cùng với cả nước, Hà Nam, một tỉnh nhỏ và đông dân ở châu thổ sông Hồng đã đẩy mạnh công nghiệp hoá và đô thị hoá. Báo cáo này cung cấp một tổng quan về phát triển đô thị ở Hà Nam trên cơ sở nghiên cứu trong phòng và thực địa. Nó góp phần tích cực vào việc hiểu biết quá trình đô thị hoá ở Việt Nam nói chung và ở châu thổ sông Hồng nói riêng.



2. Cơ sở địa lý cho phát triển đô thị ở Hà Nam

Tỉnh Hà Nam nằm cách Hà Nội khoảng 60 km về phía Nam và ở Tây Nam châu thổ sông Hồng, với toạ độ địa lý trong khoảng từ 20o22’00” đến 20o42’00” vĩ Bắc và từ 105o45’00” đến 106o10’00” kinh Đông. Hà Nam giáp với các tỉnh Hà Tây về phía Bắc, Hưng Yên và Thái Bình về phía Đông, Nam Định về phía Đông Nam, Ninh Bình về phía Nam và Hoà Bình về phía Tây (Hình 1). Địa hình Hà Nam thấp dần từ tây sang đông. Đồi núi tập trung ở phía tây, đồng bằng ở phía đông. Các dòng sông chính ở Hà Nam là sông Đáy, sông Nhuệ, sông Châu và sông Hồng.



Hà Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa đông lạnh, khô hanh. Hướng gió thịnh hành là gió Đông Bắc về mùa Đông, gió Tây Nam về mùa hè, số giờ nắng trong năm khoảng 1.369 giờ nắng. Nhiệt độ trung bình năm 24,180C, nhiệt độ cao nhất lên đến 29,60 C. Chế độ mưa ở Hà Nam thay đổi nhiều trong năm, mưa tập trung vào mùa hè (mùa mưa) bắt đầu từ tháng 5 kéo dài đến tháng 9, tổng lượng mưa trung bình năm là 1510,3 mm. Độ ẩm trung bình ở Hà Nam khoảng 79 - 90% cũng như nhiều khu vực khác ở Đồng bằng sông Hồng, độ ẩm cao nhất đạt khoảng 90%.



Hình 1. Vị trí tỉnh Hà Nam

Tỉnh Hà Nam có nguồn tài nguyên đá vôi lớn với trữ lượng khoảng hơn 7 tỷ m3 tập trung ở hai huyện Kim Bảng và Thanh Liêm. Trong đó có khoảng 5.709,78 triệu tấn đã được đánh giá trữ lượng và chất lượng (đá vôi xi măng có 4.193,59 triệu tấn, đá vôi cho hoá chất có 426,20 triệu tấn, đá vôi xây dựng có 1.089,99 triệu m3).

Về hành chính, Hà Nam bao gồm 1 thị xã và 5 huyện là Phủ Lý, Bình Lục, Duy Tiên, Kim Bảng, Lý Nhân và Thanh Liêm. Theo thống kê năm 2006, Hà Nam có diện tích tự nhiên 849,5 km², dân số 811.126 người với mật độ 941 người/km².

Với vị trí chiến lược gần thủ đô Hà Nội, địa hình đa dạng bao gồm cả núi, sông, đồng bằng, hệ thống giao thông thủy, bộ, sắt trải rộng, nguồn lao động dồi dào, Hà Nam đã thực sự trở thành một địa bàn hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trung tâm tỉnh nằm trên trục đường Quốc lộ 1A, đường sắt Bắc - Nam chạy qua và một số tuyến đường liên tỉnh khác như QL 21A, 21B, ... tạo cho tỉnh có sự thuận lợi về giao lưu kinh tế văn hoá với các tỉnh khác và đặc biệt với thủ đô Hà Nội. Đó là tiền đề cơ bản thuận lợi để tỉnh đẩy mạnh công nghiệp hoá và đô thị hoá theo hướng phát triển bền vững.

3. Đặc điểm của phát triển đô thị ở Hà Nam

Nhờ chính sách đổi mới kinh tế, khuyến khích đầu tư của trung ương và địa phương, trong những năm gần đây, quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá ở Hà Nam đã đạt được nhiều thành tích nổi bật. Sự phát triển đô thị được thể hiện rõ ở sự hình thành và phát triển các thị xã, thị trấn với vai trò trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và huyện. Đó là thị xã Phủ Lý, thị trấn Hoà Mạc (thủ phủ huyện Duy Tiên), thị trấn Đồng Văn (huyện Duy Tiên), thị trấn Kiện Khê (huyện Thanh Liêm), thị trấn Bình Mỹ (huyện Bình Lục), thị trấn Quế (huyện Kim Bảng) và thị trấn Vĩnh Trụ (huyện Lý Nhân) (Hình 2).





Hình 2. Phân bố đô thị ở Hà Nam

Thị xã Phủ Lý là thủ phủ của tỉnh. Sự phát triển của đô thị này đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Phủ Lý đã từng thuộc tỉnh Nam Hà (1965-1975, 1991-1996) và Hà Nam Ninh (1975-1991). Thị xã đã được đổi tên thành thị xã Hà Nam, bị tàn phá bởi chiến tranh, được xây dựng lại sau hoà bình và được tái lập ngày 9/4/1981 với 4 phường: Lương Khánh Thiện, Minh Khai, Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo. Ngày 1 tháng 1 năm 2007, thị xã đã chính thức trở thành đô thị loại III. Dự kiến trong năm 2008, Thị xã Phủ Lý sẽ được nâng cấp lên thị xã. Đó là những mốc son trong sự phát triển đô thị ở Hà Nam nói chung và ở Phủ Lý nói riêng.

Trong quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá ở Hà Nam, các khu công nghiệp, khu đô thị, các phường mới được hình thành trên đất nông nghiệp. Khu đô thị mới Nam Trần Hưng Đạo tại Thị xã. Phủ Lý là một ví dụ. Trong các đô thị, nhiều khu dân cư, đường phố, công sở, trường học, bệnh viện, khách sạn, nhà văn hoá đã được xây dựng mới và chỉnh trang. Cả tỉnh đã trở thành một công trường lớn. Tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá của tỉnh ngày càng tăng cùng với sự phát triển chung của cả nước.

Tuy nhiên, các đô thị ở Hà Nam vẫn còn nhỏ bé, thuộc loại III, IV và V. Trong cơ cấu dân số của tỉnh, số dân sống ở nông thôn vẫn chiếm đa số là 742.660 người (91,5%), số dân ở khu vực đô thị chỉ có 68.466 người (8,5%).



Trong 10 năm từ 1995 đến 2005 số dân thành thị ở Hà Nam đã tăng từ 56 lên 80 nghìn người (Hình 3).



Hình 3. Sự tăng dân số đô thị ở Hà Nam

Đáng lưu ý là sự phát triển đô thị ở Hà Nam đã, đang và sẽ diễn ra mạnh ở các khu vực đông dân cư, đặc biệt là các xã dọc đường quốc lộ, tỉnh lộ và ở các làng nghề truyền thống. Do vậy, việc quy hoạch, tổ chức không gian để phát triển các khu đô thị mới cần phải được xem xét kỹ lưỡng bảo đảm sự hài hoà giữa phát triển công nông nghiệp, phát triển đô thị và bảo vệ cảnh quan môi trường.

Sự hình thành các khu công nghiệp tập trung, các cụm công nghiệp, làng nghề là một động lực quan trọng làm gia tăng tốc độ đô thị hoá trong tỉnh. Tỉnh đã triển khai quy hoạch các khu và cụm công nghiệp tập trung như khu công nghiệp Đồng Văn, khu công nghiệp Châu Sơn, khu công nghiệp vật liệu xây dựng (Cụm Bút Sơn - Kim Bảng, Kiện Khê), cụm công nghiệp thị xã Phủ Lý và vùng phụ cận, các cụm công nghiệp dọc đường quốc lộ 1A, 21A, 21B, 38 VI, các cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp huyện và cụm tiểu thủ công nghiệp làng nghề xã.

Đô thị hoá làm tăng dòng người di cư chính thức từ nông thôn ra thành thị, làm tăng nhu cầu về nhà ở và vệ sinh môi trường đô thị. Tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt khu vực đô thị tăng dần từ năm 2002 đến 2005. Ô nhiễm nước mặt nghiêm trọng đã xuất hiện tại một số khu vực do các nguồn nước thải từ hoạt động công nghiệp, làng nghề. Ô nhiễm As trong nước ngầm ở tỉnh Hà Nam đang được các cấp quan tâm mạnh mẽ do ảnh hưởng trực tiếp của nó đến hoạt động cung cấp nước sinh hoạt cho nhân dân. Một thách thức lớn đối với phát triển đô thị ở Hà Nam là làm sao kiểm soát được ô nhiễm môi trường để bảo vệ các lưu vực sông trên địa bàn tỉnh (sông Nhuệ, sông Đáy, sông Châu) khỏi bị ô nhiễm. Điều đó đòi hỏi sự hợp tác với các tỉnh ở thượng lưu.



Ô nhiễm bụi xảy ra ở hầu hết các đô thị trong tỉnh. Các khu dân cư nằm dọc đường chính đều bị ảnh hưởng mạnh. Đi kèm với ô nhiễm không khí là ô nhiễm tiếng ồn. Ô nhiễm tiếng ồn đang là mối quan tâm hàng đầu tại các đô thị mới phát triển, do hoạt động giao thông vận tải, xây dựng và sản xuất công nghiệp chưa được quy hoạch một cách hoàn chỉnh. Do vậy, một quy hoạch cụ thể và hợp lý, gắn kết các yếu tố môi trường là điều cần thiết cho sự phát triển của một đô thị mới.

Với những ảnh hưởng nghiêm trọng từ quá trình đô thị hoá đến các yếu tố môi trường đất, nước, không khí và tiếng ồn, việc quan tâm đúng đắn và hợp lý đến yếu tố môi trường trong hoạt động quy hoạch đô thị là rất cần thiết.

Theo thống kê năm 2006, 91,5% dân số Hà Nam sống ở khu vực nông thôn và 8,5% sống ở khu vực đô thị. Đói nghèo đô thị đã trở thành một hiện tượng đáng quan tâm, cho dù đa số người nghèo ở Hà Nam là nông dân. Tại Hà Nam không có nhiều khu nhà ổ chuột, đặc trưng cho đói nghèo đô thị như ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, song có thể dễ dàng nhận biết các khu nghèo đô thị nằm xen kẽ trong các phường, xã, gần các khu công nghiệp tập trung hay các cụm công nghiệp mới hình thành với hạ tầng kỹ thuật và xã hội còn yếu kém. Hiện tượng đói nghèo có thể gặp ở tất cả các đô thị trong tỉnh. Tuy nhiên, biểu hiện của đói nghèo đô thị được thấy rõ nhất ở thị xã Phủ Lý, đô thị lớn nhất tỉnh. Tỷ lệ nghèo ở thị xã Phủ Lý đã giảm từ 5,8% năm 2006 xuống 4,7% năm 2007. Các điểm nóng về môi trường và nghèo ở thị xã Phủ Lý được thấy ở phường Hai Bà Trưng (khu vực hồ chùa Bầu), phường Lương Khánh Thiện, phường Lê Hồng Phong, và xã Phù Vân (xóm nghèo Lê Lợi ở ngã ba sông Đáy và sông Nhuệ).

Cùng với quá trình đô thị hoá, đói nghèo đô thị ở Hà Nam sẽ gia tăng, gây lo ngại, bất ổn, làm ảnh hưởng đến diện mạo đô thị. Thách thức này chỉ có thể giảm bớt, giải quyết được bằng cách lồng ghép nhiều công cụ, chính sách đồng bộ nâng cao hiệu quả quy hoạch và quản lý môi trường đô thị với sự tham gia của nhà nước và cộng đồng địa phương. Cụ thể, cần đẩy mạnh công tác quy hoạch xây dựng nhằm nâng cấp, cải thiện điều kiện sống ở các khu nghèo đô thị ở Hà Nam theo hướng phát triển bền vững.

Phát triển đô thị ở Hà Nam cần nhiều nguồn đầu tư nước ngoài và trong nước. Nó cần được quy hoạch và quản lý tốt. Tháng 3/2008, tỉnh đã công bố đề án quy hoạch định hướng sử dụng đất xây dựng phát triển các khu công nghiệp (KCN), khu đô thị và dịch vụ trên địa bàn đến năm 2015 và tầm nhìn năm 2020. Theo đề án, đến năm 2015 tỉnh Hà Nam sẽ xây dựng và phát triển 16 KCN và 8 khu đô thị, dịch vụ với tổng diện tích đất sử dụng 12.895ha, tăng gấp khoảng hơn 10 lần so với tổng diện tích đất đang dành cho xây dựng các KCN trên địa bàn hiện nay. Trong đó tập trung nhiều ở các huyện Duy Tiên, Kim Bảng và Thanh Liêm. Ưu tiên trong thu hút đầu tư vào phát triển công nghiệp, đô thị và dịch vụ trong thời gian tới sẽ tập trung vào các ngành nghề sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, thân thiện với môi trường... nhằm từng bước nâng cao và nhanh hơn nữa tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp và dịch vụ trong tổng giá trị sản phẩm (GDP) của tỉnh.

Đối với thị xã Phủ Lý, các điều chỉnh quy hoạch đã được tiến hành vào năm 1997 và 2003. Quy hoạch chung Phủ Lý đến năm 2020 đã được phê duyệt (Viện Quy hoạch Đô thị Nông thôn, 2003). Một số phường ở Phủ Lý đã có quy hoạch chi tiết. Năm 2008, thị xã Phủ Lý được kỳ vọng nâng cấp lên đô thị loại III – ranh giới đô thị và quy hoạch sẽ được tiếp tục điều chỉnh.

Có thể nói nhu cầu quy hoạch và điều chỉnh quy hoạch phát triển đô thị ở Hà Nam là rất lớn do vẫn còn các khu vực chưa có quy hoạch như khu vực ráp ranh giữa huyện Duy Tiên và thị xã Phủ Lý, các khu đất trống nhỏ hẹp xen kẽ trong khu dân cư và do tốc độ công nghiệp hoá nhanh. Khó khăn lớn trong quy hoạch và quản lý xây dựng ở Hà Nam là thiếu kinh phí để lập quy hoạch chi tiết, đặc biệt ở các thị trấn. Những khó khăn khác liên quan đến thiếu nhân sự, năng lực thu thập, quản lý và phân tích dữ liệu, hồ sơ quy hoạch bằng máy tính nói chung và hệ thông tin địa lý (GIS) nói riêng.

Là công cụ tích hợp, GIS đã được ứng dụng rộng rãi trong quy hoạch và quản lý đô thị ở nhiều nước trên thế giới (Huxhold, 1991; Pauleit and Duhme, 2000; Yaakup et al., 2002; Choudhury and Ghatak, 2003; Ghose et all. 2003; Muthusamy et all, 2003; Matejicek, 2005; Saito et all. 2005; ESRI, 2006). Tuy nhiên, ở Việt Nam nói chung và ở Hà Nam nói riêng, việc sử dụng GIS trong quy hoạch và quản lý đô thị còn rất hạn chế. Để nâng cao hiệu quả quy hoạch và quản lý đô thị vì sự phát triển bền vững ở Hà Nam, cần đẩy mạnh ứng dụng GIS trong xây dựng, bảo trì, cập nhật và khai thác cơ sở dữ liệu không gian và thuộc tính một cách hiệu quả. Điều đó đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt từ các nhà khoa học và quản lý.

Nhìn chung, sau hơn 10 năm tái lập, Hà Nam, một tỉnh nhỏ về diện tích tự nhiên, với hơn 90% dân số sống bằng nghề nông, đã lập được nhiều thành tích trong phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hoá và đô thị hoá. Với định hướng chung phát triển Hà Nam thành một tỉnh đô thị và phát triển công nghiệp, bức tranh đô thị ở Hà Nam đã có nhiều khởi sắc. Đô thị ở Hà Nam đã phát triển theo cả chiều rộng và chiều cao. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt được, những thuận lợi, quá trình phát triển đô thị ở Hà Nam còn gặp phải nhiều vấn đề cần giải quyết như sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo, cấp nước sạch, thoát nước, nhà ở, tắc nghẽn, tai nạn giao thông, bệnh dịch, úng ngập, ô nhiễm môi trường. Để phát triển bền vững, công tác quy hoạch và quản lý xây dựng đô thị ở Hà Nam trong những năm tới cần phải được cải thiện với sự hỗ trợ của các cơ quan ban ngành ở trung ương, tỉnh, huyện, của khu vực tư nhân và của cả cộng đồng.

4. Kết luận

Tỉnh Hà Nam có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển đô thị. Phát triển đô thị ở Hà Nam đóng vai trò tích cực trong sự phát triển chung của tỉnh và của vùng Hà Nội. Nó cũng tạo ra một cửa sổ để hiểu quá trình đô thị hoá ở châu thổ sông Hồng.

Trong những năm gần đây, Hà Nam đã thu được những kết quả nổi bật trong công nghiệp hoá và đô thị hoá. Tuy nhiên, hệ thống đô thị của Hà Nam vẫn còn nhỏ bé và nghèo. Để phát triển đô thị bền vững ở Hà Nam, cần đạt được sự hài hoà giữa phát triển và bảo vệ môi trường bằng cách lồng ghép các xem xét kinh tế, xã hội và môi trường vào trong quy hoạch và quản lý xây dựng đô thị.

Tương lai của đô thị Hà Nam phụ thuộc vào việc quy hoạch và quản lý thực hiện quy hoạch. Trong nỗ lực đó, các công nghệ thông tin không gian như viễn thám, GIS và GPS sẽ có những đóng góp quan trọng.



TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Choudhury, S., Ghatak, T., Urban governance through people’s participation and micro planning with the use of Geographical Information System by Kolkata metropolitan development authority, Map India, 2003.

  2. ESRI, GIS solutions for urban and regional planning, 2006

  3. Huxhold, W. E., An Introduction to Urban Geographic Information Systems, Oxford University Press, 1991.

  4. Viện Quy hoạch Đô thị Nông thôn, Thuyết minh tổng hợp Điều chỉnh quy hoạch chung Thị xã Phủ Lý-tỉnh Hà Nam đến năm 2020, 2003.

  5. Matejicek, L., Spatial modelling of air pollution in urban areas with GIS: a case study on integrated database development, Advances in Geosciences, 4, 2005, p. 63–68.

  6. Muthusamy, N. and Ramalingam, M., Environmental impact assessment for urban planning and development using GIS, Proceedings of the Third International Conference on Environment and Health, 2003, p. 290 – 299.

  7. Pauleit, S., Duhme, F. GIS assessment of Munich’s urban forest structure for urban planning, Journal of Arboriculture 26(3), 2000

  8. Saito, K., Chiba, S., and Shinozaki, M., Development of GIS Educational Tools for Urban Planning Using Free and Open Source Software, 8th International Conference of the Asian Planning Schools Association, 2005.

  9. Yaakup, A., Sulaiman, S., Musa, N., Ahmad, M.J., and Ibrahim, M.Z., GIS as tools for monitoring the urban development in metropolitan region: A case of Llang Valley Region, Peninsular Malaysia, Proceedings of GISDECO, 2002.





T¸C §éNG CñA §¤ THÞ HãA §ÕN H×NH THøC Cè KÕT CéNG §åNG N¤NG D¢N HIÖN NAY
[Nghiªn cøu tr­êng hîp H¶i D­¬ng]

P



KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO QUOÁC TEÁ VIEÄT NAM HOÏC LAÀN THÖÙ BA

TIEÅU BAN ÑOÂ THÒ VAØ ÑOÂ THÒ HOAÙÙ





GS.TS Vũ Hào Quang*


1. Đặt vấn đề

Quá trình đô thị hoá tác động mạnh đến cơ cấu lao động, nghề nghiệp, việc làm, dân số cũng như cách thức tổ chức xã hội của xã hội nông thôn. Dưới tác động của đô thị hoá với những đặc trưng cơ bản của nó là diện tích đất canh tác nông nghiệp giảm dần để nhường chỗ cho những khu công nghiệp, khu chế xuất, dịch vụ... Dưới áp lực của đô thị hoá, người nông dân buộc phải tăng năng suất lao động bằng cách áp dụng các công nghệ và kỹ thuật mới trong sản xuất nông nghiệp hoặc chuyển đổi nghề nghiệp để phù hợp với phương thức sản xuất mới. Sản xuất hàng hoá là một khái niệm hoàn toàn mới đối với người nông dân. Để thích ứng một cách tự nhiên với nền kinh tế thị trường người nông dân đã thay đổi một số tập quán sản xuất và sinh hoạt. Mạng lưới xã hội được mở rộng dần theo các quan hệ xã hội của họ. Trong mạng lưới quan hệ xã hội đó, con người gắn kết với nhau trên quan hệ nghề nghiệp, quan hệ lợi ích, quan hệ làng xã và quan hệ dòng họ.

Để nghiên cứu tính cố kết cộng đồng ở nông thôn dưới tác động của quá trình đô thị hoá, chúng tôi đã tiến hành điều tra 1218 mẫu tại 4 xã thuộc 2 huyện Chí Linh và Cẩm Giàng thuộc tỉnh Hải Dương. Đồng thời chúng tôi đã thực hiện 20 cuộc phỏng vấn sâu và 12 cuộc thảo luận nhóm tập trung, cùng với việc phân tích tư liệu do các xã tại địa bàn nghiên cứu cung cấp.401

Tỉnh Hải Dương thuộc đồng bằng Bắc Bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc của Tổ quốc. Hải Dương có vị trí địa lý thuận lợi cho việc giao thương, liên lạc do tiếp giáp với các tỉnh thành lớn trong cả nước. Hải Dương cách thủ đô Hà Nội 60 km về phía Tây, cách cảng Hải Phòng 45 km về phía Đông.

Dân số trung bình tỉnh Hải Dương tính đến năm 2006 là 1. 722. 500 người với mật độ dân số tăng lên hàng năm từ 1022 người/km² (năm 2003) tăng lên 1042 năm 2006. Hải Dương có nguồn lao động dồi dào, năm 2002, lực lượng lao động trong độ tuổi lao động có gần 92 vạn người, chiếm 54,6% dân số trong tỉnh, lao động trong độ tuổi từ 18 - 30 chiếm 40% tổng số lao động. Tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 19 - 20%, lao động phổ thông có trình độ văn hoá trung học phổ thông chiếm 60 – 65%.

2. Sơ lược về tình hình đô thị hoá ở Hải Dương

Hải Dương, một tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng, có tốc độ đô thị hoá nhanh. Nhiều nhà máy xí nghiệp đã được xây dựng ở đây. Tính đến hết năm 2004, diện tích đất thu hồi dành cho phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng của cả tỉnh đã chiếm tới 59,66% tổng diện tích người dân đang sử dụng402. Cụ thể, tại huyện Kim Thành đất thu hồi chiếm 78,43%, thành phố Hải Dương: 69,44%, huyện Chí Linh: 55,57%, huyện Cẩm Giàng: 47,62%, huyện Nam Sách: 35,13%, huyện Bình Giang: 33,24%. Chúng tôi đã chọn huyện Chí Linh và Cẩm Giàng để nghiên cứu vì hai huyện này có tốc độ đô thị hoá ở mức khá mạnh so với các huyện khác trong toàn tỉnh Hải Dương.

Tình hình thu hồi đất dẫn tới hệ quả là thiếu việc làm hoặc mất việc làm của một bộ phận dân cư ở Hải Dương. Tình hình này đã được thể hiện trong bảng 1 dưới đây.

Bảng 1: Tình trạng việc làm của lực lượng lao động sau khi bị thu hồi đất
(% số người ở độ tuổi lao động)


STT

Địa phương

Đủ việc làm (%)

Thiếu việc làm (%)

Chưa có việc làm
(%)


1

Thành phố Hải Dương

48, 55

38, 74

12, 71

2

Huyện Cẩm Giàng

65, 24

15, 10

19, 66

3

Huyện Bình Giang

76, 97

20, 91

2, 12

4

Huyện Nam Sách

35, 36

48, 95

15, 69

5

Huyện Kim Thành

53, 47

34, 93

11, 60

6

Huyện Chí Linh

21, 93

48, 18

29, 89

7

Chung

49, 62

35, 80

14, 58

Nguồn: Sở Lao động Thương binh - Xã hội tỉnh Hải Dương

Nhìn vào bảng 1 ta thấy, huyện Chí Linh là huyện thiếu việc làm và chưa có việc làm với tỷ lệ cao nhất. Chỉ có 21,93% số dân của huyện này có việc làm. Trong khi đó huyện Cẩm Giàng là huyện có diện tích đất bị thu hồi cũng tương đương với huyện Chí Linh (ở mức trung bình so với các huyện trong tỉnh Hải Dương) thì số người có việc làm lại chiếm tỷ lệ cao (65, 24%). Huyện Bình Giang là huyện có quá trình đô thị hoá chậm nhất trong tỉnh thì lại có tỷ lệ những người có việc làm cao nhất. Như vậy tỷ lệ những người có việc làm và không có việc làm không hoàn toàn lệ thuộc vào quá trình đô thị hoá nhanh hay chậm tại các địa phương mà còn phụ thuộc vào một số nhân tố khác nữa. Nhân tố đó liên quan tới tập quán lao động hay nói rộng ra là tiểu văn hoá của các huyện hay các xã thuộc tỉnh Hải Dương. Chúng ta có thể so sánh tập quán sản xuất, tiêu dùng của 3 khu vực dân cư nơi diễn ra đô thị hoá với những mức độ khác nhau (Bảng 2).



Bảng 2: Tình hình sử dụng tiền đền bù đất nông nghiệp của các hộ gia đình (%)

STT

Tình hình sử dụng tiền đền bù

TP. Hải Dương

Huyện Cẩm Giàng

Huyện Nam Sách

Chung

1

Đầu tư sản xuất kinh doanh nông nghiệp

2, 76

1, 57

0, 02

1, 45

2

Đầu tư sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp

39, 04

38, 08

35, 35

37, 49

3

Học nghề

7, 47

2, 86

15, 74

8, 69

4

Mua đồ dùng sinh hoạt

4, 43

14, 50

19, 36

12, 76

5

Xây dựng hoặc sửa chữa nhà cửa

18, 22

24, 22

20, 63

21, 02

6

Khác

28, 08

18, 77

8, 90

18, 59

7

Tổng

100.00

100.00

100.00

100.00

Nhìn vào bảng 2 ta thấy, người dân ở cả 3 khu vực đầu tư cho sản xuất kinh doanh nông nghiệp đều rất thấp. Người dân thành phố Hải Dương đầu tư cho kinh doanh nông nghiệp là 2,76% số tiền được đền bù do bị thu hồi đất nông nghiệp. Trong khi đó người dân huyện Cẩm Giàng chỉ đầu tư cho lĩnh vực này là 1,57% và người dân huyện Nam Sách là 0,02%. Trong khi đó tỷ lệ đầu tư cho sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp của cả 3 địa phương nói trên là tương tự như nhau (tỷ lệ tương ứng là 39,4%; 38,08%; 35,35%). Sở dĩ việc đầu tư cho kinh doanh lĩnh vực phi nông nghiệp ở 3 địa phương nêu trên là tương đương bởi vì nhận thức của người dân về nhu cầu cho sản xuất thuộc lĩnh vực phi nông nghiệp tại các địa phương đều tương tự như nhau. Đối với việc xây dựng nhà cửa, chúng tôi cũng thấy sự tương đồng đáng kể về mặt chi phí. Tuy nhiên người dân huyện Cẩm Giàng chi phí (24, 22%) cho việc xây dựng nhà cửa nhiều hơn người dân thành phố Hải Dương (18, 22%) và huyện Nam Sách (20,63%). Trong khi đó việc chi phí cho học nghề lại chiếm một tỷ lệ khá nhỏ. Điều này cho thấy việc tính toán làm ăn lâu dài với một nghề mới sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp là chưa cấp thiết đối với người dân. Tâm lý sản xuất nhỏ và các tập quán sản xuất theo truyền thống vẫn còn khá rõ nét trong người nông dân Hải Dương.

3. Đô thị hoá là một nhân tố tạo ra tính cố kết mới trong quá trình chuyển đổi nghề nghiệp

Nghiên cứu chọn mẫu tại các huyện Chí Linh và Cẩm Giàng cho thấy, gần nửa số hộ đã có sự chuyển đổi nghề nghiệp dưới tác động của đô thị hoá và tích tụ ruộng đất tại địa phương. Trong đó có 25% số hộ có một người chuyển việc làm trong 3 năm gần đây; 14% số hộ có 2 người chuyển việc làm; 4,8% số hộ có 3 người trở lên chuyển việc làm. Còn lại 56,2% số hộ vẫn chưa chuyển đổi nghề nghiệp. Phỏng vấn sâu cho thấy, các hộ phải chuyển việc làm chủ yếu do thiếu đất canh tác và canh tác nông nghiệp không hiệu quả. Sản phẩm nông nghiệp có giá trị thấp, người nông dân sản xuất một vụ lúa chỉ lãi có 70.000đ/sào. Do đó họ không thể bù lỗ cho sức lao động bỏ ra trong vòng 6 tháng sản xuất trên 1 sào lúa đó. Nếu tính trong 4 xã được khảo sát, vẫn còn khoảng 63,1% số hộ không bị mất đất nông nghiệp. Nói cách khác tỷ lệ những hộ mất đất nông nghiệp phản ánh mức độ đô thị hoá ở 4 xã nói trên. Số hộ thuần tuý làm nông nghiệp chiếm 65,6%; làm nghề hỗn hợp chiếm 32,1%; số hộ làm nghề kinh doanh dịch vụ hoàn toàn (phi nông nghiệp) chỉ chiếm có 2,3%. Số liệu trên cho thấy có mối liên hệ rõ ràng giữa đất đai và nghề nghiệp. Số hộ thuần nông chiếm 65,6% cũng gần tương ứng với số hộ không bị mất đất nông nghiệp là 63,1%. Sở dĩ có sự chênh lệch khoảng 2% là do số hộ có bị mất đất, tuy nhiên chưa bị mất hết đất sản xuất, trong khi họ chưa chuyển đổi được nghề nghiệp nên vẫn phải chấp nhận làm nông nghiệp thuần tuý mà chưa có nghề làm thêm khác. Những người không có thêm nghề phụ, thường phải bán sức lao động của mình bằng các hình thức làm thuê làm mướn để tăng thêm thu nhập cho gia đình. Tính cố kết cộng đồng dựa trên quan hệ lợi ích đã chi phối mạnh cách ứng xử của người nông dân. Người nông dân thuần nông thường tận dụng các quan hệ tình cảm làng xóm để xin việc làm thêm để tăng thêm thu nhập cho gia đình vào những ngày nông nhàn. Họ có thể vào thành phố để làm thuê hoặc làm thuê cho các chủ trang trại, các xí nghiệp, doanh nghiệp tại địa phương. Có nhiều nhóm kết hợp với nhau một cách tạm thời để cùng đi làm thuê như nhóm thợ xây dựng, nhóm thợ mộc hay nhóm hàng rong...

Một nhân tố rất quan trọng đối với việc chuyển đổi nghề nông đó là nhân tố hiệu quả của sản xuất nông nghiệp. Làm nông nghiệp nhàn hơn trước đây vì bây giờ đã được cơ giới hoá, tuy nhiên, sản phẩm nông nghiệp có giá trị thấp, khó bán và rủi ro cao do thiên tai bệnh dịch. Vì thế nhiều hộ đã bỏ đất nông nghiệp hoặc cho bà con thuê lại để lấy tiền chênh lệch hoặc thuê người khác làm thay. Cuộc phỏng vấn sâu dưới đây phần nào làm rõ điều đó.

Làm ruộng bây giờ nhàn hơn trước, thuê gần hết. Cày thì bằng máy. Trâu bò có nuôi thì chỉ dùng để thịt. Nếu tính ra chi ly thì thu nhập từ ruộng là không có. Người ta đi làm ngoài để lấy tiền chi vào việc thuê mướn. Bởi thu nhập ngoài cao hơn: ví dụ đi xây, ngày công 40 - 50 nghìn/công. Cho nên họ thuê lại người làm.(Trích PVS, Nam, 44 tuổi, Cựu chiến binh, xã Cộng Hoà, Chí Linh).

Mặc dù quá trình đô thị hoá diễn ra khá mạnh mẽ ở Hải Dương nhưng trên thực tế chỉ có 4,8% số hộ hoàn toàn không còn đất nông nghiệp khi họ đang sống giữa nông thôn. Bình quân mỗi gia đình có 3,1 con với hơn 5 khẩu ăn trong khi đó thu nhập bình quân 3,59 triệu/đầu người/năm, không thể chỉ trông chờ vào nguồn nông nghiệp thuần tuý. Do đó việc chuyển đổi từ nghề thuần nông sang hỗn hợp và phi nông là xu hướng tất yếu. Tuy nhiên hiện nay vẫn có tới 65,6% số người nông dân chỉ làm một nghề thuần nông. Quá trình chuyển đổi nghề diễn ra khá chậm chạp là do tập quán sản xuất nông nghiệp đã níu kéo họ. Chỉ có một số ít nông dân dám từ bỏ nghề nông để chuyển hẳn sang nghề phi nông. Ở làng làm nghề mộc thuộc xã Cẩm Phúc, huyện Cẩm Giàng, chủ doanh nghiệp thuê thợ chủ yếu là những người trong làng để vừa dễ đàm phán về lương thợ vừa đảm bảo độ tin cậy trong quan hệ sản xuất do có mối quen biết nhau trong làng xóm. Trong cuộc thảo luận nhóm làm nghề mộc tại thôn Lê Xá, Xã Cẩm Phúc, một chủ xưởng nói:



Nhà em mở xưởng gỗ từ lâu, em làm nghề từ năm 18 tuổi, năm nay đã là 42. Mới đầu chỉ bắt chước làm, đi học việc. Sau tự làm lấy, dần dần thuê thêm 1- 2 người bà con. Em mở xưởng to vào năm 2000, năm 2003 được cấp đất đấu thầu này, dựng xưởng. Năm 2003 có gần 100 lao động làm gia công cho em, ở nhiều nơi nhưng nhiều người từ trong làng vì quen biết và nể nang tình xóm thôn. Trích thảo luận nhóm.

Tóm lại, ở Hải Dương quá trình đô thị hoá đang diễn ra khá mạnh. Yếu tố đô thị hoá tác động mạnh nhất đến xã hội nông thôn đó là việc thu hồi đất đai nông nghiệp để phát triển công nghiệp, dịch vụ, thương mại. Đất nông nghiệp đang bị giảm mạnh từ năm 2000 đến 2005 và tiếp tục giảm mạnh đến năm 2010. Đến năm 2006, đã có 36% số hộ bị mất đất nông nghiệp (có 4,8% số hộ hoàn toàn không có đất nông nghiệp) do quá trình đô thị hoá và tích tụ ruộng đất. Đất chuyên dùng tăng lên, đất ở cũng tăng lên là bằng chứng của đô thị hoá ở nông thôn. Nguồn dự trữ đất tự nhiên giảm đi chứng tỏ sự khai thác đất đai vào mục đích sản xuất và sinh sống ngày càng tăng lên. Điều đó cũng đồng thời là dấu hiệu cảnh báo về an ninh lương thực và an ninh tự nhiên đối với môi trường sống. Vì mất đất sản xuất nên người dân buộc phải chuyển đổi nghề nghiệp để sống. Tuy nhiên số người làm thuần nông vẫn còn khá cao (65,6%), số người làm nghề phi nông (thuần tuý kinh doanh, dịch vụ) chiếm tỷ lệ nhỏ (2,3%), số người làm nghề hỗn hợp chiếm 32,1%. Vì thế mức thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn chỉ đạt khoảng 3,9 triệu/năm (Tính tại thời điểm điều tra tháng 5 và tháng 6 năm 2006). Số người thiếu việc làm ngày càng tăng do đó họ phải di cư mùa vụ vào các khu đô thị để làm bất kỳ việc gì để có thu nhập nhằm tồn tại. Trong quá trình đó nhiều mối quan hệ xã hội mới được thiết lập dựa trên các quan hệ truyền thống như: quan hệ đồng hương, quan hệ họ hàng, quan hệ bạn hàng hay bạn nghề. Do quá trình đô thị hoá với tư cách là một trong những nhân tố rất quan trọng tạo ra các quan hệ xã hội mới, tính cố kết cộng đồng mới ở nông thôn.



4. Tính cố kết cộng đồng trong quá trình áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất

Các nhân tố của quá trình đô thị hoá như sự gia tăng của các khu công nghiệp, các khu chế xuất thương mại đã làm giảm đất canh tác nông nghiệp. Các nhân tố tiến bộ của kỹ thuật và của khoa học công nghệ cũng tác động mạnh đến hệ thống cấu trúc nghề nghiệp ở nông thôn. Việc sử dụng sức lao động hay cơ giới hoá trong quá trình sản xuất kinh doanh là một trong những dấu hiệu đánh giá sự tác động của khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất ở nông thôn dẫn tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. Hiện nay, về cơ bản tại Hải Dương, quá trình sản xuất đã được nửa cơ giới hoá và có nhiều quy trình đã được cơ bản cơ giới hoá như khâu làm đất. Đối với những người thuần tuý làm nông nghiệp đã có tới 76,2% cơ giới hoá và nửa cơ giới. Do đó số nhân công dư thừa ở nông thôn là khá lớn. Số người này di cư vào các khu vực đô thị hoặc các khu công nghiệp để làm thuê.



Bảng 3: Tương quan nghề nghiệp ở nông thôn/ công cụ sản xuất (%)

Nghề nghiệp

Công cụ

sản xuất

Thuần

nông

Thuần kinh doanh, dịch vụ

Hỗn

hợp

Tổng

Hoàn toàn cơ giới

31,0

14,4

0,4

45,8

Cơ giới hoá một nửa

45,2

19,6

0,6

65,4

Cả sức người lẫn sức vật

7,3

1,8

0,0

9,1

Sử dụng giống mới

57,5

25,0

0,9

83,4

Việc người dân chủ động áp dụng khoa học công nghệ và giống mới có năng suất cao chủ yếu dựa vào khả năng tự lập của họ là chính và có một phần hỗ trợ của chính quyền địa phương. Có tới 72,7% người làm nông nghiệp thuần tuý cho rằng họ có thay đổi nhiều trong khâu áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và 17,4% số người cho rằng, đã có thay đổi một ít trong khâu kỹ thuật sản xuất của họ. Trong khi đó đối với những hộ sản xuất hỗn hợp thì lại ít chú ý tới khâu thay đổi kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp vì đó không phải là nghề chính của họ. Những nghề kinh doanh dịch vụ thuần tuý ở nông thôn mới được hình thành, nên quy mô sản xuất còn nhỏ và kỹ thuật kinh doanh cũng ít được quan tâm. Việc xuất hiện các chủ hộ kinh doanh, dịch vụ nhỏ ở nông thôn làm xuất hiện một số các quan hệ xã hội mới. Những người kinh doanh nhỏ không có đủ vốn nên họ phải huy động vốn từ những người bà con họ hàng hoặc làng xóm từ đó xuất hiện giữa họ mối ràng buộc kinh tế. Trong quá trình sản xuất ở nông thôn hiện nay, nền kinh tế nửa thị trường nửa tự cung tự cấp dẫn tới một loại quan hệ hay cố kết “kinh tế dựa trên quan hệ tình cảm cộng đồng làng xóm”. Nhân tố kinh tế ngày càng có vai trò mạnh hơn các nhân tố khác do quy mô sản xuất kinh doanh ngày càng mở rộng cùng với các hệ thống quan hệ xã hội.

Về quan hệ giữa nhà nước và nông dân, chúng tôi nhận thấy rằng các hộ làm nghề thuần nông đánh giá sự quan tâm của nhà nước đến công việc sản xuất của họ cao hơn các hộ hỗn hợp và thuần tuý kinh doanh dịch vụ (tỷ lệ tương ứng là 31,9%; 13,2%; 0,2%). Điều đó chứng tỏ những người nghề thuần nông duy trì mô hình quan hệ sản xuất cũ rõ nét hơn các hộ có nghề phi nông hoặc hỗn hợp. Phần lớn những người sống ở khu vực nông thôn đều giống nhau ở một điểm là họ đánh giá cao vai trò của nhân tố tự học hỏi đối với việc thành công trong sản xuất kinh doanh. Có 71,8% người làm thuần nông; 63,9% làm nghề hỗn hợp và 42,9% người kinh doanh dịch vụ, tự cho rằng họ tự học hỏi ở những người khác về tri thức liên quan đến nghề nghiệp của mình. Người nông dân sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm với người hàng xóm về những tri thức khoa học kỹ thuật mà họ học được bằng nhiều con đường khác nhau như qua các lớp tập huấn của chính quyền địa phương, học trên ti vi, sách báo... Khi có kết quả họ sẵn sàng phổ biến cho bà con xóm giềng.

Tính cố kết cộng đồng thể hiện qua việc chia sẻ kinh nghiệm và giúp đỡ nhau để sản xuất với năng suất cao hơn (75,3%). Tính cạnh tranh trong sản xuất nông nghiệp hầu như chưa thể hiện rõ rệt, xu hướng chấp nhận lẫn nhau để cùng phát triển thể hiện truyền thống tình làng xóm vẫn còn khá đậm nét.

Để làm rõ sự thay đổi về kỹ thuật trồng trọt và chăn nuôi chúng tôi đã đưa ra câu hỏi “kỹ thuật trồng trọt và chăn nuôi của người dân địa phương đã thay đổi như thế nào so với 5 năm trước đây?”. Kết quả thu được thể hiện ở bảng dưới đây.



Bảng 4: Mức độ thay đổi kỹ thuật trồng trọt chăn nuôi so với 5 năm trước

Mức độ thay đổi

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Chưa thay đổi

82

6,7

Thay đổi ít

247

20,3

Thay đổi nhiều

838

68,8

Không phù hợp

51

4,2

Tổng

1218

100, 0

Số liệu bảng trên cho thấy chỉ có 6,7% cho rằng chưa có sự biến đổi nào cả, tuy nhiên, lại có tới 68,8% ý kiến cho rằng có biến đổi nhiều và 20,3% ý kiến thừa nhận có sự thay đổi. Nếu gộp 2 ý kiến đánh giá về biến đổi có tới 89,1% những người được hỏi cho rằng kỹ thuật trồng trọt và chăn nuôi có biến đổi so với 5 năm trước đây.

Những người được hỏi cho biết, nguyên nhân chính dẫn đến sự biến đổi trong kỹ thuật chăn nuôi trồng trọt là do người nông dân tự học hỏi (68,6%), do “Nhà nước quan tâm hướng dẫn” là 45,3%, do “Học được qua sách báo và phương tiện truyền thông” là 10,9% và do sự bức xúc, khó khăn để tạo ra sự biến đổi về kỹ thuật canh tác, sản xuất chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ là 7,0%.

Xét ở một bình diện khác, trong tương quan giữa nghề nghiệp chính và tác động của các nhân tố đến năng suất lao động, nhân tố sách báo, phương tiện truyền thông đại chúng tác động đến các loại nghề nghiệp ở nông thôn là khác nhau. Có 35,2% người làm nghề thuần nông cho rằng truyền thông và sách báo tác động đến kết quả sản xuất của họ. Trong khi đó, đối với người làm nghề hỗn hợp là 25,3% và nghề thuần tuý kinh doanh là 32,1%. Chương trình ti vi được nhiều người quan tâm là chương trình “Nông thôn ngày nay”, chương trình “Chào buổi sáng”, chuyên mục “Nhà nông làm giầu”. Ti vi chính là phương tiện truyền thông hữu hiệu nhất đối với người nông dân, vì thế cải tiến các nội dung truyền thông cho phù hợp với nhu cầu của người nông dân để họ nắm được kỹ thuật chăn nuôi trồng trọt, chăm sóc vật nuôi cây trồng là điều thiết thực nhất với người nông dân. Hiện nay có dư luận cho rằng các kênh truyền hình quảng bá các chương trình vui chơi giải trí quá nhiều so với chương trình dành cho nông nghiệp và phát triển nông thôn.

5. Vai trò của các nhân tố tổ chức đời sống cộng đồng

Ngoài những nhân tố nêu trên, những nhân tố tổ chức chính quyền đoàn thể cũng có tác động mạnh đến các quan hệ nghề nghiệp ở nông thôn. Tất cả những tổ chức xã hội ở nông thôn đều có vai trò nhất định trong việc tổ chức lao động sản xuất. Mặc dù người dân chưa đánh giá cao vai trò của các tổ chức chính quyền, đoàn thể nhưng họ cũng đánh giá hầu hết ở điểm số trung bình khá.



Bảng 5: Đánh giá vai trò của các nhân tố tổ chức,
quản lý đối với hoạt động sản xuất ở nông thôn (thang điểm 10)





Số lượng

Trung bình

Đoàn thanh niên

1218

6,15

UBND

1218

6,53

HĐND

1218

6,52

Mặt trận tổ quốc

1218

6,53

Hội phụ nữ

1218

6,51

Hội cựu chiến binh

1218

6,72

Hội nông dân

1218

6,91

Tổ chức dòng họ

1218

6,14

Quá trình đô thị hoá đã mang đến cho nông thôn nhiều nhân tố tích cực như cải thiện cơ bản chất lượng các khâu giao thông, điện khí hoá, xây dựng trường học, bệnh viện, trạm xá, v.v…, làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Có 92,9% số người được hỏi cho rằng đường giao thông khu vực nông thôn đã được bê tông hoá; 84,2% cho rằng trường học được nâng cấp; 66,1% cho rằng nông thôn đủ điện sinh hoạt... Đô thị hoá cũng tạo nhiều công việc mới cho nông dân tại các khu công nghiệp, dịch vụ. Tuy nhiên, do trình độ thấp, người dân chưa nắm bắt được những cơ hội đó một cách tốt nhất. Hơn nữa, hệ quả của việc thiếu đất dẫn tới thất nghiệp cũng là điều đáng lo ngại. Bên cạnh đó người dân chưa quan tâm nhiều đến vấn đề vệ sinh môi trường và công trình cấp thoát nước của các khu công nghiệp. Trên thực tế, người nông dân có nhiều bức xúc về vấn đề thủy lợi và ô nhiễm môi trường, tuy nhiên họ vẫn còn có thể chấp nhận khi chưa có sự phát hiện từ phía nhà nước hoặc truyền thông đại chúng.

Đa số những người được hỏi cho rằng đô thị hoá làm biến đổi cơ cấu xã hội và cách thức tổ chức xã hội qua các hình thức cố kết cộng đồng khác nhau, tuy nhiên các giá trị truyền thống ít bị biến đổi(3,6%), những xung đột xã hội ở nông thôn giữa các hộ gia đình cũng rất thấp (4,3%). Tuy nhiên điều này chưa nói lên điều gì về mức độ xung đột giữa người nông dân mất đất với nhà nước về việc thu hồi đất đai nếu không có đền bù thỏa đáng.



6. Cố kết thành nhóm sản xuất phi nông nghiệp để giữ đất nông nghiệp

Hiện tượng người dân một mặt vẫn giữ đất nông nghiệp do nhà nước giao cho hộ gia đình nhưng họ không trực tiếp sản xuất trên mảnh đất ấy là một mô hình tương đối phổ biến ở nông thôn Hải Dương hiện nay. Sở dĩ người nông dân bỏ ruộng để làm nghề khác là vì lý do kinh tế. Sản xuất trên mảnh ruộng rất vất vả nhưng thu nhập lại rất thấp nên người nông dân tìm các hình thức sản xuất khác để kiếm sống. Tuy nhiên người nông dân cũng chưa mạnh dạn trả ruộng cho hợp tác xã nông nghiệp (HTX) vì họ phải giữ một sợi dây bảo hiểm với nông thôn, nơi quê hương và gia đình, dòng họ, tổ tiên là giá trị tinh thần cao quí của mỗi người nông dân. Mảnh ruộng mà HTX giao cho các hộ gia đình ở nông thôn hiện nay có ý nghĩa tinh thần nhiều hơn ý nghĩa kinh tế. Thực tế một vụ lúa, người nông dân chỉ thu được 70.000đ/1sào, sau khi trừ hết chi phí sản xuất. Giữ lại mảnh ruộng là để giữ tên, giữ tuổi với quê hương xóm làng và đề phòng khi “Sa cơ lỡ vận”, vẫn còn có chỗ nương thân. Người ta có thể giữ mảnh đất nông nghiệp được giao bằng nhiều cách. Có thể làm việc khác để lấy tiền thuê khoán bà con hoặc những người không có công việc trong nông thôn làm thuê trên mảnh đất của chính mình. Hình thức người nông dân làm thuê cho người nông dân trở thành mô hình kinh tế mới ở nông thôn. Người nông dân A chấp nhận làm thuê cho người nông dân B, khi họ bị chi phối chủ yếu và ít nhất bởi 2 yếu tố đó là thù lao và quan hệ xóm giềng. Dù thù lao rất thấp nhưng vẫn giữ được quan hệ xóm giềng cho nên người có ruộng vẫn còn thuê được nhân công rẻ mạt từ nông thôn. Trên thực tế, nếu người nông dân phải thuê lao động từ làng khác hoặc xã khác, họ sẽ phải trả công cao hơn và thu nhập trên 1 sào ruộng/1 vụ có thể không còn đáng kể hoặc lỗ vốn. Mô hình này đã tạo ra một quan hệ xã hội mới giữa những người có ít vốn kinh tế và chủ yếu dựa vào quan hệ thân quen họ hàng hoặc láng giềng. Người đi làm thuê cũng sẵn sàng chấp nhận đồng tiền công thấp để được “quan hệ xóm giềng”.

Rõ ràng lý do kinh tế đã hút người lao động nông thôn vào các khu vực kinh tế phi nông nghiệp vì ở đó có thu nhập cao hơn. Tuy nhiên người nông dân vẫn giữ lại những mảnh ruộng được cấp chủ yếu là tâm lý “giữ chỗ” ở quê hương và khái niệm “Ly thân bất ly hương” là khái niệm cắt nghĩa cho loại hành vi nói trên.

7. Tính cố kết trong làng nghề và nhóm nghề

Sự hình thành các nhóm lao động làm thuê theo loại hình công việc và mùa vụ là một loại hình kinh tế mới ở một số huyện đang diễn ra quá trình đô thị hoá tương đối mạnh. Ở Hải Dương nói riêng và ở Việt Nam nói chung, các làng nghề chỉ tập trung vào một số nơi có lịch sử phát triển tương đối lâu đời. Làng nghề không những chỉ giữ vai trò kinh tế mà còn giữ chức năng biểu trưng về ý nghĩa văn hoá nghề nghiệp. Tuy nhiên dưới tác động của cơ chế thị trường sự du nhập hoặc lan truyền nghề nghiệp bị chi phối nhiều bởi lý do kinh tế. Một số người có năng lực kinh tế, tay nghề, họ tập hợp lực lượng lao động dư thừa ở nông thôn thành các nhóm nghề hoặc làng nghề. Các nhóm nghề chủ yếu nhận những người có quan hệ họ hàng, thân thiết hoặc cùng hoàn cảnh. Các nhóm lớn có xu hướng đầu tư lâu dài vào một nghề nào đó và tìm kiếm thị trường cũng như cơ hội cạnh tranh. Trong khi đó những nhóm nhỏ không có vốn chỉ biết bán sức lao động của chính mình một cách đỡ thiệt thòi nhất thông qua con đường cấu kết tạm thời với nhau. Đó là các nhóm thợ xây, nhóm thợ cấy, thợ gặt, thợ cày, thợ vườn.

“Hiện tại vấn đề giải quyết việc làm cho người nông dân còn nhiều bất cập: nhân khẩu nhiều, lao động dư thừa trong khi đất được chia lại ít. Sản xuất nông nghiệp gặp khó khăn: lao động nhiều nhưng đất thiếu, chất lượng đất xấu nên làm không đủ ăn.

- Diện tích đất nông nghiệp của toàn thôn chỉ còn vài chục mẫu. Tỷ lệ người dân mất đất hoàn toàn: 40/360 hộ.

- Từ khó khăn trong sản xuất nông nghiệp, người dân tự chuyển đổi sang làm nghề thủ công truyền thống: sản xuất đồ gỗ dân dụng (nghề mộc).

- Từ khi dân trong thôn chuyển sang nghề mộc đã giải quyết được một số khó khăn về việc làm: 65% người làng có việc làm; 30% đi làm ăn xa; 5% còn lại là người già, trẻ em.

Các nhóm nghề ở địa phương được thành lập chủ yếu dựa vào một số người có kinh tế tốt, những người đó thường mời bà con họ hàng, làng xóm tham gia đi làm thuê hoặc xây dựng các công trình theo từng nhóm. (Biên bản thảo luận nhóm tập trung tại thôn Lê Xá, Cẩm Phúc, Cẩm Giàng, Hải Dương)”.

Ở thôn Lê Xá xã Cẩm Phúc, nghề mộc được hình thành khoảng 20 năm nay, tuy nhiên những vấn đề khó khăn chủ yếu để duy trì nghề này vẫn là vốn và trình độ tay nghề và thu nhập. Làm nghề mộc hiện nay đòi hỏi những công nghệ cao để chế biến gỗ, đảm bảo sau khi xuất xưởng sản phẩm không bị cong vênh, nứt nẻ. Ngoài ra còn phải đảm bảo yếu tố mẫu mã và những kỹ xảo nghề nghiệp khác cùng với khả năng tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm. Do vậy dù là nghề mộc vẫn đòi hỏi phải có trình độ nhất định trong đó vấn đề ngoại ngữ và máy tính cũng rất quan trọng đối với việc truy cập thông tin và quảng cáo sản phẩm không những chỉ ở thị trường Việt Nam mà còn trên thị trường quốc tế. Việc sử dụng nguồn nhân công tại chỗ vừa có lợi về giá thuê vừa có lợi về quan hệ xã hội, tình làng nghĩa xóm. Người thợ thủ công vừa là người làm công vừa là người bảo vệ trung thành của các xưởng sản xuất đồ gỗ đề phòng khi tai nạn hoặc trộm cắp xảy ra. Tuy nhiên mô hình cố kết này không đảm bảo sự phát triển lâu dài khi làng nghề ngày càng cần nhiều vốn và đội ngũ lao động có tay nghề cao.



Nhà mở xưởng gỗ từ lâu, em làm nghề từ năm 18 tuổi, năm nay đã là 42. Mới đầu chỉ bắt chước làm, đi học việc. Sau tự làm lấy, dần dần thuê thêm 1- 2 người. Em mở xưởng to vào năm 2000, năm 2003 được cấp đất đấu thầu này, dựng xưởng. Năm 2003 có gần 100 lao động làm gia công cho em, họ đến từ nhiều nơi, nhưng nhiều người từ trong làng vì quen biết và nể nang tình xóm thôn. Nhưng hiện nay, em đang gặp cái khó: hôm nọ ngân hàng chỉ duyệt cho vay 600 triệu, nhưng em muốn vay nhiều, 700 triệu. Ngân hàng ép quá. Đã có lúc em phải vay ngoài, có lần vay ngoài hơn 200 triệu. Ngoài ra còn khó khăn chủ yếu là nghề nghiệp bấp bênh, không ổn định về thu nhập. Hơn nữa: máy móc đã cũ, lỗi thời; trình độ lao động thấp, không biết tiếng Anh, không thiết kế mẫu mã được trên máy tính, không đáp ứng được nhu cầu máy móc hiện đại. Mặc dù, hiện nay trong làng tổng số hộ dân làm nghề mộc là 60 hộ, về cơ bản giải quyết công ăn việc làm tại chỗ cho người dân nhưng vẫn không đủ tiền cung cấp cho con em đi học nâng cao tay nghề.

(Trích biên bản thảo luận nhóm tập trung tại thôn Lê Xá, Cẩm Phúc, Cẩm Giàng, Hải Dương)

Mô hình làng nghề là loại mô hình liên kết không mới về hình thức, tuy nhiên nó lại mới về phương thức liên kết. Trong mô hình làng nghề ở Hải Dương, nhiều hộ có thể cùng góp vốn kinh doanh một loại hàng nào đó theo thời vụ, hoặc sản xuất kinh doanh theo mô hình hộ. Mô hình làng nghề hiện nay có tính chuyên môn hoá cao hơn so với mô hình cũ. Việc phân công lao động được thực hiện theo các công đoạn và chức năng. Tuy nhiên việc sử dụng nhân công vẫn giữ nét truyền thống đó là dựa trên niềm tin lẫn nhau do có quan hệ họ hàng hay thân quen. Chủ cơ sở sản xuất đã mở rộng quan hệ ra ngoài làng xã để tìm những người có tay nghề cao và những đối tác chiến lược không chỉ trong phạm vi Việt Nam mà còn ở tầm khu vực và quốc tế.



8. Kết luận

Quá trình đô thị hoá là một trong những nhân tố tác động mạnh đến cách thức cố kết, tổ chức xã hội ở nông thôn. Do việc mất đất hoặc thiếu đất canh tác do việc nhà nước lấy đất phục vụ cho công nghiệp, dịch vụ, thương mại, người dân phải tự thích ứng với những phương thức đa dạng và khác nhau. Trong quá trình thích ứng với điều kiện sản xuất mới, người nông dân vẫn duy trì một số lợi thế của nền sản xuất nhỏ đó là tính cơ động, mềm dẻo, đơn lẻ, ít rủi ro. Đồng thời người nông dân đã biết kết hợp những nhân tố mới như khoa học kỹ thuật, cây con, giống mới có năng suất cao với kinh nghiệm sản xuất truyền thống. Mô hình cố kết trong sản xuất chủ yếu dựa vào sự đồng cảm, chia sẻ và học hỏi lẫn nhau. Nhà nước đã đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá tri thức sản xuất qua các phương tiện truyền thông đại chúng cũng như các lớp tập huấn nghiệp vụ ngắn hạn tại các cấp xã, huyện, tỉnh. Tuy nhiên các lớp tập huấn hoặc bổ túc kiến thức chưa đáp ứng một cách đầy đủ nhu cầu sản xuất của người nông dân. Đô thị hoá đã mang đến cho người nông dân những thuận lợi cơ bản như cơ giới hoá, điện khí hoá, nâng cấp các cơ sở giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Tuy nhiên đô thị hoá cũng mang lại cho người nông dân những bất lợi cơ bản như thiếu đất canh tác, không chuyển đổi kịp nghề nghiệp để kiếm sống, trẻ em lao động sớm, số học sinh bỏ học có nguy cơ tăng, thủy lợi trong nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng.

Đô thị hoá là một trong những nhân tố quan trọng đối với việc hình thành các mô hình cố kết mới ở nông thôn. Các cố kết trong lĩnh vực nghề nghiệp thể hiện rõ. Nhờ sự đoàn kết trong việc chia sẻ kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau về những tri thức mới, người nông dân thu được hiệu quả trong sản xuất, người kinh doanh thu được nhiều lợi nhuận hơn do đó mối quan hệ cộng đồng càng chặt chẽ hơn. Quan hệ giữa những người nông dân nông thôn được củng cố bởi mối quan hệ lợi ích lẫn giá trị tinh thần. Những người có tiềm năng tài chính và năng lực tổ chức đã tập hợp một số người bà con, hàng xóm để sản xuất kinh doanh để vừa thu được lợi nhuận do giá thành nhân công tại chỗ rẻ hơn so với việc thuê nhân công từ những nơi xa, mặt khác lại nhận được sự biết ơn của bà con vì đã kiếm được việc làm cho những người thất nghiệp hoặc thiếu việc làm. Mô hình cố kết này thể hiện rõ trong các làng nghề hay trang trại.

Mô hình cố kết trong các nhóm nghề có tính chuyên nghiệp hoặc thời vụ như nhóm nghề mộc, nghề xây dựng, bốc vác, làm thuê trong các thành phố và các khu công nghiệp, các dự án…, đã thể hiện khả năng thích ứng nhanh của người nông dân khi diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Các mối liên hệ trong mạng lưới xã hội càng ngày càng cần thiết phải mở rộng vì nhu cầu nghề nghiệp và giao tiếp xã hội. Không gian xã hội đối với người nông dân đã vượt xa khỏi giới hạn làng xã, nhưng làng xã vẫn là một lực hút quan trọng và nó là sợi dây an toàn cả về mặt vật chất lẫn tinh thần.



Tính cố kết dòng họ vẫn có vai trò quan trọng tuy nhiên nó đã nhường vị trí hàng đầu cho các cố kết về lợi ích hay kinh tế. Các mối quan hệ được người nông dân nông thôn quan tâm đặc biệt đó là quan hệ kinh tế, dòng họ, xóm giềng, thân quen. Trong từng dạng hoạt động các quan hệ đó thể hiện mức độ đậm nhạt khác nhau. Người nông dân có xu hướng mở rộng các quan hệ xã hội của mình do không gian cư trú tại nông thôn hẹp dần nhưng nhu cầu xã hội của họ ngày càng lớn dần.



X¢Y DùNG V¡N HO¸ §¤ THÞ Vµ V¡N HO¸ QU¶N Lý
ë C¸C §¤ THÞ N¦íC TA HIÖN NAY

B



KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO QUOÁC TEÁ VIEÄT NAM HOÏC LAÀN THÖÙ BA

TIEÅU BAN ÑOÂ THÒ VAØ ÑOÂ THÒ HOAÙÙ





ùi Văn Tuấn*


Văn hoá đô thị và văn hoá quản lý đô thị là một vấn đề đã và đang được nhiều nhà khoa học, nhà quản lý quan tâm tranh luận. Nó không chỉ là mối quan tâm của riêng một cá nhân hay tổ chức đơn lẻ mà đã trở thành vấn đề của toàn xã hội. Cùng với quá trình phát triển và hội nhập kinh tế toàn cầu của đất nước, xây dựng văn hoá đô thị và văn hoá quản lý ở các đô thị nước ta trở thành một trong những nội dung cơ bản của sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Nếu như Đảng ta xác định văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội thì chúng ta cũng có thể nhận định rằng: xây dựng văn hoá đô thị là nhằm tạo lập nên nền tảng tinh thần, động lực để phát triển đô thị theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Xây dựng văn hoá đô thị và văn hoá quản lý ở các đô thị nước ta thực chất là xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống, nếp sống và thiết chế văn hoá ở tất cả các lĩnh vực, các ngành, các cấp của đô thị, trong đó Đảng, Nhà nước và đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Việc tổ chức và quản lý Nhà nước về văn hoá có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của cả nước nói chung và đô thị nói riêng. Vì vậy, việc xác định rõ nội hàm văn hoá đô thị, văn hoá quản lý ở đô thị đóng vai trò quan trọng ở cả hai phương diện lý luận và thực tiễn trong quá trình xây dựng, phát triển văn hoá đô thị và văn hoá quản lý ở các đô thị nước ta. Điều này cho chúng ta nhìn nhận và hiểu rõ những đặc điểm, vấn đề và giải pháp đối với việc thiết kế mô hình tổ chức và quản lý văn hoá ở các đô thị trong giai đoạn phát triển và hội nhập của nước ta hiện nay.

1. Quan niệm về văn hoá đô thị và văn hoá quản lý đô thị ở nước ta

1.1. Quan niệm về văn hoá đô thị

Có thể nói, văn hoá đô thị là một thực thể tồn tại khách quan trong mối quan hệ với đời sống thành thị, nó bao hàm các yếu tố văn hoá tĩnh (sản phẩm văn hoá vật thể, các thiết chế văn hoá…) và các yếu tố văn hoá động (bao gồm cách thức sản xuất, hình thức sinh hoạt văn hoá của cư dân đô thị) như phong tục tập quán, lễ hội, sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng, các hoạt động khoa học, giáo dục, văn hoá, thể thao,… Và thông qua các phương thức sinh hoạt cùng với những biểu hiện của nó mà chúng ta có thể xác định lối sống, nếp sống của các giai tầng cư dân đô thị. Văn hoá đô thị chủ yếu là sự tập trung số đông dân cư phi nông nghiệp, quan hệ cư trú - ứng xử có kết cấu giản đơn hơn ở nông thôn: gia đình - đường phố - xã hội. Ở nông thôn quan hệ cư trú kết cấu phức tạp hơn, theo kiểu: gia đình - dòng họ - làng xóm, láng giềng - xã hội. Điều này có nghĩa: người dân ở thành thị khi bước chân ra khỏi nhà đã hoà mình với xã hội còn ở nông thôn để hoà mình vào xã hội mỗi cá nhân phải trải qua tuần tự các kết cấu ứng xử giao tiếp đặc trưng của nó. Ngoài quan hệ gia đình, dòng tộc, hàng xóm, người dân ở đô thị còn có nhiều mối quan hệ khác như quan hệ đồng nghiệp, đồng hương, đối tác… Văn hoá ứng xử của người dân đô thị có phần thiên về quan hệ trên cơ sở luật pháp và thị trường nhiều hơn, mang đậm văn hoá, xã hội công dân hơn. Tuy vậy, văn hoá đô thị có mối quan hệ mật thiết với văn hoá nông thôn, nó được hình thành trên cơ sở văn hoá nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập và phát triển. Xét ở bình diện chung, nếu văn hoá nông thôn gắn liền với nông dân, nông nghiệp thì văn hoá đô thị gắn liền với công nghiệp, công nhân và đội ngũ trí thức. Bởi vậy, văn hoá nông thôn thường in đậm nét truyền thống văn hoá dân tộc còn văn hoá đô thị lại in đậm yếu tố hiện đại của nền văn hoá dân tộc.

Văn hoá đô thị có mối quan hệ hữu cơ với sự phát triển chung của kinh tế - xã hội đô thị, nó bị tác động, chi phối, ảnh hưởng của kinh tế thành thị. Cho nên, tuỳ thuộc vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà các phương thức sinh hoạt văn hoá và sự biểu hiện của nó cũng có sự phát triển tương ứng. Chẳng hạn cơ cấu kinh tế chủ yếu của các đô thị nước ta hiện nay là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp và trong tương lai có thể sẽ là dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp thì sự phát triển của văn hoá cũng theo sự chuyển dịch ấy, đó là: văn hoá dịch vụ, văn hoá công nghiệp và văn hoá nông nghiệp.

1.2. Quan niệm về văn hoá quản lý ở các đô thị

Văn hoá quản lý đô thị và quản lý văn hoá đô thị là những khái niệm mà nội hàm của nó có nhiều điểm giao nhau nhưng không đồng nhất. Quản lý văn hoá đô thị và văn hoá quản lý đô thị đều có điểm chung là đề cập đến chủ thể chỉ đạo điều hành trên lĩnh vực văn hoá ở đô thị, song nói đến văn hoá quản lý đô thị thì người ta thường nhấn mạnh đến yếu tố khoa học, cách ứng xử có văn hoá của chủ thể chỉ đạo tổ chức điều hành và chỉ đạo trên lĩnh vực văn hoá của đô thị. Khoa học trong quản lý hay nói một cách khác quản lý văn hoá một cách khoa học là một trong những vấn đề phức hợp và hết sức tinh tế bởi chính bản thân lĩnh vực văn hoá rất tinh tế và phức hợp.

Hiện nay có nhiều cách tiếp cận, cách hiểu và diễn đạt khác nhau về văn hoá quản lý đô thị, đồng thời có sự phân biệt một cách tương đối giữa các khái niệm này. Tuy nhiên, văn hoá quản lý ở đô thị được thể hiện rõ qua quan điểm tư tưởng, đường lối chính sách thể hiện ở tổ chức bộ máy, cơ chế, thiết chế và thể chế hoạt động của nó; thể hiện ở nhân cách của cá nhân và cộng đồng xã hội.

Văn hoá quản lý ở các đô thị là một mô hình quản lý thể hiện quyền lực và ý chí của chủ thể quản lý tác động đến đối tượng quản lý, thông qua cách ứng xử trong mối quan hệ hằng ngày, gắn với việc sử dụng quyền lực Nhà nước được cộng đồng, xã hội thừa nhận để tổ chức thực hiện các nhiệm vụ văn hoá, kinh tế, chính trị, xã hội đô thị nói chung. Văn hoá quản lý là sự kết tinh của văn hoá truyền thống, kế thừa và phát huy những nhân tố hiện đại. Nó có vai trò rất lớn trong việc tác động tích cực đến nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần hình thành nên một xã hội văn minh, hiện đại của đô thị.



2. Xây dựng văn hoá đô thị và văn hoá quản lý ở các đô thị nước ta hiện nay

Văn hoá đô thị và văn hoá quản lý là một trong những tiêu chí khi đánh giá về một đô thị phát triển văn minh. Để xây dựng được nền văn hoá đô thị và văn hoá quản lý các đô thị nước ta hiện nay, chúng ta cần phải nhận thức rõ các đặc trưng, giá trị cơ bản của văn hoá đô thị và văn hoá quản lý đô thị.



2.1. Một số nét đặc trưng và giá trị của văn hoá đô thị

Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá đã và đang làm thay đổi tập quán kinh doanh, sản xuất của người dân đô thị theo hướng công nghiệp hoá, đa thành phần, đa dạng dịch vụ theo kinh tế thị trường. Sự biến đổi văn hoá sản xuất, kinh doanh đang thúc đẩy nhanh quá trình dân chủ trong lĩnh vực văn hoá, xác lập ngày càng đầy đủ hơn các quyền và nghĩa vụ của cư dân và các nhóm dân cư đô thị trong sáng tạo, phát huy, bảo tồn và hưởng thụ văn hoá, giá trị văn hoá. Người dân đô thị ngày càng chú trọng đến chất lượng các loại hình dịch vụ văn hoá, có nhiều điều kiện để chọn lựa cách thức hưởng thụ giá trị văn hoá khác nhau.

Trong tổ chức đời sống văn hoá, cộng đồng cư dân đô thị đã cơ bản khắc phục được tác phong sản xuất nhỏ, trì trệ, luộm thuộm, manh mún; hình thành nên tác phong công nghiệp hiện đại; xây dựng được ý thức chấp hành pháp luật, ý thức công dân và ý thức cá nhân. Xã hội công dân đang manh nha hình thành ở khu vực đô thị. Tuy nhiên, sự tác động của phương thức sản xuất kinh doanh trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề về văn hoá không phù hợp với văn hoá dân tộc như các loại hình văn hoá “trái luồng”, độc hại: sách báo, băng đĩa, vũ trường, internet, báo chí xuất bản lậu… Tình trạng văn hoá đọc, viết đang bị mai một là một ví dụ tiêu biểu về phong cách sống của cư dân đô thị hiện đại, đặc biệt đối với một bộ phận không nhỏ của thế hệ thanh thiếu niên hiện nay.

Đối với cư dân đô thị, kinh tế thị trường thậm chí đã làm thay đổi thế giới quan, nhân sinh quan, tình cảm và tâm lý của họ. Về mặt tích cực, kinh tế thị trường làm thay đổi thái độ đối với lao động của người thành thị: tất cả phải vươn ra thị trường, tất cả phải kiếm được việc làm, phải có thu nhập, không trông chờ, ỷ lại vào sự bao cấp của nhà nước và sự bố thí của xã hội. Thái độ đối với gia đình, bạn bè, xã hội cũng có sự thay đổi theo hướng hiện đại, đó là sự thông cảm, sẻ chia và tôn trọng tự do cá nhân. Người dân thành thị ngày nay đã vượt qua được tính ích kỷ, tự ti của người nông dân và tiểu thương trước kia, vượt qua được các ràng buộc bởi lễ giáo phong kiến, phong tục cổ hủ…. Nhân cách văn hoá của người dân đô thị trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập đã và sẽ tiếp tục được hình thành theo hướng tích cực nhiều hơn, có nhiều đặc trưng khác với nhân cách văn hoá truyền thống của người Việt Nam. Sự khác biệt lớn nhất sẽ là sự hình thành nhân cách công dân với đặc trưng là khẳng định cái “tôi”, cái cá nhân nhiều hơn và ít bị chi phối bởi cộng đồng. Về mặt tiêu cực, với bản chất cạnh tranh, kinh tế thị trường là mảnh đất màu mỡ cho sự nảy sinh và phát triển chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, nuôi dưỡng bản năng thấp hèn của con người. Nhiều mối quan hệ chỉ được giải quyết thông qua giá trị của đồng tiền, kể cả quan hệ ruột thịt trong một gia đình. Một bộ phận cư dân đô thị có biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, trong đó có cả cán bộ, công chức và thanh niên, học sinh, sinh viên.

Trên đây là một số nét đặc trưng, giá trị cơ bản và những biểu hiện của văn hoá đô thị, những giá trị ấy đang chiếm một vị trí ưu thế trong đời sống văn hoá đô thị hiện nay. Tuy nhiên, những giá trị đó vẫn hiện diện trong cuộc sống đô thị hàng ngày nhưng chưa trở thành những nhân tố chủ đạo, mà vẫn là cái đích mà chúng ta nhắm đến để hoàn thiện, để biến chúng thành động lực phát triển của toàn xã hội nói chung và xã hội đô thị ở nước ta nói riêng.

2.2. Một số đặc trưng và tính chất của văn hoá quản lý đô thị nước ta hiện nay

+ Khoa học trong văn hoá quản lý đô thị: Trong bối cảnh hiện nay, văn hoá quản lý ở đô thị không chỉ có tư duy khoa học mà còn phải có phong cách quản lý một cách khoa học tức phải dân chủ hoá trong bộ máy quản lý điều hành, không độc đoán chuyên quyền, có tác phong công nghiệp, làm việc theo quy chế, tổ chức quản lý và điều hành theo lộ trình với những bước đi thích hợp phù hợp với sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đô thị.

+ Nghệ thuật trong văn hoá quản lý ở đô thị: Đây là một khía cạnh cơ bản trong lĩnh vực quản lý. Nó đòi hỏi chủ thể quản lý phải chỉ đạo, điều hành mọi hoạt động cần chú trọng sự hài hoà giữa nội dung với hình thức, cách thức lãnh đạo; lấy sự đồng thuận hướng tới cái hoàn mỹ để tập hợp lực lượng; lấy nhân cách và sự nêu gương thay cho thông điệp và lời nói mang lý thuyết suông, lấy cái đẹp dẹp cái xấu, lấy sự đoàn kết thống nhất theo chiều hướng tiến bộ thay cho hiện tượng bè phái, chia rẽ và khi xuất hiện hiện tượng dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức, dân chủ không dựa trên cái tất yếu thì lấy cái tập trung làm chủ đạo, phải dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.

+ Đạo đức trong quản lý: Người quản lý điều hành lĩnh vực văn hoá trước hết phải là người có văn hoá, phải là người nắm vững bản chất khoa học và cách mạng trong quản lý và vượt lên trên tất cả đó phải là người am hiểu đầy đủ các loại hình và đặc trưng của văn hoá, nghệ thuật, là người có tấm lòng bao dung, vị tha tiêu biểu cho sự cao cả, cao thượng, ghét cái xu nịnh, thấp hèn, cơ hội; có lối sống giản dị, trung thực, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư.

+ Ứng xử trong quản lý điều hành: của các cấp đối với lĩnh vực khoa học, nghệ thuật, tư tưởng văn hoá, giáo dục đào tạo, truyền thông đại chúng, thể dục thể thao… là ứng xử thông minh phù hợp với lĩnh vực nhạy cảm, tinh tế vì đây là lĩnh vực hội tụ nhiều tri thức của dân tộc: tri thức trong lĩnh vực khoa học, trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, trong đội ngũ văn nghệ sỹ, nguồn lao động chất lượng cao. Đối với đối tượng này, muốn thành công trong quản lý, điều hành trước hết phải tôn trọng trí thức, tin ở trí thức, biết nâng niu quý trọng những tài năng, biết bỏ qua những nguyên tắc, quy chế ràng buộc không cần thiết, dân chủ thật sự, không định kiến, tập thói quen trong xử lý các hiện tượng phản biện xã hội, nắm chắc thông tin hai chiều thuận nghịch ứng xử là hành vi văn hoá trong quản lý điều hành.

+ Mục tiêu trong quản lý: quản lý ở các đô thị là phải xác định mục tiêu rõ ràng, minh bạch. Mục tiêu quản lý ở các đô thị có nhiều cấp độ khác nhau, thuộc các lĩnh vực văn hoá, chính trị, kinh tế, xã hội khác nhau, bao gồm mục tiêu cụ thể trước mắt và mục tiêu lâu dài. Mục tiêu trước mắt phải thống nhất và là một bộ phận của mục tiêu lâu dài, là điều kiện để thực hiện mục tiêu dài hạn. Vì vậy, khi xây dựng mục tiêu trong công tác quản lý nói chung và lĩnh vực văn hoá đô thị nói riêng cần chú ý các điều kiện để thực hiện như điểm xuất phát; điều kiện thực hiện; các nguồn lực; các phương tiện hỗ trợ; lộ trình và các giải pháp mang tính đột phá để đạt mục tiêu.

+ Tính dự báo trong quản lý: khoa học dự báo ngày càng gia tăng và là một bộ phận cấu thành của văn hoá quản lý nhà nước ở đô thị. Trong quá trình phát triển và hội nhập hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, đời sống chính trị diễn ra hết sức phức tạp, đan xen nhiều mâu thuẫn, nhiều xung đột, có thể gây ra rủi ro cho nhiều ngành và nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy, nhu cầu dự báo làm tiền đề cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách trong công tác lãnh đạo và quản lý đô thị là rất lớn. Bởi vậy, việc đầu tư vào nghiên cứu khoa học, chú trọng vai trò của dự báo cũng là một yêu cầu vừa có tính khách quan, vừa cấp thiết đối với quản lý Nhà nước ở các đô thị nước ta hiện nay.

+ Tính chuyên nghiệp trong quản lý ở đô thị: kinh nghiệm và năng khiếu là một trong những yếu tố quan trọng trong văn hoá quản lý đô thị. Tuy nhiên hai yếu tố này không thể thay thế cho tri thức khoa học, cho việc ứng dụng thành tựu khoa học vào quản lý, nhất là trong xã hội đô thị hiện đại. Trong quản lý chuyên ngành, đòi hỏi nhà quản lý cũng như các tổ chức thực hiện công tác lãnh đạo và quản lý phải am hiểu sâu sắc về lĩnh vực mình quản lý; từ việc nhận thức quan điểm chung đến kỹ năng quản lý chuyên ngành. Tính chuyên nghiệp của bộ máy quản lý không chỉ dừng lại ở lý luận chung chung trừu tượng mà phải có những kỹ năng cần thiết, có tính chuyên nghiệp phục vụ công tác quản lý theo ngành, theo vùng, gắn với từng cấp khác nhau. Hiện nay, xu hướng đào tạo theo chức danh cũng là một xu hướng khách quan để nâng cao tính chuyên nghiệp trong văn hoá quản lý.

+ Tính toàn diện trong quản lý đô thị: văn hoá quản lý đòi hỏi người quản lý bên cạnh việc nắm vững lĩnh vực mà mình quản lý còn cần phải am hiểu các lĩnh vực khác trong mối quan hệ biện chứng, tương tác với các lĩnh vực thuộc lĩnh vực chuyên ngành của mình. Trong xu thế phát triển chung của xã hội, các khoa học chuyên ngành, đa ngành và liên ngành đang có xu hướng đan xen, tương tác và hỗ trợ lẫn nhau để tạo nên những bước phát triển mới. Trong quản lý văn hoá, kinh tế, chính trị và xã hội, chúng ta không thể tuyệt đối hoá một lĩnh vực nào mà không quan tâm đến các lĩnh vực khác. Quản lý đa ngành, đa lĩnh vực chính là quá trình phá bỏ rào cản của từng ngành, từng lĩnh vực, phá bỏ sự khép kín, cục bộ, địa phương.

+ Tính liên thông trong quản lý: thể hiện quá trình phản ứng và phối hợp linh hoạt, đồng thuận và năng động của các cơ quan quản lý theo chiều dọc (quan hệ cấp trên và cấp dưới) và quan hệ theo chiều ngang (phối hợp, liên hợp giữa cán bộ, các ngành, các địa phương). Tính liên thông đa chiều này đòi hỏi người quản lý và các cơ quan quản lý phải có năng lực phản ứng nhanh, cơ động và cởi mở, giàu khả năng thích ứng với sự thay đổi của môi trường tương tác để đưa ra quyết định sáng suốt và đúng lúc, thúc đẩy sự phát triển toàn diện của đô thị.

+ Dân chủ và minh bạch trong quản lý: là điều kiện thiết yếu của văn hoá quản lý nhà nước ở các đô thị hiện nay. Mô hình chuyên chế, mất dân chủ sẽ dẫn đến chế độ độc tài, triệt tiêu sáng kiến của nhân dân, đối lập giữa nhân dân và người quản lý. Đây là nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng và là nguồn gốc của xung đột xã hội. Thực thi dân chủ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào quá trình quản lý nhà nước là yêu cầu cấp thiết để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở các cấp của đô thị.

Minh bạch và công khai là điều kiện để thực hiện dân chủ hoá xã hội. Văn hoá quản lý nhà nước trong quá trình thực hành dân chủ đòi hỏi mọi chủ trương chính sách của chính quyền đô thị phải rõ ràng, minh bạch và công khai, tạo môi trường tinh thần lành mạnh cho mọi người dân được biết, được bàn, được làm và được kiểm tra hoạt động của bộ máy nhà nước đô thị.

+ Tính hiệu quả trong văn hoá quản lý: văn hoá quản lý bao giờ cũng phải hướng tới mục tiêu nhất định. Hiệu quả của văn hoá quản lý nhà nước ở các đô thị xác nhận tính khoa học và tính nghệ thuật trong quản lý là đúng đắn. Nó được thể hiện ở kết quả công việc đáp ứng được mục tiêu đề ra. Mọi quan điểm, chủ trương, chính sách đúng nhưng khó triển khai trong thực tiễn thì vẫn phải xem xét, đánh giá lại xem nguyên nhân, cần tháo gỡ ở khâu nào để có thể thực hiện nó một cách hiệu quả. Trong quản lý kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá, tính hiệu quả phụ thuộc vào tầm nhìn chiến lược trong xác định mục tiêu, phụ thuộc vào chương trình, kế hoạch hợp lý, phụ thuộc vào công nghệ tổ chức thực hiện và con người tham gia trực tiếp và gián tiếp vào hoạt động này.

+ Tính gương mẫu trong văn hoá quản lý: quản lý là hoạt động liên quan đến con người cụ thể trong các nhóm xã hội, chính trị, nghề nghiệp khác nhau của đô thị. Sự nêu gương của đội ngũ quản lý là tạo ra các chuẩn mực trực tiếp để các cộng sự và quần chúng noi theo. Trong quản lý, không thể chỉ nói đến tri thức và tiền đề vật chất mà phải đặc biệt coi trọng tình cảm, niềm tin, ý chí và bản lĩnh của người lãnh đạo và quản lý.

Trong thời kỳ phát triển và hội nhập hiện nay của đất nước, những yêu cầu mới của văn hoá quản lý nhà nước ở các đô thị nước ta hiện nay đặt ra là rất lớn, cần phải được nghiên cứu từ nhiều khía cạnh khác nhau để nâng cao chất lượng. Hiệu quả cuối cùng của văn hoá quản lý chính là chất lượng. Chất lượng bền vững của văn hoá quản lý nhà nước ở các đô thị nước ta hiện nay chính là hướng vào mục tiêu phục vụ con người, nâng cao chất lượng cuộc sống tinh thần, vật chất của nhân dân, chống các hiện tượng hoặc hành vi phản văn hoá và phi văn hoá tác động xấu đến đời sống xã hội đô thị. Vì vậy mọi hoạt động quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội phải đặt con người, đặt người dân lao động vào trọng tâm của quá trình phát triển, phấn đấu để con người thực sự là mục tiêu, là động lực của sự phát triển. Muốn làm được điều đó, các đô thị nhất thiết phải xây dựng được và đề cao vai trò của văn hoá quản lý nhà nước. Nói cách khác, quản lý văn hoá nhà nước ở đô thị phải bằng văn hoá, dựa vào văn hoá và vì văn hoá. Đó chính là hiệu quả và chất lượng của văn hoá quản lý nhà nước ở đô thị mang tính nhân văn - vì con người, vì nhân dân, vì sự phát triển chung của đất nước.

Như vậy, văn hoá quản lý đô thị tốt hay không tốt, hiệu quả hay không hiệu quả, thành công hay không thành công phụ thuộc phần lớn vào khả năng chỉ đạo (định hướng chính trị, tư tưởng, thông tin đề ra chương trình hành động tập hợp lực lượng, tạo niềm tin…); kỹ năng tổ chức điều hành (ban hành các văn bản luật, dưới luật, các quy định, quy chế làm việc giám sát tạo ra môi trường…) và ứng xử (truyền đạt, động viên, đối thoại...) một cách khoa học, đạt tới trình độ nghệ thuật bằng tấm gương sáng về nhân cách văn hoá của người quản lý phù hợp với sự phát triển đô thị.



2.3. Ý nghĩa của việc xây dựng văn hoá đô thị và văn hoá quản lý ở các đô thị nước ta hiện nay

+ Đối với cơ quan quản lý đô thị: Trong chỉnh thể văn hoá nói chung thì văn hoá quản lý ở các đô thị hiện nay là một phương diện, một bộ phận quan trọng và có tính đặc thù. Điều đó trước hết bắt nguồn từ chỗ quản lý văn hoá nhà nước là chức năng vốn có của mọi đô thị, là một hoạt động đặc thù, sử dụng pháp quyền của nhà nước đô thị để tác động lên đối tượng bị quản (cộng đồng xã hội).

Xây dựng văn hoá đô thị và văn hoá quản lý cho các tổ chức, trong đó có các tổ chức là cơ quan quản lý sẽ góp phần quan trọng cho sự phát triển văn hoá xã hội đất nước nói chung và các đô thị nói riêng được bền vững.

Môi trường hành chính nhà nước ở đô thị trong sạch, lành mạnh là điều kiện và động lực khuyến khích, động viên mỗi công dân đô thị, mỗi tổ chức không ngừng phấn đấu, phát triển theo pháp luật.

Văn hoá và văn hoá quản lý nhà nước ở đô thị trở thành một trong những tiêu chí xác định trình độ trưởng thành về nhân cách, về đạo đức công chức, và phẩm chất, uy tín của cơ quan quản lý văn hoá đô thị hiện nay. Văn hoá quản lý nhà nước ở đô thị còn là một nhân tố không thể thiếu để xác lập bầu không khí xã hội đô thị lành mạnh, thể hiện trong các mối quan hệ giữa cơ quan quản lý đô thị với công dân, với cộng đồng xã hội … Đồng thời, văn hoá quản lý nhà nước ở đô thị còn thể hiện đậm nét thành tố văn hoá trong quan hệ giữa các thành viên, giữa cấp trên với cấp dưới, giữa cơ quan quản lý đô thị các cấp trong quan hệ dọc và quan hệ ngang.

Khi văn hoá quản lý ở đô thị được xây dựng và phát triển thì sẽ có văn hoá từ chức, văn hoá cách chức, văn hoá nghỉ hưu. Văn hoá quản lý nhà nước ở các đô thị nước ta giữ vai trò quan trọng trong việc phát hiện những bất hợp lý của nền hành chính đô thị, từ đó sẽ thúc đẩy có hiệu quả tiến trình cải cách nền hành chính đô thị. Văn hoá quản lý nhà nước kết hợp với văn hoá chính trị sẽ là động lực tích cực trong việc hướng hoạt động quản lý đô thị vào những mục tiêu, những giá trị được xã hội mong đợi.

Văn hoá quản lý khi đã ăn sâu vào nhận thức của công chức sẽ tạo nên những khuôn mẫu hành vi của mỗi cá nhân, công chức, mỗi cơ quan quản lý đô thị, điều chỉnh quan hệ của họ đối với các đối tượng bị quản lý theo pháp luật. Không có văn hoá quản lý thì khó có thể xây dựng được đạo đức công chức và nền hành chính đô thị trong sạch, vững mạnh.

+ Đối với người dân và toàn xã hội: với tư cách là một thành tố quan trọng của đô thị, mỗi một bước phát triển của văn hoá và văn hoá quản lý ở đô thị cũng chính là một bước phát triển của văn hoá dân tộc. Văn hoá và văn hoá quản lý đô thị phải được nâng tầm dựa trên cơ sở bản sắc của văn hoá dân tộc, thấm đậm thành tố văn hoá. Trong văn hoá quản lý đô thị nếu không dựa trên nền tảng văn hoá thì có thể dẫn đến một thứ quản lý đô thị siết chặt lại, tự trói lẫn nhau, tự trói chính mình, cấm chợ ngăn sông, đi ngược lại quy luật phát triển, chà đạp con người...

Khi sống trong một môi trường phi văn hoá, con người không những sẽ bị tước đi các điều kiện để phát triển mà ngay cả sự tồn vinh của họ cũng khó được bảo toàn. Nhấn mạnh như vậy để thấy rằng, văn hoá quản lý nhà nước ở các đô thị không phải là những vấn đề lý luận trừu tượng, mà nó được biểu hiện cụ thể trong thực tiễn đời sống, ảnh hưởng sâu sắc trực tiếp đến sự sống còn của từng công dân, từng tổ chức, từng doanh nghiệp và toàn xã hội của đô thị.

Văn hoá đô thị phát triển đến một trình độ cao thì văn hoá quản lý nhà nước không chỉ là tri thức của các cơ quan quản lý nhà nước ở đô thị, mà còn là tri thức mang tính phổ biến của mọi công dân, mọi tổ chức. Khi đó, những thông tin phản hồi mang động cơ xây dựng của các công dân, các tổ chức với cơ quan quản lý đô thị sẽ là động lực tích cực trong việc phát triển và hoàn thiện văn hoá quản lý nhà nước ở các đô thị.



3. Một số kiến nghị và giải pháp đối với việc xây dựng văn hoá đô thị và văn hoá quản lý nhà nước ở các đô thị nước ta thời kỳ hiện nay

Từ những phân tích về nguyên nhân hình thành các giá trị văn hoá đô thị cũng như những biểu hiện của nó trong đời sống xã hội hiện nay, chúng tôi xin đề xuất một số kiến nghị và giải pháp đối với việc xây dựng văn hoá đô thị và văn hoá quản lý ở các đô thị nước ta thời kỳ hiện nay nhằm phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của từng giá trị văn hoá cụ thể trong bối cảnh xã hội hiện nay.



3.1. Kiến nghị

Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển ở các đô thị phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phát triển bền vững, giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc. Phát triển đô thị phải coi trọng việc bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hoá, các công trình kiến trúc và danh lam thắng cảnh, phát triển đô thị theo kiến trúc hiện đại kết hợp với kiến trúc truyền thống. Đồng thời phải xây dựng mô hình quản lý hiện đại dựa trên việc kế thừa truyền thống văn hoá quản lý, kết hợp và tiếp thu những thành tựu quản lý tiên tiến của các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế. Mô hình quản lý phải đảm bảo sự thống nhất khoa học và tính thực tiễn, tính hệ thống và tính toàn diện, tính năng động và hiệu quả đáp ứng tốt nhiệm vụ xây dựng và phát triển đô thị văn minh, hiện đại.

Thứ hai, cần phải xây dựng và hoàn thiện quy hoạch không gian văn hoá đô thị (nội và ven đô) đáp ứng nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hoá của nhân dân. Phải tạo ra được các thiết chế văn hoá - thông tin của Nhà nước và xã hội trong một không gian văn hoá phù hợp. Đối với vùng ven đô, việc quy hoạch không gian văn hoá nên xây dựng tập trung, ở nội đô có thể phân tán nhưng phải đảm bảo sự liên hoàn giữa các khối kiến trúc.

Thứ ba, khuyến khích sáng tạo văn hoá đô thị bằng các chính sách ưu tiên đầu tư cho sáng tác, thẩm định và quản lý hoạt động biểu diễn, triển lãm, xuất bản, báo chí cả chuyên nghiệp và nghiệp dư. Tập trung ưu tiên đầu tư cho các hoạt động văn hoá ở các thành phố lớn, xây dựng các thành phố này trở thành các trung tâm văn hoá quốc gia và khu vực.

Thứ tư, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý văn hoá đô thị, kết hợp với công tác phòng chống các biểu hiện và hành vi phi văn hoá, bài trừ tệ nạn xã hội. Nhà nước cần hoàn thiện pháp luật về văn hoá. Hiện nay, hệ thống các văn bản pháp luật về văn hoá đang phân tán (quản lý bảo tồn, phát triển các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể; quản lý hoạt động văn hoá chuyên nghiệp và quần chúng; quản lý dịch vụ văn hoá; quản lý môi trường văn hoá và xây dựng gia đình văn hoá), chưa được quy định trong một bộ luật thống nhất. Đẩy mạnh việc phân cấp công tác quản lý văn hoá theo hướng tăng cường cho các cấp của đô thị kết hợp công tác kiểm tra, phòng ngừa, phát hiện, xử lý các vi phạm, phòng chống tệ nạn xã hội và chống xâm nhập các nguồn văn hoá lai căng, xa lạ với văn hoá dân tộc.

Thứ năm, đổi mới công tác tuyển dụng, đề bạt và sử dụng cán bộ lãnh đạo, quản lý. Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, có vai trò quyết định sự thành bại của công tác lãnh đạo, quản lý. Hiện nay cần đổi mới công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý, khắc phục tình trạng “bao cấp” về quy hoạch hoặc “quy hoạch treo”, quy hoạch hình thức. Cần phải tạo môi trường văn hoá tinh thần lành mạnh cho sự cạnh tranh chức vụ, thi tuyển cán bộ theo chức danh kết hợp với bổ nhiệm. Cần công khai hoá và dân chủ hoá trong đánh giá, đề bạt và sử dụng cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý phải là đại diện về trí tuệ, tài năng và đạo đức của nhân dân đô thị trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Điều quan trọng hiện nay là thu hút tài năng và sử dụng tài năng trong lãnh đạo quản lý các cấp ở đô thị. Công tác đào tạo và quy hoạch phải đi trước và có sự chuẩn bị trước để nâng cao tầm nhìn, nâng cao trình độ tư duy khoa học cũng như kỹ năng quản lý. Cần thường xuyên tổ chức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, bồi dưỡng kiến thức mới, trao đổi kinh nghiệm quốc tế để nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành của đô thị.

Thứ sáu, xây dựng được chiến lược quản lý phù hợp với mục tiêu quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở các đô thị trong thời gian dài. Tầm nhìn phải được mở rộng và gắn với tầm nhìn của khu vực và quốc tế, hướng tới tương lai và hiện đại nhưng vẫn giữ gìn và phát huy được bản sắc độc đáo của văn hoá dân tộc, chống xu hướng lai căng, lắp ghép xô bồ, thiếu định hướng về quy hoạch và thẩm mỹ. Cần giáo dục ý thức trân trọng, bảo vệ, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá hiện có do lịch sử để lại, kế thừa và xây dựng các giá trị văn hoá mới đáp ứng cho yêu cầu phát triển ngày càng mạnh mẽ của từng đô thị. Chiến lược quản lý phải tạo ra sự thống nhất và đồng thuận giữa các cơ quan có chức năng quản lý và tính kỷ luật, tính chủ động của người dân tham gia vào thực hành chức năng xã hội của mình. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý, sự hợp tác mang tính liên ngành sẽ tạo nên hợp lực để thực hiện mục tiêu quản lý một cách có hiệu quả.

Thứ bảy, xây dựng và hoàn thiện thiết chế quản lý có vai trò quan trọng, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý. Văn hoá quản lý nhà nước ở các đô thị phải là sự thống nhất giữa quan điểm, đường lối, chủ trương, chiến lược phát triển với hệ thống kỹ thuật công nghệ để chuyển hoá những tư tưởng, quan điểm đó vào trong đời sống hiện thực, xây dựng nhân cách của đội ngũ cán bộ quản lý và thu hút sự tham gia tích cực của quần chúng nhân dân. Xây dựng và hoàn thiện các thiết chế quản lý bao gồm việc xác định các cơ quan quản lý, cơ cấu tổ chức, bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức đó. Bộ máy cồng kềnh, chồng chéo, khép kín sẽ làm cho hiệu quả, hiệu lực quản lý giảm sút, gây nhũng nhiễu, phiền hà cho nhân dân. Đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng hiện đại, tinh giản, năng động và hiệu quả là khâu có ý nghĩa đột phá để nâng cao hiệu quả của văn hoá quản lý đô thị hiện nay. Cần tạo ra sự chuyển biến về văn hoá công sở, chú trọng phương pháp quản lý hành chính và phương pháp giáo dục, quy phạm hoá các chuẩn mực đạo đức công chức và trách nhiệm công vụ của các cơ quan công quyền. Cơ quan công quyền phải thực sự trong sạch, lành mạnh, gương mẫu để củng cố niềm tin của nhân dân vào bộ máy quản lý đô thị. Đồng thời phải nâng cao trình độ văn hoá chung cho công dân, nhất là giáo dục ý thức công dân để họ chủ động tham gia vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đô thị.

Nếu phát huy được những vấn đề trên, chắc chắn sẽ có những bước tiến mới làm động lực cho sự phát triển văn hoá xã hội ở các đô thị nước ta.

3.2. Giải pháp

Những vấn đề đặt ra cho thấy rằng văn hoá cao phải có văn hoá quản lý tiên tiến. Muốn giải quyết được vấn đề đó các đô thị nước ta cần phải thực hiện đồng thời và đồng bộ các giải pháp chủ yếu từ góc nhìn văn hoá quản lý đô thị sau đây:

Xây dựng văn hoá đô thị trước hết là xây dựng một nền giáo dục - đào tạo phát triển theo hướng xã hội hoá, chuẩn hoá và hiện đại hoá tạo ra một xã hội học tập mà ở đó trình độ dân trí, trình độ học vấn, trình độ khoa học, trình độ thẩm mỹ phải đạt tới trình độ cao. Muốn thực hiện được điều này, các đô thị nước ta cần xây dựng được hệ thống các trường đại học, cao đẳng, viện nghiên cứu nhanh chóng trở thành các trung tâm giáo dục, đào tạo chất lượng cao của cả nước mang tầm khu vực và quốc tế, đẩy nhanh việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế, tài chính cho các trường đại học, cao đẳng, khuyến khích các trường đại học, cao đẳng liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo có chất lượng của các nước tiên tiến trên thế giới. Biện pháp quan trọng ở đây là phải có chính sách đào tạo, bồi dưỡng, hội tụ người tài kể cả trong nước và ngoài nước, tạo môi trường giáo dục - đào tạo lành mạnh, hấp dẫn để họ phát huy hết năng lực của mình cho đô thị. Đặc biệt là chủ thể lãnh đạo quản lý các cấp phải có trình độ đại học chuyên sâu, phải qua các lớp đào tạo bồi dưỡng cập nhật kiến thức trên mọi phương diện, là những chuyên gia hàng đầu trên lĩnh vực trí tuệ.

Xây dựng khoa học - công nghệ ngang tầm sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá: xây dựng và phát triển công nghệ thông tin trở thành ngành mũi nhọn trong đó việc xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao, có tay nghề giỏi cho các ngành trọng điểm, lĩnh vực công nghệ cao với các chuyên gia đầu đàn, giỏi về quản lý và chuyển giao công nghệ cũng như những nhà quản lý khoa học tầm cỡ có ý nghĩa quyết định. Và có như vậy thì văn hoá mới đóng được vai trò vừa là nền tảng, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đô thị nói riêng và cả nước nói chung.

Gắn quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội với hoàn thiện quy hoạch không gian đô thị đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo văn hoá của cư dân đô thị trên cơ sở xây dựng được các thiết chế văn hoá đô thị phù hợp.

Với sự phát triển của đô thị ngày càng mạnh mẽ sẽ dẫn đến quang cảnh thiên nhiên bị thu nhỏ, làm cho các khu dân cư dân dụng ngày càng bị thu hẹp, thiên nhiên trong đô thị ở nhiều cấp độ khác nhau bị thu nhỏ tới mức báo động. Đô thị phát triển làm cho hệ không gian kiến trúc đặc thù đã và đang bị phá vỡ, các di sản kiến trúc bị chèn ép trong hệ không gian mới. Vì vậy phải gắn quy hoạch tổng thể kinh tế, văn hoá, xã hội với hoàn thiện quy hoạch không gian đô thị sao cho hài hoà giữa cái truyền thống, cổ kính với cái văn minh, hiện đại để tạo ra môi trường văn hoá đô thị với những thiết chế văn hoá mới thích hợp, kết cấu hạ tầng hợp lý. Giao thông đô thị phải rộng và nhiều cây xanh. Xây dựng các công trình, các khách sạn, nhà hàng, khu chung cư, xí nghiệp, các khu vui chơi công cộng và các thiết chế văn hoá không được theo kiểu “Mỹ hoá” như một số nơi như Singapo, Băng Cốc, Manila, Hồng Công... Không gian kiến trúc và công trình kiến trúc dù theo hướng tiên tiến nhưng phải mang đậm kiến trúc dân tộc và nét đặc sắc Phương Đông.



Xây dựng lối sống, nếp sống văn hoá đô thị văn minh trên cơ sở kế thừa lối sống, nếp sống tốt đẹp của văn hoá truyền thống dân tộc, tiếp thu có chọn lọc lối sống văn minh nhân loại, khắc phục xu hướng đoạn tuyệt với giá trị truyền thống và xu hướng “Tây hoá” trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế đã, đang và sẽ làm thay đổi tập quán sản xuất, kinh doanh cả tình cảm, tư tưởng, lối sống, nếp sống đô thị theo hướng văn minh. Những tập quán thói quen sản xuất nhỏ manh mún, tác phong trì trệ, tư duy đến đâu hay đến đó, lối sống “phép vua thua lệ làng”… sẽ nhường chỗ cho tác phong công nghiệp, tư duy thị trường, tư duy dân chủ, lối sống tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước cộng đồng, ý thức cá nhân. Nhu cầu văn hoá tinh thần trong sáng tạo và hưởng thụ của người dân đô thị cũng có sự đổi thay theo hướng mới, họ chú trọng quan tâm hơn đến chất lượng các dịch vụ văn hoá hiện đại. Sự đòi hỏi hưởng thụ văn hoá ngày càng cao hơn. Đó là sự tiến bộ về văn hoá trong quá trình đô thị hoá. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề đáng lo ngại về văn hoá. Nó làm cho các giá trị văn hoá truyền thống dễ bị mai một dần, các sản phẩm văn hoá “độc hại”, lai căng, đồi truỵ nằm ngoài tầm kiểm soát đang làm vẩn đục tâm hồn, cốt cách dân tộc. Internets, trò chơi điện tử, máy tính, các trò chơi giải trí được thưởng bằng tiền... thường là sự lựa chọn chủ yếu của giới trẻ, văn hoá đọc, văn hoá lịch sử ít được quan tâm, lối sống lạnh lùng trong giới trẻ xuất hiện ngày càng nhiều. Đây là hiện tượng tương đối phổ biến ở các đô thị nước ta hiện nay. Và để giải quyết được thực trạng này chúng ta phải giải quyết đồng thời đồng bộ hai vấn đề sau: i) Giữ gìn những giá trị văn hoá truyền thống, nâng niu quý trọng những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam, loại bỏ những phong tục tập quán xấu, lối sống, nếp sống lạc hậu. ii) Tiếp thu những tinh hoa văn hoá thế giới để xây dựng lối sống, nếp sống đô thị văn minh. Lối sống, nếp sống văn minh qua thực tiễn cho thấy nó chỉ được hình thành và phát triển trong một môi trường văn hoá lành mạnh. Muốn vậy không có con đường nào khác là phải triệt để đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí; ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội, xây dựng gia đình văn hoá, xã, phường văn hoá; khu phố văn hoá; đơn vị văn hoá, doanh nghiệp, xí nghiệp văn hoá... trong phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” trên địa bàn dân cư đô thị.

Để thực hiện được các giải pháp trong việc xây dựng văn hoá đô thị nêu trên cần phải chú ý đến đổi mới sự lãnh đạo, quản lý của các cấp chính quyền đô thị từ cách nhìn văn hoá đến chủ trương, chính sách và đặc biệt là đổi mới phong cách lãnh đạo, quản lý văn hoá đô thị: dân chủ không độc quyền, đưa ra chân lý nghệ thuật; gần gũi bao dung, cởi mở chân thành, tôn trọng cá tính sáng tạo… là những nét ứng xử có văn hoá và trong chừng mực nhất định có thể gọi là văn hoá quản lý.

Tóm lại, cùng với quá trình phát triển và hội nhập quốc tế hiện nay của đất nước, những yêu cầu mới của xây dựng văn hoá đô thị và văn hoá quản lý đô thị đặt ra là rất cấp thiết, cần phải được nghiên cứu trên nhiều khía cạnh khác nhau để xây dựng và nâng cao chất lượng văn hoá đô thị và văn hoá quản lý. Hiệu quả cuối cùng của văn hoá đô thị và văn hoá quản lý chính là chất lượng của mô hình tổ chức, quản lý văn hoá và văn hoá quản lý. Chất lượng bền vững quản lý của văn hoá đô thị và văn hoá quản lý chính là hướng vào mục tiêu phục vụ con người, nâng cao chất lượng cuộc sống của cư dân đô thị, chống các phản văn hoá và phi văn hoá làm ô nhiễm đời sống của cư dân đô thị. Vì vậy mọi hoạt động quản lý kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của đô thị phải đặt con người, đặt nhân dân lao động vào trọng tâm của quá trình phát triển, phấn đấu để con người thực sự là mục tiêu, là động lực của sự phát triển của đô thị. Để làm được điều đó, nhất thiết phải đề cao vấn đề xây dựng văn hoá đô thị và vai trò của văn hoá quản lý đô thị. Đó chính là hiệu quả của kiểu lựa chọn về xây dựng văn hoá và văn hoá quản lý đô thị mang tính nhân văn: vì con người, vì nhân dân, vì dân tộc và vì nhân loại tiến bộ.



TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. GS Vũ Khiêu, GS Phạm Xuân Nam, GS Hoàng Trinh, Phương pháp luận về vai trò của văn hoá trong phát triển, NXB Khoa học Xã hội, 1993.

  2. GS TS Trịnh Duy Luân, Xã hội học đô thị, NXB Khoa học xã hội, 2005.

  3. GS Mai Văn Hai, Xã hội học Văn hoá, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005.

  4. Bùi Tiến Quý, Bàn về xây dựng và phát triển văn hoá quản lý Nhà nước, trong Tuổi trẻ Chủ nhật, kỳ 1 tháng 7/2006.

  5. GS TS Nguyễn Đình Hương, Đô thị hoá và quản lý kinh tế đô thị ở Hà Nội, NXB Chính trị Quốc gia, 2000.

  6. Trịnh Duy Luân, Những yếu tố xã hội của sự phát triển đô thị bền vững ở Việt Nam, Tạp chí Xã hội học, số 3, 2000.

  7. Bùi Thị Thiêm, Đô thị hoá và một số giải pháp phát triển đô thị ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, số 2/2005.

  8. Trần Ngọc Chính, Thứ trưởng Bộ Xây dựng, Nâng cao năng lực quản lý của chính quyền đô thị, Tạp chí Kiến trúc Việt Nam, số 3/2007.

  9. Tương Lai. Tiếp cận xã hội học về tự quản đô thị. Tạp chí Xã hội học, số 2/1996.

  10. Trần Ngọc Hiên, Trần Văn Chử (Đồng chủ biên). Đô thị hoá và chính sách phát triển đô thị trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội - 1996.
1   ...   18   19   20   21   22   23   24   25   26




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương