NIỆm phật pháp yếU 念佛法要 Cư sĩ Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính sưu tập (惕園毛凌雲敬緝)



tải về 1.38 Mb.
trang3/19
Chuyển đổi dữ liệu28.07.2016
Kích1.38 Mb.
#8425
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   19

Nhận định:
Người biết chữ có thể tự tuân theo giáo pháp niệm Phật, chẳng luận là sự trì hay lý trì, chỉ cốt chuyên chí bất nhị, niệm niệm tiếp nối thì sẽ tự thành tam muội, chẳng cần phải cầu được khẩu truyền, tâm truyền; nhưng chẳng được chấp lý phế sự, chiêu cảm cái họa đọa lạc!

10. Trích yếu Mộng Du Tập của đại sư Hám Sơn Ðức Thanh đời Minh
* Phật dạy pháp tu hành thoát sanh tử có nhiều môn phương tiện, chỉ có pháp Niệm Phật Cầu Sanh Tịnh Ðộ là thiết yếu, nhanh tắt nhất.

Kinh dạy: “Muốn tịnh cõi Phật thì nên tịnh tự tâm” nên nay tu hành Tịnh nghiệp phải lấy tâm trong sạch làm gốc. Muốn tịnh cái tâm mình thì điều trước tiên là giới căn phải thanh tịnh vì ba điều ác nơi thân, bốn điều ác nơi miệng, ba điều ác nơi ý chính là mười nghiệp ác tạo thành khổ nhân của tam đồ.

Ðiểm cốt yếu của trì giới là trước hết phải tam nghiệp thanh tịnh thì tự tâm thanh tịnh. Thân chẳng giết, trộm, dâm thì thân nghiệp sẽ thanh tịnh. Miệng chẳng nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, ác khẩu thì khẩu nghiệp sẽ thanh tịnh. Ý chẳng tham, sân, si thì ý nghiệp sẽ thanh tịnh. Dứt vĩnh viễn mười điều ác như thế thì tam nghiệp trong suốt như băng. Ðấy là yếu quyết để tịnh tâm. Trong cái tâm thanh tịnh ấy, nhàm chán nỗi khổ Sa Bà, phát nguyện vãng sanh An Dưỡng, lập chánh hạnh Niệm Phật.

Ðiều cốt yếu của Niệm Phật là tâm thiết tha: trước hết phải đoạn ngoại duyên, chỉ vâng giữ nhất niệm, lấy một câu A Di Ðà Phật làm mạng sống, niệm niệm chẳng quên, tâm tâm chẳng đoạn. Trong mười hai thời, đi, đứng, nằm, ngồi, cầm muỗng, co tay, gập, xoay, cúi, ngửa, động, tịnh, rảnh, bận, trong hết thảy lúc chẳng ngu, chẳng muội, không có các duyên khác. Dụng tâm như vậy lâu ngày thuần thục; thậm chí trong mộng cũng chẳng quên mất. Ngủ hay thức giống hệt nhau thì công phu miên mật đúc thành một khối. Ðấy là lúc đã đắc lực vậy.

Nếu niệm đến mức nhất tâm bất loạn thì khi mạng chung, cảnh giới Tịnh Ðộ hiện tiền, tự nhiên chẳng bị sanh tử giam cầm nên cảm được Phật A Di Ðà phóng quang tiếp dẫn. Ðấy chính là cách hiệu nghiệm để nhất định được vãng sanh.
* Tu Huệ bằng quán tâm; tu phước nơi vạn hạnh. Quán tâm lấy niệm Phật làm quan trọng nhất, vạn hạnh lấy hạnh cúng dường làm đầu. Hai điều ấy bao gồm hết thảy.

Trong hết thảy những việc làm hằng ngày của chúng ta, khởi tâm động niệm đều là vọng tưởng, là gốc sanh tử; cho nên chiêu lấy quả khổ. Nay đem cái tâm vọng tưởng chuyển thành tâm niệm Phật thì mỗi niệm trở thành cái nhân Tịnh Ðộ, tạo thành quả vui. Nếu niệm Phật tâm tâm chẳng dứt thì vọng tưởng tiêu diệt, tâm quang phát lộ, trí huệ hiện tiền, trở thành Pháp Thân của Phật.

Sở dĩ chúng sanh bần cùng không phước huệ là do đời đời, kiếp kiếp chưa từng một niệm cúng dường Tam Bảo để cầu phước huệ, chỉ lăm lăm vì cái thân sanh tử khổ sở, niệm niệm mong cầu sự vui ngũ dục để vun bồi cội khổ. Nay đem cái tâm tham cầu cho mỗi một mình ta chuyển thành tâm cúng dường Tam Bảo, đem cái thân mạng hữu hạn nương theo sức mạnh của tâm cúng dường mười phương thì dù chỉ cúng một nén hương, một cành hoa, một hạt gạo, một cọng rau, phước ấy cũng vô tận! Vì vậy, cảm được Phật quả, Hoa Tạng trang nghiêm tạo thành cảnh thọ dụng của chính thân mình trong tương lai. Bỏ qua những điều này thì không hạnh mầu nhiệm nào khác để thành Phật nữa cả!
* Niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ là muốn rốt ráo đại sự sanh tử. Nếu chẳng biết cội gốc sanh tử thì biết hướng về đâu để giải quyết trọn vẹn cho được? Cổ nhân nói:

Nghiệp chẳng nặng chẳng sanh Sa Bà;

Ái chẳng đoạn chẳng sanh Tịnh Ðộ.

Thì biết là Ái chính là cội rễ của sanh tử. Từ khi có sanh tử đến nay, đời đời kiếp kiếp xả thân, thọ thân đều là trôi lăn theo ái dục.

Nay niệm Phật thì trong từng niệm phải đoạn ái căn ấy; tức là trong những cảnh duyên tiếp xúc hiện hữu hằng ngày, người tại gia niệm Phật mắt nhìn thấy con cái, cháu chắt, gia duyên, tài sản, không gì là chẳng yêu mến; không một niệm nào, không một sự gì chẳng phải là kế sách để tăng trưởng sanh tử.

Ngay trong lúc niệm Phật nếu trong tâm chưa từng có một niệm buông bỏ được ái căn thì như vậy chỉ càng niệm Phật, ái chỉ càng thêm lớn. Nếu như có lúc khởi tâm quyến luyến con cái thì hãy hồi quang xem xét một câu niệm Phật có thật sự địch nổi ái niệm ấy hay không? Có thật sự đoạn nổi ái đó hay không? Nếu chẳng thể thật sự đoạn nổi ái ấy thì làm sao rốt ráo thoát khỏi sanh tử được nổi?

Do ái duyên quen thói đã từ nhiều đời, còn niệm Phật thì chỉ mới phát tâm nên còn sơ sài. Lại do niệm Phật chẳng chơn thật, thiết tha nên chẳng đủ sức. Nếu chẳng thể khống chế nổi ái cảnh hiện tiền thì lúc lâm chung sẽ chỉ thấy sanh tử ái căn hiện tiền, trọn chẳng thể làm chủ cảnh duyên được nổi! Vì thế khuyên người niệm Phật:

Ðiều quan trọng nhất là tâm sanh tử tha thiết. Muốn thiết tha đoạn cái tâm sanh tử tha thiết, trong mỗi niệm phải đoạn dần gốc sanh tử thì mỗi niệm đều là lúc liễu sanh tử. Nghĩa là: Những việc trước mắt đều là chuyện sanh tử, trước mắt thấu rõ sanh tử là không.

Niệm niệm chơn thành, thiết tha như thế; [giống như] từng nhát dao cắt xuống đều tuôn máu. Nếu [tu tập như thế mà] chẳng được thoát khỏi sanh tử thì chư Phật đều mắc tội vọng ngữ hết!
* Học đạo chẳng có tài khéo chi khác, chỉ cốt biến cái sống thành cái chín, biến cái chín thành cái sống; lâu ngày thuần thục đúc thành một khối: niệm niệm Di Ðà, khắc khắc Cực Lạc. Kẻ học đạo hiểu biết thiển cận chỉ biết tham cầu lẽ huyền diệu, chẳng biết hướng ngay đến chỗ căn bổn để dốc cả tánh mạng ra hạ thủ công phu. Gặp phải cảnh vinh, nhục, họa hoạn, sanh tử liền thấy chân tay cuống quít. Ðấy chẳng những là đã dối người mà còn là tự lừa mình nữa! Cội gốc của sanh tử chính là các thứ vọng tưởng hằng ngày của chúng ta: ta - người, ghét, yêu, tham, sân, si v.v… Các nghiệp phiền não nếu còn mảy may chưa dứt thì sẽ trở thành cội gốc sanh tử.

Nếu ai muốn tham thiền đốn ngộ giải thoát sanh tử thì xin hãy tự xét sức mình có thể thật sự trong một niệm đoạn ngay được phiền não trong bao kiếp như cắt đứt mớ tơ rối hay không? Nếu chẳng đoạn nổi phiền não thì dù có đốn ngộ cũng trở thành ma nghiệp, há có nên xem thường ư!

Xét ra, chư Tổ đốn ngộ đều là do đã tích lũy công hạnh, tu hành dần dần trong nhiều đời nên mới đốn ngộ một chốc. Nói dễ chứ thật rất khó, chứ nào có phải là một dạ công phu trong vòng hai, ba mươi năm là sẽ có thể ngay trong phiền não nhất niệm đốn ngộ được đâu! Cần phải biết rõ căn khí của mình như thế nào.

Còn như một môn niệm Phật thì người đời chẳng biết chỗ nhiệm mầu của nó, coi là thiển cận, chứ thật ra môn niệm Phật bước nào cũng đạp lên Thật Ðịa! Vì sao vậy? Do vì bọn ta từ lúc có cuộc sống đến nay, niệm niệm vin níu vọng tưởng, tạo nghiệp sanh tử, chưa hề một niệm hồi quang phản chiếu tự tâm, chưa hề có một niệm chịu đoạn phiền não. Nay nếu thật có thể chuyển cái tâm vọng tưởng thành tâm niệm Phật thì niệm niệm đoạn trừ phiền não. Nếu niệm niệm đoạn được phiền não thì niệm niệm thoát sanh tử. Nếu thật sự có thể nhất niệm niệm Phật chẳng thay đổi, nhất tâm bất loạn thì so ra còn hơn là tham thiền vì tham Thiền còn có thể bị đọa lạc.

Nói chung, chỉ cốt ở chỗ nhất niệm chân thành, thiết tha mà thôi!

Nhưng tham Thiền thì nhất định phải diệt sạch cái tâm thế gian, chẳng dung một niệm vọng tưởng. Còn niệm Phật là dùng tịnh tưởng để hoán chuyển nhiễm tưởng, dùng tưởng trừ tưởng. Căn khí của bọn chúng ta có thể thực hành pháp thay đổi này dễ dàng!


* Tu Tịnh Ðộ bất tất cầu minh tâm ngộ tánh, chỉ chuyên lấy Niệm Phật làm Chánh Hạnh. Lại lấy bố thí, trai Tăng, công đức tu các phước để giúp trang nghiêm cõi Phật.

Trong tâm niệm Phật, tuy phải phát nguyện vãng sanh, nhưng nếu biết đoạn cái gốc sanh tử trước thì mới có công năng mau chóng. Gốc sanh tử chính là lòng tham đắm các thứ thọ dụng trong thế gian, sắc đẹp, tiếng dâm, vị ngon sướng miệng, hết thảy đều là gốc khổ; cũng như hết thảy các tâm sân nộ, phẫn hận, chấp trước, si ái.

Ðối với hết thảy pháp tà giáo do bọn thầy ma tà ngoại đạo rao truyền đều phải tận tình mửa ra hết, chỉ dốc lòng tin một môn niệm Phật. Mỗi ngày tụng kinh A Di Ðà hai lượt, niệm Phật mấy ngàn câu; hoặc chẳng kể đến số, chỉ tâm tâm chẳng quên Phật hiệu.

Phật là Giác. Nếu niệm niệm chẳng quên Phật thì niệm niệm minh giác. Nếu tâm quên Phật thì là bất giác. Nếu niệm đến mức trong mộng vẫn niệm Phật thì chính là thường giác bất muội. Nếu hiện tại tâm này bất muội thì lúc lâm chung tâm này bất muội, tức là những cảnh lầm lạc của tâm này sẽ bị rơi rớt mất.

Nay việc nước đa đoan vạn mối quyết định chẳng thể tham thiền, chỉ có niệm Phật là tốt nhất, chẳng nệ nhàn, bận, động, tịnh, ở hết thảy chỗ nào cũng niệm được. Chỉ là nhất tâm chẳng quên chứ không có cách hay khéo nào khác cả!
* Tham Thiền cần phải lìa tưởng; niệm Phật lại chuyên tưởng. Vì chúng sanh trầm luân trong vọng tưởng đã lâu nên lìa vọng tưởng thật khó. Nếu có thể biến đổi nhiễm tưởng thành tịnh tưởng thì đó là dùng độc trị độc, là cách thay đổi mà thôi. Vì thế, tham cứu khó ngộ, niệm Phật dễ thành. Nếu tâm thật sự khẩn thiết vì lẽ sanh tử, dùng cái tâm tham cứu niệm Phật thì còn lo chi trong một đời chẳng giải thoát nổi sanh tử nữa?
* Niệm Phật chính là tham thiền, nào phải là hai pháp. Nghĩa là:

Trong lúc niệm Phật, trước hết, tưởng hết thảy phiền não, vọng tưởng, tham, sân, si, ái, các thứ ý niệm tạp loạn trong lòng mình đều buông bỏ hết, buông bỏ đến mức không còn gì để buông bỏ nữa. Chỉ đề khởi mỗi một mình câu A Di Ðà Phật vằng vặc phân minh chẳng đoạn trong tâm giống như sợi chỉ xuyên suốt qua từng hạt châu. Lại giống như mũi tên khi cắm ngập [vào đích] chẳng hở trống mảy may nào!

Dốc sức vào định như thế, trong hết thảy nơi chẳng bị cảnh duyên lôi kéo, đánh mất. Ðối với mọi sự động tịnh hằng ngày chẳng bị tạp loạn, ngủ thức đều giống hệt như nhau. Niệm cho đến lúc lâm chung, nhất tâm bất loạn thì chính là lúc siêu sanh Tịnh Ðộ vậy.
* Trong pháp môn này:

- Thứ nhất là chí phải quyết định.

- Thứ hai là phải buông xuống được.

- Thứ ba là thuận theo duyên, tùy duyên mới an mạng được.

- Thứ tư là phải thật sự nhẫn nại thì mới chẳng bị lầm lạc.

- Thứ năm là phải khẩn thiết chán khổ. Tâm khẩn thiết chán khổ thì dục niệm mới tự trừ, chẳng bị lui sụt.

Ðấy chính là năm bí quyết để giữ vững mỗi một mình nhất niệm.
* Cách thức tu hành cũng có thứ tự giống như thời khóa công phu của chư Tăng vậy; nhưng chẳng cần phải rập theo khuôn sáo: Lấy niệm Phật làm chính; mỗi ngày sáng dậy lễ Phật liền tụng một cuốn kinh Di Ðà, lần chuỗi niệm danh hiệu Phật ba hoặc năm ngàn tiếng, hoặc một vạn tiếng. Niệm xong đối trước Phật hồi hướng, phát nguyện vãng sanh cõi kia. Ðó là khóa tụng buổi sáng; buổi chiều cũng giống như vậy.

Hằng ngày lấy đó làm định khóa, nhất định chẳng để sót. Dùng pháp này dạy người trong nhà để cùng tu hành đúng pháp rất hay. Ðó là Thường Hạnh.

Nếu để lo cho đại sự sau cùng thì càng phải ra sức công phu khẩn thiết: Mỗi ngày trừ hai thời công khóa ra, trong mười hai thời, chỉ giữ một câu A Di Ðà Phật ngang ngực, niệm niệm chẳng quên, tâm tâm bất muội. Chẳng nghĩ ngợi gì đến hết thảy việc đời, chỉ lấy một câu Phật hiệu làm mạng sống của chính mình, cắn chặt nơi hàm răng quyết chẳng buông bỏ.

Thậm chí, trong lúc ăn uống, đứng lên, ngồi xuống, đi, đứng, nằm, ngồi, một câu Phật hiệu này luôn luôn hiện tiền. Dù gặp phải hoàn cảnh thuận, nghịch, vui, giận, phiền não, hay lúc tâm bất an, vẫn đem câu Phật hiệu ra ứng phó thì ngay khi ấy phiền não sẽ tự tiêu diệt.

Do phiền não trong mỗi niệm chính là gốc khổ sanh tử nên nay dùng niệm Phật để tiêu diệt phiền não thì đó chính là Phật độ chúng sanh thoát khỏi chốn khổ! Nếu niệm Phật tiêu được phiền não thì sẽ giải thoát sanh tử, chứ còn pháp nào khác đâu!

Nếu niệm Phật đến mức làm chủ được phiền não thì sẽ làm chủ được mộng mị. Nếu đã làm chủ được mộng mị thì sẽ tự chủ được trong khi bịnh khổ. Nếu đã tự chủ được trong khi bịnh khổ thì lúc lâm chung sẽ phân minh rành rẽ biết mình được sanh về đâu.

Làm được việc này chẳng khó, chỉ cốt một dạ khẩn thiết vì sanh tử, nương tựa một cách quyết định duy nhất vào câu Phật hiệu, không còn mong mỏi, nghĩ đến gì khác! Lâu ngày thuần thục, tự nhiên được đại an lạc tự tại, được đại hoan hỷ thọ dụng, ngũ dục thế gian không thể nào sánh được.

Ngoài cách này thì không còn cách nào ngắn gọn, thẳng tắt hơn được nữa!


Nhận định:
Muốn rốt ráo sanh tử, tâm cần phải khẩn thiết lo sanh tử mà trước hết là cần phải đoạn trừ cội ái của sanh tử. Nhưng ái là thói quen của nhiều đời nên chẳng dễ đoạn; người nhập môn hạ thủ công phu cần phải biến chỗ sống thành chỗ chín, biến chỗ chín thành chỗ sống6. Lâu ngày thuần thục thì niệm cực, tình không, ái căn tự đoạn. Các cội gốc sanh tử khác như các thứ vọng tưởng hằng ngày, các phiền não nghiệp như: ta, người, đúng, sai, tham, sân, si, mạn v.v… chẳng mong đoạn trừ mà tự nhiên đoạn trừ!
11. Trích yếu sách Linh Phong Tông Luận của đại sư Ngẫu Ích Trí Húc đời Thanh
* Niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ là một môn bao hàm trọn vẹn trăm ngàn pháp môn, chứ chẳng phải là đề cao một môn, phế bỏ trăm môn khác. Nhưng cần phải thâm nhập một môn, lấy Niệm Phật làm Chánh Hạnh, còn hết thảy các môn Giới, Ðịnh, Huệ khác là Trợ Hạnh.

Thực hành cả Chánh lẫn Trợ giống như thuyền đã đi thuận gió, còn kéo căng giây lèo, chóng đến được bờ.

Pháp Niệm Phật tuy nhiều, nhưng Trì Danh là giản tiện nhất. Pháp Trì Danh cũng nhiều, nhưng pháp Trì Danh Nhớ Số là ổn đáng. Người thực hành chơn thật, thuần thục nào có mong làm khác kẻ ngu phu, ngu phụ đâu?

* Ðể thoát khỏi nhà lửa tam giới có hai đường dọc và ngang:

a. Dùng tự lực để đoạn hoặc, vượt khỏi sanh tử thì gọi là vượt tam giới theo chiều dọc (thụ xuất tam giới), khó tu, kết quả chậm chạp.

b. Nương Phật lực tiếp dẫn sanh về Tây phương thì gọi là vượt khỏi tam giới theo chiều ngang (hoành xuất tam giới); dễ hành, kết quả nhanh chóng.

Tổ Huệ Viễn nói: “Có công hiệu cao, dễ tấn tu thì niệm Phật làm đầu”. Kinh dạy: “Ðời mạt ức ức người người tu hành, hiếm có một ai thành đạo. Chỉ có ai tu theo pháp Niệm Phật mới có thể được độ thoát”như giong thuyền vượt biển, chẳng mất công sức.

Ai có thể dốc lòng tin tưởng vào đường tắt Tây Phương, chí thành phát nguyện, nhất tâm niệm Phật cầu vãng sanh thì thật đúng là bậc đại trượng phu. Còn nếu như lòng tin chẳng chơn thật, nguyện chẳng khẩn thiết, hành chẳng tận sức, dẫu Phật đã sắp sẵn thuyền đại từ nhưng chúng sanh chẳng chịu xuống thuyền thì Phật còn biết làm thế nào được nữa?

* Muốn mau thoát nỗi khổ luân hồi thì không có chi bằng pháp Trì Danh Niệm Phật cầu sanh thế giới Cực Lạc. Muốn quyết định sanh về thế giới Cực Lạc thì lại không có chi bằng lấy Tín để dẫn đường, dùng Nguyện để thúc đẩy.

Tin quả quyết, nguyện khẩn thiết thì dù tán tâm niệm Phật cũng chắc chắn được vãng sanh. Tin chẳng chơn thật, nguyện chẳng mạnh mẽ thì dù có nhất tâm bất loạn cũng chẳng được vãng sanh!


a. Thế nào là Tín?

- Một là tin vào nguyện lực của Phật A Di Ðà.

- Hai là tin lời dạy của Phật Thích Ca Văn.

- Ba là tin lời khen ngợi của sáu phương chư Phật.

Nếu chẳng tin nổi những điều ấy thì thật chẳng còn cách nào cứu nổi. Vì thế, trước hết phải sanh lòng tin sâu xa, chớ khởi nghi hoặc.
b. Thế nào là Nguyện?

Trong mọi lúc đều nhàm chán nỗi khổ sanh tử cõi Sa Bà, hoan hỷ ngưỡng mộ niềm vui Bồ Ðề chốn Cực Lạc. Hễ làm việc gì hoặc thiện hoặc ác; nếu thiện thì hồi hướng cầu vãng sanh, còn ác thì sám nguyện cầu vãng sanh, không còn chí nào khác. Ðấy gọi là Nguyện.


c. Tín Nguyện cùng đủ rồi thì lấy niệm Phật làm Chánh Hạnh, lấy cải ác tu thiện làm Trợ Hạnh. Tùy theo công sức cạn hay sâu sẽ chia thành chín phẩm, bốn cõi Tịnh Ðộ, chẳng sai sót mảy may! Chỉ nên tự mình suy xét lấy, chẳng cần phải hỏi người khác nữa! Nghĩa là:

Tin sâu, nguyện thiết niệm Phật mà lúc niệm Phật tâm hay tán loạn thì sẽ đạt hạ phẩm hạ sanh.

Tán loạn giảm thiểu thì là hạ phẩm trung sanh.

Không còn tán loạn sẽ là hạ phẩm thượng sanh.

Niệm đến mức Sự Nhất Tâm Bất Loạn, chẳng khởi tham, sân, si thì thuộc về ba phẩm trung sanh.

Niệm đến mức Sự Nhất Tâm Bất Loạn, trong ba thứ kiến hoặc, tư hoặc và trần sa hoặc, tùy ý đoạn trước một thứ và cũng đoạn trừ được vô minh thì sẽ sanh trong ba phẩm thượng sanh.

Vì vậy, tín nguyện trì danh niệm Phật sẽ thuộc trong chín phẩm là điều đích xác chẳng sai!

Thêm nữa, tín nguyện trì danh: tiêu trừ nghiệp chướng, mang theo hoặc chướng đi vãng sanh chính là Phàm Thánh Ðồng Cư Tịnh Ðộ.

Ðoạn sạch kiến hoặc và tư hoặc mà vãng sanh thì chính là Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Ðộ.

Phá nát một phần vô minh mà vãng sanh thì chính là Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Ðộ.

Trì đến mức rốt ráo, đoạn sạch vô minh rồi vãng sanh thì chính là Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ.

Vì thế, Trì Danh có thể đạt đến bốn cõi Tịnh Ðộ cũng là chuyện đích xác chẳng sai lầm!

Hỏi: Trì danh như thế nào để có thể đoạn được vô minh?

Ðáp: Ðối với danh hiệu của đức Phật được trì, chẳng cần biết là ngộ hay chưa, không gì chẳng phải là nhất cảnh tam đế. Cái tâm trì niệm chẳng cần biết là đã đạt hay chưa, không gì chẳng phải là nhất tâm tam quán7. Chỉ vì chúng sanh vọng tưởng chấp trước, tình kiến phân biệt nên mới chẳng thể khế hợp Viên Thường; họ nào biết Năng Trì (tâm trì niệm danh hiệu Phật) chính là Thỉ Giác, Sở Trì (đức Phật được ta trì niệm) chính Bổn Giác.

Nay cứ thẳng một bề trì niệm, ngoài việc trì niệm nào có đức Phật, ngoài đức Phật nào có trì niệm, Năng lẫn Sở bất nhị thì Thỉ Giác khế hợp Bổn Giác, gọi là Cứu Cánh Giác.
* Pháp môn Niệm Phật chẳng có gì là kỳ đặc, chỉ quý ở chỗ tin tới nơi, giữ cho ổn, cứ thẳng một đường mà niệm, hoặc là ngày đêm niệm mười vạn tiếng, hoặc năm vạn, ba vạn, lấy con số nhất định chẳng khuyết làm chuẩn. Trong suốt một ngày, niệm ra tiếng đến tàn một cây hương, rồi niệm thầm đến tàn một cây hương. Cứ xoay vần không gián đoạn [như thế], lấy Nhất Tâm Bất Loạn làm hạn. Suốt cả đời này thề không biến cải. Nếu chẳng được vãng sanh thì tam thế chư Phật đều nói dối. Một khi đã được vãng sanh sẽ vĩnh viễn không bị thối chuyển, các thứ pháp môn đều được hiện tiền.

Kỵ nhất là hôm nay Trương Tam, ngày mai Lý Tứ, gặp người tu theo Giáo môn liền toan tầm chương trích cú. Gặp kẻ tu Thiền bèn nghĩ chuyện tư duy, tham cứu, vấn đáp. Gặp người trì Luật lại nghĩ chuyện đắp y, trì bát. Ðấy chính là kẻ chẳng rõ đầu mối, chẳng tỏ lớp lang, chẳng hề biết rằng niệm A Di Ðà Phật đến mức thuần thục thì giáo lý tối cực thuộc mười hai bộ của Tam Tạng đều nằm gọn trong ấy, một ngàn bảy trăm công án là cơ quan để hướng thượng cũng nằm gọn trong ấy, ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh, tam tụ luật nghi cũng nằm gọn trong ấy.

Có thể thật sự niệm Phật, chẳng khởi tham, sân, si nữa thì đó chính là Ðại Trì Giới. Chẳng phân biệt ta-người, đúng-sai chính là Ðại Nhẫn Nhục. Chẳng chút gián đoạn, lai tạp chính là Ðại Tinh Tấn. Chẳng còn rong ruổi theo vọng tưởng chính là Ðại Thiền Ðịnh. Chẳng bị các thứ ngoắt ngoéo mê hoặc chính là Ðại Trí Huệ.

Hãy thử tự kiểm điểm: Nếu thân, tâm, thế giới còn chưa buông xuống được, tham, sân, si còn tự phát khởi, thị-phi nhân-ngã còn ôm giữ; gián đoạn, xen tạp còn chưa trừ sạch, vọng tưởng rong ruổi còn chưa vĩnh viễn diệt hết, các thứ ngoắt ngoéo khác vẫn còn mê hoặc được ý chí thì chẳng phải là chơn thật niệm Phật.

Muốn đạt đến cảnh giới Nhất Tâm Bất Loạn thì biện pháp ban đầu là dùng xâu chuỗi để ghi nhớ phân minh, khắc định thời khóa quyết định chẳng thiếu. Lâu ngày thuần thục chẳng niệm mà tự niệm thì sau đấy nhớ số cũng được, chẳng nhớ số cũng xong.

Nếu là kẻ sơ tâm mà lại thích bàn chuyện khán thoại đầu, muốn chẳng chấp tướng, muốn học viên dung tự tại thì toàn là kẻ tin chẳng sâu, hành chẳng tận sức, dẫu có giảng được mười hai phần kinh giáo, hiểu nổi một ngàn bảy trăm chuyển ngữ (công án Thiền) thì cũng đều là chuyện thuộc về sanh tử, lúc lâm chung cũng nhất định vô dụng mà thôi!


Nhận định:
Tổ đã minh thị: Tín Nguyện Trì Danh sẽ đạt đến cửu phẩm và bốn cõi Tịnh Ðộ. Nếu như Tín chẳng chơn thật, Nguyện chẳng mạnh mẽ thì dù Nhất Tâm Bất Loạn cũng chẳng được vãng sanh.

Lời dạy này thật là thiết yếu; hãy nên tín sâu, nguyện thiết để thẳng đường mà niệm. Niệm đến mức rốt ráo thì vô minh đoạn sạch sẽ vãng sanh về cõi Thường Tịch Quang.


12. Trích yếu sách Tịnh Ðộ Cảnh Ngữ của đại sư Triệt Lưu Hành Sách đời Thanh
* Niệm Phật cần phải có lòng tin chơn thật:

a. Một là tin rằng tâm, Phật, chúng sanh, cả ba thứ không sai biệt. Ta là Phật chưa thành, Phật Di Ðà là vị Phật đã thành, giác tánh vô nhị. Ta tuy hôn mê, điên đảo, sai lầm nhưng giác tánh chẳng hề mất. Ta tuy luân chuyển bao kiếp nhưng giác tánh chưa hề động. Vì thế mới nói: “Ðừng khinh kẻ chưa ngộ, nhất niệm hồi quang sẽ cùng chứng đắc cái ta sẵn có”.

b. Kế đến, cần phải tin rằng ta là Lý Tánh Phật, danh tự Phật; Di Ðà là Cứu Cánh Phật, tánh tuy không hai, nhưng địa vị sai khác một trời, một vực!

Nếu chẳng chuyên niệm đức Phật kia để cầu sanh về cõi ngài ắt sẽ bị lưu chuyển theo nghiệp, chịu khổ vô lượng. Nói cách khác: Pháp Thân lưu chuyển trong năm đường chẳng được gọi là Phật, mà gọi là chúng sanh!

c. Ba là cần phải tin rằng ta tuy chướng sâu nghiệp nặng, ở trong khổ thành đã lâu, nhưng là chúng sanh ở trong tâm của đức Di Ðà; Di Ðà tuy là vạn đức trang nghiêm ở xa ngoài mười vạn ức cõi nhưng vẫn là đức Phật trong tâm ta.

Tâm, tánh đã là vô nhị thì tự nhiên cảm ứng đạo giao, tâm khổ thiết của ta ắt cảm, tâm từ bi của Phật ắt ứng như nam châm hút sắt, chẳng còn ngờ chi.

Ðầy đủ những lòng tin chơn thật như vậy thì dù một mảy thiện, một phước nhỏ như hạt bụi đều có thể đem hồi hướng về Tây Phương, trang nghiêm Tịnh Ðộ. Huống hồ là trì trai, giữ giới, phóng sanh, bố thí, đọc tụng Ðại Thừa, cúng dường Tam Bảo, các thứ hạnh lành lại chẳng đủ để làm tư lương Tịnh Ðộ hay sao?

Chỉ vì tin chẳng chơn thật nên bị chìm trong hữu lậu. Vì thế, ngày nay tu hành chẳng có yếu thuật nào khác cả; chỉ cốt trong mười hai thời, thêm vào ba thứ lòng tin chơn thật ấy thì chẳng cần phải thay đổi hết thảy điều gì mình đang tu tập cả.


* Nếu luôn luôn nghĩ lo việc Sa Bà, một ngày nóng mười ngày lạnh, tâm chẳng chuyên dốc, lúc gặp ngũ dục thì như keo như sơn, gặp phải nghịch cảnh bèn kết oán, ôm hận. Ðến lúc mạng chung sẽ ngả theo chỗ mình coi nặng, vì Tịnh nhân nhỏ yếu nên khó thoát khỏi chốn khổ. Ðấy chỉ là do chẳng thể bỏ xuống những cái mình xem nặng.

Ai nấy nên đau đáu nghĩ đến Sa Bà hiểm ác, sớm cầu xuất ly. Bò lê trong lục đạo, tiêu dao nơi chín phẩm, [hai đường] lợi - hại [khác xa nhau] một trời một vực. Hãy nên tu tập nỗ lực, mạnh mẽ tỉnh ngộ! Ắt nên sanh lòng chán, ưa lớn lao, bỏ uế lấy tịnh; tin rằng sự lấy bỏ này và sự chẳng lấy bỏ vốn chẳng khác gì nhau.

Ðừng chuộng hư danh, đừng chấp Không Kiến, chớ để kẻ học Thiền có danh phận nhưng chỉ chứng đắc tam-muội nơi cửa miệng làm ta lầm loạn. Chớ cầu sự linh nghiệm ngay trong sớm tối, vọng cầu ngoài tâm có Phật đến đón khiến ma sự phát động. Luôn lấy Niệm Phật làm Chánh Hạnh, siêng tu các điều thiện làm Trợ Hạnh.

Lại còn quyết ý mài giũa tham, sân, si, khiến cho chỗ nặng biến thành chỗ nhẹ, chỗ sống chín dần, tịnh niệm nối tiếp, nguyện - hạnh hỗ trợ nhau thì tự nhiên trăm ngàn phần ổn thỏa, thích đáng vậy!


* Kính khuyên các bạn: Cần phải có đủ nguyện chơn thật, phát tâm ưa - chán, coi tam giới như lao ngục, coi nhà, vườn như gông cùm, coi thanh sắc như chất độc của loài chim Trầm, coi danh lợi như dây cương, ống khóa, coi mấy mươi năm thời vận cùng thông như giấc mộng đêm qua, coi một kỳ thọ báo trong cõi Sa Bà như ngụ trong quán trọ: vừa hết đêm đã rời đi. Chỉ lấy việc trở về nhà làm trách nhiệm. Như ý cũng được, bất đắc ý cũng xong, chẳng bỏ lỡ tấc bóng, nhất tâm niệm Phật.

Nếu thật sự có thể làm được như thế mà chẳng sanh về Tịnh Ðộ thì chư Phật đều thành nói dối. Xin hãy cùng gắng lên!


* Bảy ngày trì danh quý ở chỗ Nhất Tâm Bất Loạn, không gián đoạn, không xen tạp, chứ chẳng phải là niệm nhanh, niệm nhiều là hay!

Chỉ nên chẳng rề rà, chẳng gấp gáp, trì danh nghiêm mật khiến cho câu Phật hiệu phân minh vằng vặc trong tâm. Mặc áo, ăn cơm, đi, đứng, nằm, ngồi; một câu hồng danh miên mật chẳng đoạn giống như thở ra, hít vào. Chẳng được tán loạn, nhưng cũng chẳng để chìm mất. Trì danh như thế thì đáng gọi là đạt nhất tâm tinh tấn về mặt Sự!


* Hiện thời, Tịnh nghiệp học nhân suốt ngày niệm Phật, sám hối tội lỗi, phát nguyện mà Tây phương vẫn cách xa là do chưa thể giữ sao cho ngoài chuyện vãng sanh không còn nghĩ chuyện gì khác, chưa nhổ được gốc ái, để dây tình còn lôi kéo vậy!

Nếu có thể coi chuyện ân ái cõi Sa Bà như nhai sáp; chẳng quản bận, rảnh, động, tịnh, khổ, sướng, buồn, vui, cứ dựa vào một câu Phật hiệu hệt như dựa vào núi Tu Di thì hết thảy cảnh duyên chẳng lay động nổi.

Nếu lúc nào biết mình đang mệt mỏi, lười biếng hoặc là tập khí hiện tiền hãy nên mạnh mẽ phát khởi một niệm như tuốt thanh trường kiếm Ỷ Thiên khiến ma quân không chỗ ẩn trốn, cũng như hỏa lò rực lửa khiến cho vô thỉ tình thức tiêu tan không sót! Người ấy tuy đang ở trong chốn ngũ trược mà thân đã nghiễm nhiên ngồi trong cõi Liên Hoa, nào còn phải đợi đức Di Ðà xòe tay, đức Quán Âm khuyên mời mới tin là mình đã vãng sanh nữa!


Каталог: Luan
Luan -> Trung tâM ĐÀo tạo mạng máy tính nhất nghệ 105 Bà Huyện Thanh Quan – 205 Võ Thị Sáu, Q3, tp. Hcm
Luan -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
Luan -> Phần mở đầu Tính cấp thiết của đề tài
Luan -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Luan -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
Luan -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
Luan -> MỞ ĐẦu tính cấp thiết của đề tài
Luan -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
Luan -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
Luan -> Tính cấp thiết của đề tài

tải về 1.38 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương