NIỆm phật pháp yếU 念佛法要 Cư sĩ Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính sưu tập (惕園毛凌雲敬緝)



tải về 1.38 Mb.
trang4/19
Chuyển đổi dữ liệu28.07.2016
Kích1.38 Mb.
#8425
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   19

Nhận định:
Trì danh chẳng cốt niệm nhanh, niệm nhiều là hay, nhưng chẳng nên [nại cớ đó để] tà tà, lơi là. Cổ đức trì danh ngày đêm cả một vạn biến, há chẳng phải là niệm nhanh, niệm nhiều đó sao? Câu “chớ cầu chóng có linh nghiệm, đừng vọng cầu ngoài tâm có Phật đến đón khiến ma sự phát động” để dạy riêng người tu quán tưởng. Nếu gặp phải ma sự thì nên đề khởi chánh niệm, thầm trì Phật hiệu, vì tà chẳng thắng nổi chánh nên ma sự ắt tiêu diệt, chẳng cần lo sợ.
13. Trích yếu Pháp Ngữ của đại sư Phạm Thiên Tỉnh Am Tư Tề đời Thanh

* [Trích từ] thư viết cho cư sĩ Mâu Tịnh Viễn:

“Cư sĩ dựng cầu xong có thể nói là không công nào lớn hơn, nhưng tâm cư sĩ ham làm lành không chán; vừa xong một việc lành này đã làm ngay việc lành khác, đã hay càng hay hơn! Còn việc lớn sanh tử thì như thế nào? Nếu chẳng coi việc lớn sanh tử là gấp, cứ cắm cúi làm lành thì sự lành dù to như núi Tu Di cũng đều là nghiệp duyên sanh tử cả, biết đến ngày nào xong? Thiện sự càng lắm, sanh tử càng rộng! Một niệm ái tâm bao kiếp trói buộc, có đáng sợ chăng?

Cư sĩ tham cứu thấu đạt công án thế gian từ lâu, đã tu tập Tịnh nghiệp Tây Phương từ lâu, nhưng cái tâm sanh tử chẳng thiết, gia duyên chưa buông xuống được, tạ tuyệt nhân tình chưa nổi, tâm niệm Phật chẳng chuyên là vì sao vậy? Vì gốc lợi danh chưa đoạn chăng? Vì ái niệm lôi kéo, ràng buộc chăng?

Ðối với hai điều ấy, ông nên để tâm suy xét kỹ. Nếu như chẳng thể chặt đứt hết thảy gia duyên, thế sự, tận lực vâng giữ sáu chữ hồng danh mà mong thoát khỏi Sa Bà, mong sanh về An Dưỡng thì khó lắm đấy!

Chẳng sanh về An Dưỡng mà muốn thoát khỏi sanh tử; đã chẳng thoát khỏi sanh tử mà muốn khỏi bị đọa lạc thì xét ra càng khó hơn nữa! Ví dù một đời, hai đời chẳng đánh mất thân người, liệu có kham nổi mãi không?

Than ôi! Cư sĩ huệ tâm lanh lợi, sáng suốt như thế, gia duyên sung túc như thế, con cháu hiền năng như thế, việc gì cũng vừa ý mà còn chẳng thể buông nổi vạn duyên, nhất tâm niệm Phật thì là trời phụ người hay người đã phụ trời vậy? Chẳng lấy việc niệm Phật làm gấp, chỉ lấy chút điều lành nhỏ trong đời làm gấp, chẳng lấy việc lớn sanh tử làm đầu, chỉ coi phước báo nhân thiên là trọng thì là hạng chẳng hiểu trước, sau vậy!

Tuy cư sĩ chẳng cầu phước nhưng thường làm phước, tuy muốn thoát sanh tử nhưng lại bị trở vào trong sanh tử đều là do ông chẳng biết rằng mình đã lơ là cõi kia, đặt nặng cõi này đến nỗi bánh xe đã xoay ngang mà vẫn cứ mong tiến lên được! Bây giờ, việc chính của cư sĩ là nên tạ tuyệt việc đời, nhất tâm niệm Phật, kèm thêm hai chữ “trì trai” mới thật là tận mỹ!

Nói chung, chẳng thể dùng tán thiện khơi khơi để đạt đến cõi Phật Tây Phương, chẳng thể cậy vào lười biếng để thoát khỏi vạn kiếp sanh tử được! Vô thường nhanh chóng, ngày đêm tới ngay, há chẳng sớm lo liệu hay sao?
Nhận định:
Tạ tuyệt việc đời nhất tâm niệm Phật kiêm thêm hai chữ “trì trai” chính là nhiệm vụ quan trọng nhất của hạng người già niệm Phật chúng ta vậy!
14. Trích yếu Ngữ Lục của đại sư Mộng Ðông Triệt Ngộ đời Thanh

* Hết thảy pháp môn lấy minh tâm làm chính, hết thảy hạnh môn lấy tịnh tâm làm trọng.

Cách trọng yếu để minh tâm không gì bằng Niệm Phật. Nhớ Phật, niệm Phật, hiện tại, tương lai nhất định thấy Phật. Chẳng nhọc phương tiện, tự được tâm khai. [Như vậy], niệm Phật chẳng phải là cách trọng yếu để minh tâm hay sao? Cách trọng yếu để tịnh tâm cũng không gì bằng Niệm Phật. Một niệm tương ứng một niệm Phật; niệm niệm ứng với niệm niệm Phật.

Thanh châu gieo vào nước đục, nước đục chẳng thể không trong. Phật hiệu gieo vào tâm loạn, tâm loạn chẳng thể không thành tâm Phật. Như vậy, Niệm Phật chẳng phải là cách trọng yếu để tịnh tâm hay sao? Một câu Phật hiệu gồm đủ những điểm cốt yếu của cả hai môn Ngộ và Tu. Ðối với Ngộ thì tin ở trong ấy; đối với Tu thì chứng cũng ở trong ấy. Gồm đủ cả Tín, Giải, Tu, Chứng; những điểm cốt lõi của hết thảy các kinh Ðại Thừa, Tiểu Thừa không gì là chẳng vét sạch. Một câu Di Ðà chẳng phải là đạo chí yếu hay sao?

* Cái tâm trong một niệm hiện tiền của chúng ta là toàn chơn thành vọng, toàn vọng chính là chơn, trọn ngày bất biến, trọn ngày tùy duyên, chẳng nương theo duyên của Phật giới để nghĩ đến Phật giới thì lại nghĩ đến cửu giới. Chẳng nghĩ đến Tam Thừa sẽ nghĩ đến lục phàm. Chẳng nghĩ đến trời, người thì sẽ nghĩ đến tam đồ. Chẳng nghĩ đến quỷ, súc sẽ nghĩ đến địa ngục.

Hễ đã có tâm thì chẳng thể vô niệm. Tâm thể vô niệm chỉ có mình đức Phật chứng được; từ bậc Ðẳng Giác trở xuống thảy đều hữu niệm. Hễ khởi lên một niệm ắt sẽ lạc vào mười giới, mà chẳng có niệm nào ra ngoài mười giới vì không có gì ngoài mười pháp giới cả. Mỗi một niệm khởi lên là một duyên để thọ sanh. Nếu thực sự biết lý ấy mà chẳng niệm Phật thì có đời nào có!

Nếu tâm này có thể tương ứng với đại từ, đại bi, bình đẳng, công đức của y báo, chánh báo và tương ứng với vạn đức hồng danh thì đó chính là niệm Phật pháp giới.

Nếu có thể tương ứng với Bồ Ðề tâm, lục độ, vạn hạnh thì chính là niệm Bồ Tát pháp giới.

Nếu có thể tương ứng với tâm Vô Ngã và Thập Nhị Nhân Duyên thì là niệm Duyên Giác pháp giới.

Nếu có thể tương ứng với tâm Vô Ngã, quán sát Tứ Ðế thì là niệm Thanh Văn pháp giới.

Nếu có thể tương ứng với Tứ Thiền, Bát Ðịnh và Thập Thiện thượng phẩm thì là niệm Thiên pháp giới.

Nếu tương ứng với Ngũ Giới thì là niệm Nhân pháp giới.

Nếu có thể tu các pháp: Giới, Thiện v.v… nhưng còn ôm lòng sân hận, kiêu mạn, thắng bại sẽ lạc vào Tu La pháp giới.

Nếu tâm nghĩ đến mười điều ác thuộc phẩm hạ một cách thong thả, nhẹ nhàng thì lạc vào Súc Sanh pháp giới.

Nếu tâm nghĩ đến mười điều ác bậc trung nửa do dự, nửa hăng hái thì đọa vào Ngạ Quỷ pháp giới.

Nếu tâm tương ứng với Thập Ác bậc thượng một cách mạnh mẽ, hùng hổ thì đọa vào Ðịa Ngục pháp giới.

Thập Ác là giết, trộm, dâm, nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, tham, sân, tà kiến. Trái nghịch với mười điều này là Thập Thiện.

Hãy nên tự ngầm kiểm điểm những ý niệm phát khởi hằng ngày xem chúng tương ứng với pháp giới nào nhiều nhất, tương ứng với pháp giới nào mạnh mẽ nhất thì còn cần gì phải nhọc công hỏi người khác chỗ nào để ngày sau an thân lập mạng nữa!

* Một niệm hiện tiền của chúng ta duyên sanh vô tánh, vô tánh duyên sanh, nếu chẳng sanh Phật giới sẽ sanh trong cửu giới.

Nếu xét về duyên sanh vô tánh thì chúng sanh và Phật bình đẳng, là một, là không. Nếu xét về vô tánh duyên sanh thì mười giới sẽ hơn kém thật khác xa nhau!

Vua A Kỳ Ðạt lúc lâm chung bị người hầu [chuyên giữ việc] đuổi ruồi dùng phất trần phất qua mặt, vì khởi lên một niệm sân hận nên bị đọa làm rắn độc.

Một người đàn bà vượt sông, xẩy tay, đứa con rơi xuống nước; do cứu con nên cùng bị chìm. Vì bà từ tâm nên được sanh lên trời.

Chỉ do một niệm Từ hay Sân mà phân ra trời và súc sanh. Như vậy, há đâu chẳng dè dặt một niệm duyên sanh lúc lâm chung sao? Nếu như đem tâm này duyên niệm đức Phật Di Ðà, cầu sanh Tịnh Ðộ thì lẽ đâu chẳng được thấy Phật vãng sanh? Nhưng nhất niệm ấy chẳng thể cầu may mà có được, cần phải dốc tấm lòng thành, giữ cho tinh thuần.

Vì vậy, chúng ta phải ngàn niệm, vạn niệm một câu A Di Ðà này, niệm suốt ngày, suốt năm, không gì là chẳng vì để một niệm này được thuần thục mới thôi. Nếu quả thật đã đạt một niệm thuần thục thì lúc lâm chung sẽ chỉ có một niệm này, không còn niệm nào khác.

Trí Giả đại sư nói: “Hễ lâm chung tâm tại định thì tâm ấy là tâm thọ sanh Tịnh Ðộ”. Chỉ một niệm này, không niệm nào khác, há chẳng phải là tâm định hay sao? Nếu quả thật niệm được như thế mà chẳng thấy A Di Ðà Phật thì sẽ thấy ai đây? Chẳng sanh Tịnh Ðộ sẽ sanh cõi nào đây? Chỉ sợ chúng ta chẳng tự tin nổi đấy thôi!

* Thật vì sanh tử, phát Bồ Ðề tâm, dùng tín nguyện sâu để trì danh hiệu Phật. Mười sáu chữ ấy chính là một đại cương tông của pháp môn Niệm Phật.

Nếu chẳng phát khởi nổi tâm thật sự vì sanh tử thì hết thảy khai thị đều thành hý luận. Hết thảy sự khổ nặng nề trong thế gian không gì hơn được sanh tử. Không kết thúc được sanh tử thì sanh tử, tử sanh, sanh sanh, tử tử, ra khỏi bào thai này, vào trong bào thai khác, bỏ cái đãy da này để lấy cái đãy da khác, khổ chẳng kham nổi! Huống hồ, chưa ra khỏi luân hồi thì khó tránh khỏi đọa lạc: hễ một niệm sai lầm ắt lại vào trong nẻo ác. Tam đồ dễ vào, khó ra. Thời gian trong địa ngục dài lâu, khổ sở nặng nề.

Mỗi phen nghĩ đến, ngũ tạng như nung. Vì thế ta nay nên xót đau nghĩ đến sanh tử như làm tang cho cha mẹ, như cứu đầu cháy. Nhưng, ta có sanh tử, ta cầu xuất ly; hết thảy chúng sanh đều ở trong sanh tử, đều phải nên xuất ly. Bọn họ cùng ta vốn đồng một thể, đều là cha mẹ nhiều đời của ta, là chư Phật trong vị lai. Nếu chẳng nghĩ cách phổ độ họ, chỉ cầu tự lợi thì về lý đã khiếm khuyết mà tâm cũng chưa an.

Huống hồ, đại tâm chẳng phát thì ngoài chẳng thể cảm thông chư Phật, trong chẳng thể khế hợp bổn tánh, trên chẳng thể viên thành Phật đạo, dưới chẳng thể lợi khắp quần sanh thì ân ái từ vô thỉ làm sao giải thoát nổi, oan khiên từ vô thỉ làm sao cởi mở nổi? Tội nghiệp bao kiếp khó nỗi sám trừ, thiện căn bao kiếp khó bề thành thục. Tu hành điều gì cũng gặp nhiều chướng duyên mà dù có thành được cái gì thì cũng biến thành thiên tiểu. Vì thế, cần phải phát đại Bồ Ðề tâm tương xứng với tánh.

Ðại tâm đã phát thì nên tu đại hạnh. Nhưng trong hết thảy các hạnh môn, tìm lấy cách thực hành giản dị nhất, dễ thành tựu nhất, ổn thỏa, thích đáng tột bực nhất, viên đốn chí cực thì không có gì bằng dùng lòng tín nguyện sâu xa trì danh hiệu Phật vậy.

Tín vừa nói đó nghĩa là: lời nói phạm âm của đức Thích Ca Như Lai quyết không dối trá, tâm đại từ bi của đức Di Ðà Thế Tôn quyết chẳng nguyện xuông. Hễ lấy niệm Phật cầu sanh làm nhân ắt sẽ cảm quả gặp Phật vãng sanh giống như trồng dưa được dưa, gieo đậu được đậu; tiếng vang phải vọng theo tiếng, bóng phải nương theo hình. Nhân chẳng bỏ luống thì quả chẳng lỡ làng. Như vậy chẳng cần phải đợi hỏi Phật mới có thể tự tin.

Huống hồ tâm tánh một niệm hiện tiền của chúng ta suốt ngày tùy duyên, suốt ngày bất biến, ngang thì trọn khắp, dọc thì tột cùng, đương thể vô ngoại, Tịnh Ðộ Di Ðà đều ở trong ấy. Dùng cái tâm sẵn có Phật của mình để niệm đức Phật sẵn có trong tâm ta thì đức Phật sẵn có trong tâm ta lại chẳng tương ứng với cái tâm sẵn có Phật của ta hay sao? Vãng Sanh Truyện đã ghi đầy dẫy những tướng lành lúc lâm chung, há nào lừa dối ta ư?

Tin như thế rồi, tự mong muốn, ưa thích thiết tha. Từ sự vui trong cõi ấy, ngoái nhìn nỗi khổ trong Sa Bà thì lòng chán nhàm càng sâu, như lìa hầm xí, như ra khỏi lao ngục. Từ nỗi khổ Sa Bà, vọng trông niềm vui trong cõi kia, vui mừng, ưa thích càng thêm thiết tha như quay về cố hương, như rảo chân đến chỗ có của báu. Nói tóm lại là như khát nghĩ đến uống, như đói mong ăn, như bệnh khổ ước ao thuốc hay, như trẻ thơ mong nhớ mẹ, như tránh kẻ oan gia vác dao bức bách, như ngã vào nơi nước lửa mong gấp được kéo lên. Nếu quả thật có thể khẩn thiết như thế thì hết thảy cảnh duyên chẳng thể dẫn dắt, xoay chuyển được!

Sau đấy, dùng cái tâm tín nguyện ấy chấp trì danh hiệu. Trì một tiếng là thành một hạt giống cho chín phẩm sen. Niệm một câu là chánh nhân để vãng sanh. Phải sao cho tâm tâm tiếp nối, niệm niệm chẳng sai, chỉ một mực chuyên cần, chẳng tạp, chẳng gián đoạn, càng lâu càng vững, càng trì càng thiết tha, lâu ngày tự thành một khối, nhập nhất tâm bất loạn.

Nếu thật sự như thế mà chẳng được vãng sanh thì Thích Ca Như Lai hóa ra nói dối, Di Ðà Thế Tôn chỉ nguyện xuông; có lẽ nào như thế?
* Nơi ải đầu sanh tử của chúng ta chỉ có hai thứ lực:

a. Một là tâm tình lắm mối, thiên đọa chỗ nặng. Ðó là tâm lực.

b. Hai là như người mắc nợ, kẻ nào mạnh hơn sẽ kéo đi trước. Ðấy là nghiệp lực.

Nghiệp lực rất lớn, nhưng tâm lực càng lớn hơn vì nghiệp không có tự tánh, hoàn toàn nương vào tâm. Tâm có thể tạo nghiệp, tâm có khả năng chuyển nghiệp. Vì thế, cái gì tâm đặt nặng, nghiệp lực nào mạnh nhất sẽ quyết định việc thác sanh.

Nếu tâm chú trọng tu Tịnh nghiệp thì Tịnh nghiệp sẽ mạnh. Tâm nặng, nghiệp mạnh thì chỉ có hướng thẳng về Tây Phương, ngày sau báo hết mạng tận, quyết định sẽ vãng sanh Tây Phương, chẳng sanh vào chỗ nào khác nữa. Giống như cây to, tường to, lúc bình thường đã ngả về phía Tây thì đến ngày nào nó đổ xuống quyết sẽ chẳng ngã sang chỗ nào khác!

Thế nào là tâm chú trọng? Chúng ta tu tập Tịnh nghiệp thì cốt sao tin cho sâu, nguyện cho thiết. Do tín nguyện thâm thiết nên hết thảy tà thuyết chẳng thể lay động, lầm loạn đuợc; hết thảy cảnh duyên chẳng thể dẫn dắt, xoay chuyển được. Nếu ngay đang lúc tu Tịnh nghiệp, đại sư Ðạt Ma chợt hiện ra trước mặt bảo:

- Ngươi nên bỏ niệm Phật để thọ trì pháp Thiền Trực Chỉ Nhân Tâm Kiến Tánh Thành Phật.

Thì cũng nên hướng về Tổ làm lễ, thưa:

- Con đã thọ pháp môn Niệm Phật của đức Như Lai, phát nguyện thọ trì, trọn đời chẳng đổi, chẳng dám tự trái bổn thệ.

Dẫu cho đức Thích Ca Như Lai chợt hiện thân dạy:

- Trước đây ta nói pháp môn Niệm Phật chỉ là phương tiện nhất thời, ngươi hãy để pháp môn Niệm Phật lại, ta sẽ vì ngươi giảng pháp môn thù thắng.

Thì cũng hướng về Phật, dập đầu lễ, bày tỏ:

- Con trước đã bẩm thọ pháp môn Niệm Phật của Thế Tôn, phát nguyện hễ còn một hơi thở quyết chẳng đổi thay, chẳng dám tự trái nghịch bổn nguyện.

Dù Phật, Tổ hiện thân còn chẳng thay đổi niềm tin của mình, huống là những tà thuyết hư vọng của ma vương, ngoại đạo lại có thể lung lạc, lầm loạn mình được ư? Tin như thế mới đáng gọi là sâu. Dẫu cho bánh xe sắt nung đỏ xoay vần vũ trên đỉnh đầu, cũng chẳng vì nỗi khổ ấy mà thối thất ý nguyện vãng sanh. Dù cho ngũ dục thắng diệu của Luân Vương hiện tiền, cũng chẳng vì sự vui đó mà thối thất ý nguyện vãng sanh.

Thuận - nghịch tột bậc như thế vẫn chẳng đổi ý nguyện huống là những hoàn cảnh thuận nghịch nhỏ nhặt của thế gian lại có thể lay chuyển nổi hay sao? Nguyện như thế mới đáng gọi là thiết tha!

Tin sâu, nguyện thiết mới gọi là tâm đặt nặng để tu Tịnh nghiệp thì Tịnh nghiệp ắt sẽ mạnh mẽ.

Do tâm đặt nặng nên dễ thuần; do nghiệp mạnh nên dễ chín. Khi Tịnh nghiệp Cực Lạc đã chín thì nhiễm duyên Sa Bà liền hết nên khi lâm chung dù có muốn cảnh giới luân hồi tái hiện trước mắt, Tịnh Ðộ Di Ðà chẳng hiện diện thì cũng chẳng thể được!

Nhưng tín nguyện như thế cần phải gìn giữ cho thuần thì lúc lâm chung mới chẳng lạc vào ngõ rẽ.

* Biển cả Phật pháp, do Tín thì được vào. Trong pháp môn Tịnh Ðộ, Tín càng trọng yếu. Xưa kia, Vương Trọng Hồi hỏi Dương Vô Vi: “Niệm Phật như thế nào để khỏi bị gián đoạn?” Ông Dương đáp: “Hễ một phen tin rồi thì chẳng còn nghi nữa!”. Ông Vương vui vẻ ra đi. Lâu sau, ông Dương mộng thấy ông Trọng Hồi đến cảm tạ: “Nhân được ngài chỉ dạy, tôi được đại lợi ích, nay đã vãng sanh Tịnh Ðộ”.

* Một là lấy thật vì sanh tử phát Bồ Ðề tâm làm đường lối chung cho việc học đạo.

Hai là lấy tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật làm Tịnh Ðộ chánh tông.

Ba là lấy nhiếp tâm chuyên chú mà niệm làm phương tiện để thực hành.

Bốn là lấy việc chiết phục phiền não hiện hành làm trách vụ trọng yếu để tu tâm.

Năm là lấy việc giữ vững tứ trọng giới pháp làm căn bản để nhập đạo.

Sáu là lấy các thứ khổ hạnh để làm trợ duyên tu đạo.

Bảy là lấy nhất tâm bất loạn làm chỗ quy túc của Tịnh hạnh.

Tám là lấy các thứ tướng lành để chứng nghiệm việc vãng sanh.

Tám điều này ai nấy đều nên hiểu biết tường tận. Người tu Tịnh nghiệp chẳng thể chẳng biết.


* Chấp trì danh hiệu là phải khư khư ôm giữ, giữ chắc trong tâm chẳng hề tạm quên, hễ hơi có một niệm gián đoạn hoặc xen tạp thì chẳng phải là chấp trì. Niệm niệm liên tục chẳng hở, chẳng tạp là chơn tinh tấn. Tinh tấn chẳng thôi mới dần dần chứng nhập Nhất Tâm Bất Loạn, viên thành tịnh nghiệp. Nếu đạt đến Nhất Tâm Bất Loạn mà vẫn tinh tấn chẳng ngơi thì sẽ thấy mình khai trí huệ, phát biện tài, đắc thần thông, thành Niệm Phật tam muội; cho đến các thứ tướng lành linh dị đều hiện tiền cả! Nhưng hành nhân chớ nên mang lòng cầu được chứng nghiệm, chỉ nên tận sức cho đạt tới Nhất Tâm Bất Loạn mà thôi!

* Lúc niệm Phật nên buông xuống vạn duyên, chỉ đề giữ một niệm như cứu đầu đang bị cháy, như làm ma chay cho bố mẹ, như gà ấp trứng, như rồng dưỡng châu, chẳng cầu điều chứng nghiệm nhỏ nhặt, chẳng cầu mau thành, chỉ nhất tâm thường nương theo niệm. Ðấy gọi là vô thượng thâm diệu Thiền. Như vậy thì căn, thân, thế giới đều ngầm biến chuyển theo tâm mình trong mỗi niệm, phàm tâm, nhục nhãn làm sao thấy biết được nổi!

Ðến lúc báo hết, mạng tận, Di Ðà và thánh chúng chợt hiện trước mặt, hoặc thấy mùi hương lạ, nhạc trời, các tướng thiêng lành; người đời mới cho là Tịnh nghiệp thành thục, nhưng có phải là Tịnh nghiệp đến lúc đó mới thành đâu?
* Niệm Phật nên sanh bốn tâm:

- Một là từ vô thỉ đến nay tạo nghiệp dường ấy, nên sanh hổ thẹn.

- Hai là được nghe pháp môn này nên sanh tâm vui mừng.

- Ba là vô thỉ nghiệp chướng, pháp này khó bề gặp gỡ, nên sanh tâm đau xót.

- Bốn là Phật từ bi như thế nên sanh tâm cảm kích.

Có được một trong bốn tâm này thì Tịnh nghiệp mới có thể thành tựu.

Niệm Phật phải lâu bền, không được gián đoạn. Gián đoạn thì Tịnh nghiệp chẳng thành được nổi!

Hãy nên dũng mãnh, chẳng nên lười mỏi; lười mỏi thì Tịnh nghiệp cũng chẳng dễ thành. Nếu lâu dài mà chẳng dũng mãnh thì sẽ thối thất. Dũng mãnh mà chẳng lâu bền thì chẳng tiến triển nổi!


* Trong lúc niệm Phật chẳng tưởng đến gì khác. Chẳng tưởng đến điều gì khác chính là Chỉ. Trong lúc niệm Phật nên rành rẽ phân minh; có thể rành rẽ phân minh thì chính là Quán. Trong một niệm đủ cả Chỉ lẫn Quán, không cần có Chỉ - Quán nào khác. Chỉ là nhân của Ðịnh; Ðịnh là quả của Chỉ. Quán là nhân của Huệ; Huệ là quả của Quán. Một niệm bất sanh, rành rẽ phân minh chính là Tịch mà Chiếu. Rành rẽ phân minh, một niệm chẳng sanh chính là Chiếu mà Tịch.

Có thể làm được như vậy thì Tịnh nghiệp ắt thành. Thành được như vậy thì là thượng phẩm. Từ một người cho đến trăm, ngàn, vạn, ức người tu như thế thì đều thành tựu như thế. Người niệm Phật chẳng nên lưu tâm hay sao?


Nhận định:
Ðại Sư ngàn lời muôn lẽ chỉ nhằm dạy ta thật vì sanh tử, phát Bồ Ðề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật. Trong lúc niệm Phật nên buông xuống vạn duyên, chỉ giữ mỗi một niệm, chẳng cầu sự chứng nghiệm nhỏ nhặt, chẳng cầu chóng thành tựu, chỉ nhất tâm dựa vào niệm, niệm đến mức không còn tưởng gì khác thì đó là Chỉ. Niệm đến mức rành rẽ phân minh thì đó là Quán.

Trong một niệm đủ cả Chỉ lẫn Quán, Tịch, Chiếu không hai. Nếu làm được như vậy thì ắt sanh trong Thượng Phẩm. Xin từ đây mà vào, nhiếp tâm chuyên chú mà niệm, chẳng hở, chẳng tạp, tinh tấn chẳng ngơi.


15. Trích yếu các sách Tịnh Nghiệp Tri Tân và Niệm Phật Bách Vấn của đại sư Ngộ Khai Khoát Nhiên đời Thanh

* Mở mắt niệm Phật, tâm dễ tán động nên có thể nhắm mắt niệm. Trong lúc niệm Phật, để tâm rỗng rang, đề khởi Phật hiệu, vừa niệm liền nghe, nghe rồi liền niệm, liên miên chẳng tuyệt. Thực hành lâu ngày ắt sẽ có lúc tương ứng. Chỉ cốt từng chữ chắc thật phát xuất từ ý niệm; từng câu phát sanh từ nơi cầu sanh Tây Phương.

Lại có một pháp hệ niệm: Lúc không niệm Phật thì thường gởi ý niệm nơi thân Phật A Di Ðà, tâm thường thanh tịnh, chẳng động, chẳng lay thì sẽ có công hiệu.

* Hỏi: Tạp niệm từ đâu đến?

Ðáp: Thân người chỉ có một niệm, ý niệm niệm Phật là nó mà ý niệm [xen lẫn] tạp niệm cũng là nói, vì một niệm ấy chẳng thể hoàn toàn quy về niệm Phật, nên có chưa hoàn toàn thuộc về Phật

Hỏi: Làm thế nào để trừ được tạp niệm?

Ðáp: Chẳng tiêu trừ được. Chỉ nên tự phấn chấn tinh thần, đem một niệm ấy hoàn toàn hướng đến Phật thì tạp niệm tự mất.

Hỏi: Nhưng nếu tinh lực yếu mệt chẳng thể khiến cho tạp niệm mất được thì lại nên làm như thế nào?

Ðáp: Ðạo lực chưa đầy đủ nên hay có nhiều tán loạn, thâu nhiếp lục căn dần dần quy về thanh tịnh. Lúc tạp niệm khởi, chẳng cần quan tâm đến chúng, ta chỉ biết đến niệm này, lại càng chăm chú nhìn vào tượng Phật, hoặc chú tâm nghĩ nhớ tượng Phật thì tạp niệm tự mất.

Nhưng lâu dần tạp niệm lại khởi, thậm chí vấn vương, quấy nhiễu chẳng cởi bỏ được thì bất tất phải nóng nảy, cứ lắng trong tâm tư khiến cho sáu chữ hồng danh: mỗi chữ theo ý niệm khởi lên thốt ra từ miệng, tai lắng nghe tiếng niệm rõ ràng, rồi lại từ trong tâm niệm lưu xuất. Tuần hoàn đan kín như thế chẳng để gián đoạn thì tạp niệm tự mất.

Nếu có kẻ độn căn chẳng làm được như thế thì sáu chữ Nam Mô A Di Ðà Phật, cứ hễ niệm một tiếng liền nhớ chữ Nam, niệm hai chữ nhớ chữ Mô, rồi đến chữ A, chữ Di, chữ Ðà, chữ Phật, rồi lại chữ Nam. Liên hoàn ghi nhận chẳng dứt thì hết thảy tạp niệm không còn chỗ nào để phát khởi được!
Nhận định:
Nhắm mắt, trống lòng, niệm ra liền nghe, thâu nhiếp sáu căn, dần dần quy về thanh tịnh thì tạp niệm liền mất. Nương theo thứ tự để ghi nhớ từng chữ cũng như phép “mười niệm nhớ số” của Tổ Ấn Quang đều là những phép nhiếp tâm rất tuyệt, càng làm thử càng thấy hiệu nghiệm!
16. Trích yếu sách Bốn Mươi Tám Pháp Niệm Phật của đại sư Diệu Không đời Thanh
* Quán đã chẳng dễ thành, Giới cũng chẳng dễ giữ hoàn toàn; các phước chẳng thể mong đạt được trong một sớm một chiều. Diệu ngộ chẳng phải là điều kẻ độn căn đạt nổi. Ðại nguyện kiên cố càng hãn hữu. Nếu lại chẳng biết nương vào việc thật thà, chất phác trì danh để ngoi đầu lên thì sẽ phải chìm đắm dài lâu trong biển khổ, mãi mãi chịu luân hồi, ngàn đức Phật từ bi cũng khó thể cứu độ.

Thật thà, chất phác trì danh là chẳng cầu danh lợi, cũng chẳng phô phang tài năng, ngoài bốn chữ A Di Ðà Phật chẳng có thêm một mảy vọng tưởng nào nữa!

* Ðã dùng tâm ấy niệm Phật thì đối với hết thảy những sự tạp thiện, tạp ác, chẳng cần phải bận tâm đến nữa; tức là: đối với những việc bất đắc dĩ để ứng phó vạn duyên trong hằng ngày hễ làm xong liền buông bỏ, chẳng để chúng vương vấn chướng ngại tâm niệm của mình.

Ðã dùng cái miệng này để niệm Phật thì chẳng để hết thảy những chuyện giết, trộm, dâm, dối bén mảng nơi cửa miệng. Nếu trót bàn đến, liền nghĩ: người niệm Phật chẳng nên như thế, mạnh mẽ niệm Phật mấy câu, dùng sự cảnh tỉnh ấy để tẩy rửa sạch sẽ. Đã dùng cái thân này để niệm Phật thì đi, đứng, nằm, ngồi phải thường giữ cho đoan chánh. Thân nếu đoan chánh thì tâm thanh tịnh.

Niệm Phật một tiếng, tay lần qua một hạt. Chỉ niệm bốn chữ, chớ xen lẫn sáu chữ vì niệm bốn chữ dễ thành một khối. Hoặc là niệm đến chữ A thì lần qua một hạt, hoặc niệm đến chữ Ðà thì lần qua hạt khác. Hoạch định khuôn phép chớ để lầm loạn. Ðấy là cách mượn xâu chuỗi để thúc liễm cái tâm.

Nếu khi thần trí hôn trầm hoặc vọng tưởng bừng bừng nổi lên thì phải phấn chấn tinh thần, lớn tiếng niệm Phật vài trăm câu để tự thay đổi hoàn cảnh.

Vả lại, nhĩ căn là lanh lợi nhất, ngoại duyên dễ xâm nhập, tiếng cảm tâm động, tạp niệm tơi bời. Chỉ có cách lớn tiếng niệm Phật mới có thể khiến cho nhĩ căn lay động tâm linh, tâm nghe tiếng chính mình, từng tiếng rõ ràng thì hết thảy sự đúng, việc sai tự nhiên mất đi.

Nếu tinh thần tán loạn hoặc lúc quá mệt nhọc thì chẳng cần niệm lớn tiếng, chỉ cần thâu liễm tâm trí, niệm khe khẽ, đợi khi hơi thở sung mãn trở lại, tinh thần hưng phấn mới lớn tiếng niệm Phật.

Nếu tâm và hơi thở chẳng phù hợp nhau, hoặc gặp chỗ không thuận tiện thì chỉ động môi lưỡi, dùng phép Kim Cang Trì, chẳng nệ nhiều, ít, cốt sao mỗi chữ từ trong tâm phát ra. Tâm nhớ đến rồi mới động lưỡi, lưỡi động rồi lại trở về tâm. Lưỡi đã phát ra tiếng, tai lại tự nghe. Ðấy là tâm niệm, tâm nghe vậy.

Tâm niệm tâm nghe là mắt chẳng nhìn bậy, mũi chẳng ngửi xằng, thân chẳng vọng động, vị chủ nhân ông được bốn chữ A Di Ðà Phật mời xuất hiện ra.

Nếu hiềm pháp Kim Cang Trì còn thấy có dấu vết thì tự xưa có phương tiện cực khéo: chẳng cần động miệng thốt ra tiếng, chỉ cần buộc tâm vào một duyên, khẽ động lưỡi cho chạm vào răng cửa, tâm và niệm ứng theo nhau, âm thanh rành rẽ, tiếng niệm chẳng thoát qua kẽ răng. Tánh nghe dung thông bên trong: Tâm in theo cuống lưỡi; cuống lưỡi lôi kéo niệm căn, từ nghe nhập lưu, xoay trở lại nghe nơi tự tánh.

Ba thứ ấy dung hội lẫn nhau, niệm niệm viên thông, lâu dần sẽ thành duy tâm thức quán.


* Nếu lắm hôn trầm thì nên vừa đi kinh hành vừa trì. Nếu lắm tán loạn thì ngồi ngay ngắn mà trì, hoặc là quỳ, hoặc đứng, thậm chí là tạm nằm cũng đều làm đủ mọi phương tiện, tùy theo sức trì danh để tự cứu. Cốt sao bốn chữ hồng danh chẳng chịu tạm quên trong một niệm. Ðó chính là thuật trọng yếu để hàng phục tâm ma.

Chẳng luận là chỗ sạch hay chỗ dơ, rảnh rang hay bận rộn, cao hứng hay thất ý, chẳng cần biết là niệm được hay niệm chẳng được, chỉ thề rằng cái tâm niệm Phật này cho đến chết cũng chẳng dứt niệm ấy. Vì sao vậy? Nếu hễ một niệm niệm Phật đứt một cái thì hết thảy các tạp niệm: thiện, ác, vô ký lại phát sanh.

Dẫu cho lúc đang đại tiểu tiện, lúc đàn bà đang sanh nở vẫn chỉ biết đến cái niệm. Càng khổ càng niệm, càng đau càng niệm. Sáng cũng niệm, chiều cũng niệm, vô sự cũng niệm, hữu sự cũng niệm, chỗ tịnh cũng niệm, chỗ uế cũng niệm. Chẳng có một niệm nào chẳng phải là Phật thì dù có lúc gián đoạn việc niệm Phật khi phải đối phó việc hằng ngày thì cũng chỉ là gián đoạn việc niệm ra lời, chứ chẳng gián đoạn mạng mạch thật sự. Công phu đến mức như thế thì tâm dễ thành một phiến.
* Hai thời sáng tối, hoạch định thường khóa, từ nay đến chết chẳng tăng, chẳng giảm. Ngoài ra, trong mười hai thời, hễ có thể niệm được một câu liền niệm ngay một câu; có thể niệm được mười câu thì niệm ngay mười câu. Chỉ cốt sao giữa trăm điều bận rộn, hễ rảnh được một khắc liền buông thân tâm xuống, trì tụng rành rẽ, cốt sao miên mật, liên tục, phấn chấn, thâu liễm thì mới chẳng lỡ uổng tấc bóng.

Nếu cứ niệm qua quít, chẳng thể chu toàn sự tu tập, luống uổng ngày tháng dần trôi, cô phụ tứ ân thì một mai vô thường chợt tới, biết ứng phó ra sao?


* Lúc đối trước tượng thì coi tượng ấy là đức Phật thật, hãy nên mặt đối mặt, tâm tưởng niệm, thành kính. Thành kính tột bậc ắt sẽ linh cảm. Nếu lúc không có tượng Phật thì nên ngồi ngay ngắn, mặt hướng về phương Tây. Lúc khởi tâm động niệm thì nên nghĩ quang minh của đức A Di Ðà Phật ngưng tụ trên đầu mình; từng chữ, từng câu chẳng để luống uổng thì cũng có thể tiêu diệt được hắc nghiệp.
* Phàm gặp hết thảy cảnh vui mừng, sung sướng xảy tới thì nên biết những điều vui ấy là hư huyễn, chẳng thường hằng. Nhân lúc tốt đẹp ấy, hãy hồi quang niệm Phật, nương theo quang minh của Phật hòng thuận theo cảnh đó trừ khử ít nhiều ác niệm [để được] cát tường liên miên, tu hành như ý; thẳng đến khi lâm chung vãng sanh Cực Lạc, há chẳng phải là vui sướng lắm sao?

Phàm khi gặp hết thảy nghịch cảnh xảy tới thì đều coi chúng là những duyên mạnh mẽ mình phải đối diện, chẳng nên tái khởi ác niệm, chỉ thuận theo mà chịu đựng. Cái gì tránh được thì tránh, tiêu được cái gì thì tiêu, chỉ thuận theo nhân duyên, chớ quên niệm Phật. Ðược Phật quang gia hộ thì cảnh duyên sẽ xoay chuyển. Mỗi khi ác quả trong đời này hay đời trước thành tựu thì khổ báo ắt phải xảy đến. Vì vậy, khổ một phần chính là ác một phần; đừng phó mặc vận mạng rồi chẳng tu tập, chỉ nên thẹn mình chẳng sớm tu hành.

Mỗi khi nghĩ đến điều ấy, lông trên thân dựng cả lên, ngũ tạng tựa hồ rách toạc, bi thương phẫn uất, đau đớn chẳng muốn sống nữa. Ðược như vậy thì mỗi chữ đều từ gan, tủy tuôn ra; vậy mới là niệm Phật chơn chánh.
* Hễ thấy kẻ khổ não thì trước hết phải an thân họ, rồi mới chỉ dạy, khai phát tâm họ, khuyên họ niệm Phật. Nói cách khác: cứu khổ một lúc thì bố thí là cần kíp nhất, nhưng để cứu nỗi khổ bao kiếp thì niệm Phật là trọng yếu nhất.

Hoặc nếu thấy người hay vật mắc nạn, sức mình chẳng cứu nổi thì nên gấp rút vì họ niệm Phật để an ủi hồn thức của họ.

Hoặc trong đêm thanh, tụng chú lớn tiếng để thí cho quỷ thần. Phàm năm nào có cuộc chiến lớn, hay dịch bịnh to thì suốt năm canh trì tụng danh hiệu Phật để tiêu tan oán thù, dịch lệ.

Hãy nghĩ rằng một tiếng niệm A Di Ðà Phật của mình trên thì thấu tới trời Hữu Ðảnh, dưới suốt tột phong luân; chúng sanh nhiều trong các cõi nước nhiều như số bụi trần đều được lợi ích. Sự bố thí ấy chẳng thể nghĩ bàn được!


* Tiếng niệm Phật đã thuần thục, trong Lục Trần chỉ có Thanh Trần [mạnh mẽ nhất], công dụng của sáu căn toàn nhờ vào tai. Thân cũng chẳng tự nhận biết nó xoay chuyển như thế nào, lưỡi cũng chẳng tự nhận biết nó chạm, đụng ra sao, ý cũng chẳng tự nhận biết nó phân biệt thế nào, mũi chẳng tự biết nó hô hấp ra sao, mắt cũng chẳng tự biết nó nhắm mở ra sao. Hai thứ viên thông của ngài Quán Âm và Thế Chí chỉ là một. Căn tức là Trần, Trần tức là Căn. Căn hợp với Trần là Thức. Mười tám giới hòa tan thành một giới. Lúc mới thì chưa điều hòa được, lâu ngày sẽ tự nhập.

Phàm khi niệm Phật thì chọn chỗ đất sạch rộng chừng bốn năm thước, đi kinh hành xoay theo chiều phải một vòng, sau đó mới từ từ cất tiếng niệm, dần dần niệm lớn hơn.

Niệm như thế hết ba vòng xong, tự biết tiếng phát xuất từ tâm mình thấu suốt tâm linh, xoay chuyển khắp hư không, bao trùm trọn vẹn mười phương, trọn khắp pháp giới. Ðấy là an trụ thân, tâm và thế giới trong câu niệm Phật. Ðây là an trụ thân, tâm và thế giới trong câu niệm Phật để niệm Phật vậy. Ðây là một cảnh thù thắng để diệt trừ những cấu nhơ trong tâm, hãy nên siêng tu tập.

Tiếng là tiếng của tâm (tâm thanh), ánh sáng cũng là ánh sáng của tâm (tâm quang). Chỗ tâm thanh vang vọng cũng chính là chỗ tâm quang chiếu thấu. An trụ trong tâm thanh niệm Phật chính là an trụ trong quang minh niệm Phật. Ðây cũng là cảnh giới thù thắng có thể diệt được cấu nhơ trong tâm, hãy nên siêng tu tập.

Tâm thanh xoay chuyển, tâm quang chiếu rực, tâm thể tự nhiên hiển lộ. Một phiến chơn tâm này như bức gương tròn lớn, suốt tỏ không gì che lấp. Mười phương, ba đời, ta, Phật, chúng sanh, đời trược, chốn khổ, cõi tịnh, đài sen đều là hình ảnh in bóng trong gương. Thanh ở trong quang, quang lại phát xuất từ gương. Ðây là cảnh giới thù thắng nhất có thể vĩnh viễn diệt trừ được cấu nhơ trong tâm, càng phải nên lưu tâm tu tập.

* Chẳng tạp là Chỉ, Chỉ là cơ sở của Ðịnh vì tạp niệm dứt thì chánh niệm hiển hiện.

Tạp niệm có ba loại: một là thiện niệm, hai là ác niệm, ba là vô ký niệm (không thiện, không ác). Trừ sạch ba thứ ấy thì mới là chẳng tạp.

Tâm phải vắng lặng, có vắng lặng thì thiện niệm, ác niệm mới chẳng sanh. Tâm cần phải tỉnh thức, tỉnh thức thì vô ký niệm mới chẳng sanh.

Ngoài Phật không có niệm nên thường vắng lặng; trong niệm có Phật nên thường tỉnh thức.

Chẳng trụ là Quán. Quán là cốt lõi của Huệ. Một câu trước đã qua, một câu sau chưa tới, một câu hiện tại cũng chẳng trụ, phân minh rành rành nhưng bất khả đắc; tuy bất khả đắc nhưng phân minh rành rành.

Nếu khi niệm Phật chẳng hôn trầm, chẳng tán loạn thì Chỉ, Quán, Ðịnh, Huệ viên thành trong mỗi niệm.

Trì giới cấm của Phật để trị thân, trì danh hiệu Phật để trị tâm. Trì lâu ngày thì tâm thuần, trì lâu ngày thì tâm rỗng không; tánh của niệm và tánh của giới chẳng có hai vậy. Khư khư trì giới chẳng để sơ xảy, khắng khít niệm Phật thì lúc lâm chung sẽ đánh nát Quỷ Môn Quan, trốn khỏi tam giới. Nếu trì giới đến mức sâu dày thì đem [công đức ấy] hồi hướng Tây Phương, ắt sanh Trung Phẩm. Nếu chưa làm được như vậy thì hãy siêng niệm Phật như cứu đầu cháy.

Phải biết rằng người niệm Phật thì tâm kẻ ấy chính là tâm từ của Phật, hành bi hạnh của Phật, phát nguyện rộng lớn tế độ chúng sanh, vì khắp hết thảy các cấu nhiễm oán triền mà sám hối, hết thảy công đức dù nhỏ nhặt hay to lớn đều hồi hướng Tây Phương. Như vậy mới là chánh nhân của Niệm Phật vậy.

* Một việc vừa xong, một lời vừa dứt, còn chưa niệm Phật ngay mà bốn chữ danh hiệu Phật đã cuồn cuộn hiện ra thì đó là dấu hiệu tam muội dễ thành. Trì danh chẳng lười nhác, khoan khoái lại càng khoan khoái hơn. Lúc niệm Phật trì rành rẽ bốn chữ này, ý niệm chẳng chuyển. Bốn chữ bỗng nhiên tạm dừng, nhưng cũng chẳng có niệm nào nghĩ đến bốn chữ này, mà cũng chẳng có niệm nào rời khỏi bốn chữ này, cũng chẳng có niệm nào ra ngoài bốn chữ này. Như vậy, có thể nói là tạm đắc cảnh giới thù thắng, chứ chưa phải là chơn tâm rỗng không.

Nhưng cứ chăm chỉ niệm Phật thì cảnh ấy sẽ càng hiện, tâm dần dần trống không. Nếu như một niệm tâm trống không rồi dần dần hôn trầm thì là vô huệ.

Phải biết là tâm càng trống không thì niệm càng nhạy, tâm càng không thì niệm càng tịnh; vì ta ở trong tâm Phật niệm đức Phật trong tâm của ta, không với chẳng không còn ở chỗ nào đây? Giống như mặt trời và mặt trăng xoay chiếu thế gian; diệu giác viên minh hệt như thế ấy.

* Trong khi hoạn nạn mà phát tâm niệm Phật ắt sẽ có linh ứng lạ lùng. Tuy khắp nơi giặc giã, cả làng tật dịch mà cầu Phật gia hộ cho thì một người niệm, một người an, trăm người niệm, trăm người an. Không phải là Phật có lòng riêng tư, lúc nào ngài cũng ở trong ánh sáng bình đẳng, vô tâm ứng hiện. Vì cớ sao? Vì động niệm ra tiếng thì cảm được quang minh của Phật chiếu trên đỉnh đầu mình, tự nhiên niệm niệm đầy đủ, niệm niệm bền chắc, niệm niệm dài lâu, được quang minh của Phật gia bị, thiện thần ủng hộ, tự có thể lìa nạn. Chớ nên thay đổi niệm.

* Lúc lâm chung nếu có thể niệm lớn thì niệm lớn tiếng, chỉ có thể niệm nhỏ tiếng thì niệm nhỏ tiếng. Hoặc nếu như niệm lớn, niệm nhỏ cũng đều chẳng nổi thì hãy đem bốn chữ [Phật hiệu] thầm nhớ trong lòng, chớ để quên mất. Người hầu hạ chung quanh nên luôn luôn dùng bốn chữ ấy để nhắc nhở, cảnh tỉnh. Phải biết là trăm kiếp, ngàn đời ta bị lạc lối toàn là do lúc ấy chẳng giữ được một niệm phân minh. Vì sao vậy? Luân hồi sáu nẻo đều là do một niệm làm chủ. Nếu một niệm chuyên chú nơi Phật thì dù thân xác tan hoại, thần thức vẫn chẳng tán loạn, liền nương theo một niệm mà vãng sanh Tịnh Ðộ vậy!

Than ôi! Chỉ cốt phải nhớ bốn chữ A Di Ðà Phật đừng quên!


Каталог: Luan
Luan -> Trung tâM ĐÀo tạo mạng máy tính nhất nghệ 105 Bà Huyện Thanh Quan – 205 Võ Thị Sáu, Q3, tp. Hcm
Luan -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
Luan -> Phần mở đầu Tính cấp thiết của đề tài
Luan -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Luan -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
Luan -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
Luan -> MỞ ĐẦu tính cấp thiết của đề tài
Luan -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
Luan -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
Luan -> Tính cấp thiết của đề tài

tải về 1.38 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương