Ảnh hưỞng của sữa bổ sung pre-probiotic lên tình trạng dinh dưỠNG, nhiễm khuẩN



tải về 1.05 Mb.
trang8/11
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích1.05 Mb.
#30969
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11

Số liệu biểu thị bằng % (n). aĐược đánh giá là (+) khi số lượng vi khuẩn BB12≥ 105CFU/g phân khô; *p<0,01 so với nhóm chứng (-test)

Nhận xét: Tỷ lệ trẻ có BB12 (+) ở 2 nhóm synbiotic 1 và nhóm synbiotic 2 là 81,3% và 77,8% ở thời điểm sau 3 tháng can thiệp; sau 6 tháng là 43,8% và 66,7%, cao hơn hẳn so với nhóm chứng và nhóm prebiotic. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,001.


Biểu đồ 3.9. Thay đổi số lượng BB12 trong phân tại

các thời điểm nghiên cứu so với ban đầu

Nhận xét:

Sau 3 tháng can thiệp, số lượng vi khuẩn BB12 tăng lên rất nhanh so với thời điểm ban đầu ở nhóm synbiotic 1, sau đó đến nhóm synbiotic 2. Nhưng sau 6 tháng can thiệp, số lượng vi khuẩn này lại giảm xuống ở nhóm synbiotic 1 nhưng vẫn ở mức cao hơn so với ban đầu. Còn ở nhóm synbiotic 2 vẫn duy trì ở xu hướng tăng. Nhóm chứng và nhóm prebiotic hầu như không thay đổi trong suốt thời gian can thiệp.



Bảng 3.23. Hiệu quả sau 6 tháng can thiệp lên vi khuẩn có ích

Thời điểm

Nhóm chứng n =16

Prebiotic n = 9

Synbiotic 1 n = 16

Synbiotic 2 n = 9

P

Kruskal Wallis



Tổng số vi khuẩn

T0


1,06.1011

[6,61.1010;1,46.1011]



0,85.1011

[3,52.1010;1,35.1011]



1,10.1011

[5,11.1010;1,69.1011]



1,49.1011

[7,09.1010;2,26.1011]



>0,05

T3

8,02.1010

[5,71.1010;1,03.1011]



6,98.1010

[2,46.1010;1,14.1011]



8,55.1010

[5,19.1010;1,18.1011]



8,69.1010

[6,78.1010;1,08.1011]



>0,05

T6

6,49.1010

[3,42.1010;9,57.1010]



5,96.1010

[2,50.1010;9,42.1010]



1,70.1010a**

[0,18.1010;3,58.1010]



5,06.1010

[1,74.1010;8,38.1010]



<0,01

Bifidobacteria

T0

1,06.1010

[4,62.109;1,66.1010]



0,92.1010

[3,35.109;1,51.1010]



0,98.1010

[3,51.109;1,61.1010]



1,32.1010

[3,04.109;2,34.1010]



>0,05


T3


1,64.1010

[8,39.109;2,42.1010]



1,59.1010

[1,21.109;3,08.1010]



2,09.1010

[9,93.109;3,16.1010]



1,64.1010

[9,62.109;2,31.1010]



>0,05

T6


1,28.1010

[4,07.109;2,16.1010]



0,73.1010

[1,40.109;1,60.1010]



0,21.1010 c*

[0,60.109;0,49.1010]



1,03.1010

[0,34.109;2,03.1010]



<0,05

Lactobacilli

T0

3,10.106

[0,12.106;6,09.106]



5,73.106

[4,47.106;15,93.106]



2,97.106

[0,49.106;5,46.106]



0,46.106

[0,41.105;0,95.106]



>0,05

T3


1,79.107

[1,01.106;3,45.107]



2,88.107

[2,00.106;7,65.107]



2,87.107

[4,23.106;6,21.107]



1,79.107

[4,72.106;4,05.107]



>0,05

T6

8,27.107

[4,72.107;21,26.107]



2,0.107

[1,51.107;5,91.107]



2,33.107

[0,94.106;4,76.107]



5,69.107

[4,94.107;16,31.107]



>0,05

BB12

T0

0

0

0

0




T3

0,11.106

[0,10.106;0,19.106]



0,57.103

-


56,5.106b**

[19.04.106;94,33.106]



13,3.106b**

[3,86.106;30,47.106]



<0,01

T6

0


0

1,47.107b**

[0,25.107;3,2.106]



1,85.107b**

[0,18.107;3,90.107]



<0,01

T3- T0

0,11.106

0,57.103

56,5.106b**

13,3.106b**

<0,01

T6-T0

0

0

1,47.107b**

1,85.107b**

<0,01

Số liệu biểu thị bằng [CI 95%]

a* : p<0,05 và a **: p<0,01 vs. nhóm chứng và nhóm prebiotic, nhóm synbiotic 2 (Mann-Whitney test).

b* p<0,05 và b **: p<0,01 vs. nhóm chứng và nhóm prebiotic (Mann-Whitney test).

c* p<0,05 và c **: p<0,01 vs. nhóm chứng (Mann-Whitney test).
Nhận xét: Không có sự khác biệt về số lượng các loại vi khuẩn: tổng số vi khuẩn, Bifidobacteria, Lactobacilli, BB12 trong phân của trẻ tại thời điểm điều tra ban đầu ở 4 nhóm nghiên cứu (p>0,05).

Sau 3 tháng can thiệp, kết quả phân tích về vi sinh vật cho thấy:

- Số lượng trung bình về tổng số vi khuẩn trong phân của trẻ ở nhóm prebiotic thấp hơn so với 3 nhóm kia (6,98.1010 so với 8,02.1010, 8,55.1010 8,69.1010). Tuy nhiên, sự khác biệt này không có ‎ý nghĩa thống kê (p>0,05).

- Số lượng trung bình về Bifidobacteria trong phân của trẻ ở nhóm synbiotic 1 cao hơn so với nhóm chứng và các nhóm còn lại (2,09.1010 so với 1,64.1010, 1,59.1010, 1,64.1010). Tuy nhiên sự khác biệt này không có‎ ý nghĩa thống kê.

- Số lượng trung bình về lactobacilli trong phân của trẻ ở nhóm prebiotic và nhóm synbiotic 1 cao hơn so với nhóm chứng (2,88.107 2,87.107 so với 1,79.107 ở nhóm chứng). Tuy nhiên sự khác biệt này không có‎ ý nghĩa thống kê.

- Số lượng trung bình về BB12 trong phân của trẻ ở nhóm synbiotic 1 và synbiotic 2 cao hơn hẳn so với nhóm chứng và nhóm prebiotic (56,5.106 và 13,3.106 so với 0,11.106 và 0,57.103) (p<0,01).

- Số lượng BB12 đều tăng ở cả 4 nhóm trẻ, mức tăng cao nhất là ở nhóm synbiotic 1 (tăng 56,5.106), rồi đến nhóm synbiotic 2 (tăng13,3.106) so với nhóm chứng và nhóm prebiotic và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,01).

- Số lượng các vi khuẩn có lợi Bifidobacteria và Lactobacilli tăng lên nhiều hơn ở nhóm prebiotic và nhóm synbiotic 1 so với nhóm chứng. Tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Sau 6 tháng can thiệp, kết quả phân tích về vi sinh vật cho thấy:

- Số lượng trung bình về tổng số vi khuẩn trong phân của trẻ ở nhóm synbiotic 1 thấp hơn so với 3 nhóm kia (1,70.1010 so với 6,49.1010 ; 5,96.1010 5,06.1010 ) và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,01).

- Khác hẳn so với thời điểm 3 tháng, sau 6 tháng can thiệp, số lượng vi khuẩn có lợi Bifidobacteria đã giảm đi ở cả 3 nhóm nghiên cứu, thậm chí còn thấp hơn so với thời điểm ban đầu, chỉ có nhóm chứng là còn duy trì ở mức cao và cao hơn hẳn so với nhóm synbiotic 1 (p<0,05). Còn với vi khuẩn Lactobacilli, số lượng của vi khuẩn này vẫn giữ ở mức tăng lên ở cả 4 nhóm nghiên cứu.


  • Về vi khuẩn BB12, chỉ còn tìm thấy vi khuẩn này ở 2 nhóm synbiotic 1 và

synbiotic 2 sau 6 tháng can thiệp. Hàm lượng trung bình về BB12 và mức tăng số lượng này sau 6 tháng can thiệp ở nhóm synbiotic 1 và synbiotic 2 cao hơn một cách có ý nghĩa so với nhóm chứng và nhóm prebiotic (1,47.107 và 1,85.107 so với 0) (p<0,01).

Bảng 3.24. Hiệu quả sau 6 tháng can thiệp lên vi khuẩn có hại

Thời điểm

Nhóm chứng n =16

Prebiotic

n = 9

Synbiotic 1

n = 16

Synbiotic 2

n = 9

P

Kruskal Wallis



Bacteroides

T0

1,02.109

[0,51.109;2,53.109]



0,03.109

[0,03.109;0,06.109]



1,86.109

[0,33.109;4,00.109]



3,34.109

[0,37.109;6,32.109]



>0,05

T3


0,96.109

[0,48.109;2,38.109]



0,59.109

[0,18.109;1,35.109]



4,13.109

[0,41.109;7,95.109]



1,58.109

[0,03.109;3,23.109]



>0,05

T6


7,60.108

[0,98.108;16,11.108]



5,81.108

[1,84.108;13,48.108]



0,66.108

[0,04.108;1,27.108]



2,44.108

[0,31.108;4,57.108]



>0,05

Clostridia 4x

T0


65,4.106

[19,78.106;15,07.107]



1,92.106

[0,49.106;4,34.106]



1,27.106

[0,07.106;2,61.106]



2,53.106

[2,43.106;7,48.106]



>0,05

T3

1,09.107

[0,45.107;2,57.107]



7,47.107

[6,45.107;22,89.107]



10,6.107

[9,18.107;30,67.107]



0,68.107

[0,65.107;1,99.107]



>0,05

T6


4,72.106

[0,73.106;10,17.106]



5,04.106

[1,30.106;11,39.106]



14,9.106

[13,07.106;48,89.106]



8,49.106

[8,49.106;25,48.106]



>0,05

E.coli

T0

2,99.108

[0,70.108;5,28.108]



4,73.108

[1,53.108;7,93.108]



1,65.108

[0,79.108;2,50.108]



3,08.108

[1,10.108;3,85.108]



>0,05

T3

6,38.108

[2,21.108;10,48.108]



1,94.108

[0,92.108;2,96.108]



4,55.108

[0,95.108;8,09.108]



8,36.108

[0,54.108;16,37.108]



>0,05

T6

7,57.108

[7,23.108;22,32.108]



10,4.108

[3,12.108;24,00.108]



0,24.108

[0,04.108;0,44.108]



0,69.108

[0,27.108;1,64.108]



>0,05

Số liệu biểu thị bằng [CI 95%]

Nhận xét: Không có sự khác biệt về số lượng các loại vi khuẩn như Bacteroides,

Clostridia 4x, E.coli trong phân của trẻ tại thời điểm điều tra ban đầu ở 4 nhóm nghiên cứu (p>0,05).

Sau 3 tháng can thiệp, kết quả phân tích về vi sinh vật cho thấy:

- Số lượng trung bình về vi khuẩn BacteroidesE.coli trong phân của trẻ ở nhóm prebiotic thấp hơn so với 3 nhóm kia (0,59.109 so với 0,96.109, 4,13.109 và 1,58.109 đối với Bacteroides; 1,94.108 so với 6,38.108, 4,55.108 8,36.108 đối với E.coli). Tuy nhiên các sự khác biệt này không có ‎ ý nghĩa thống kê (p>0.05).

- Số lượng trung bình E.coli ở nhóm chứng, nhóm synbiotic 1 và synbiotic 2 đều có sự tăng lên, chỉ riêng ở nhóm prebiotic thì số lượng vi khuẩn này lại giảm xuống. Tuy nhiên những sự thay đổi này không có‎ ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Sau 6 tháng can thiệp, kết quả phân tích vi sinh vật cho thấy:

- Số lượng trung bình về vi khuẩn BacteroidesE.coli trong phân của trẻ ở nhóm synbiotic 1 thấp hơn so với 3 nhóm kia ( 0,66.108 so với 7,60.108, 5,81.108 và 2,44.108 đối với bacteroides; 0,24.108 so với 7,57.108, 10,4.108 0,69.108 đối với E.coli). Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).



- Số lượng trung bình E.coli ở 2 nhóm synbiotic đều giảm đi sau 6 tháng can thiệp, khác hẳn so với nhóm chứng và nhóm prebiotic, tuy nhiên những sự thay đổi này cũng không có‎ ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Biểu đồ 3.10. Thay đổi số lượng Lactobacilli trong phân

tại các thời điểm nghiên cứu so với ban đầu

Nhận xét: Số lượng Lactobacilli đều tăng lên ở cả 4 nhóm nghiên cứu sau 3 tháng can thiệp và vẫn duy trì xu hướng tăng sau 6 tháng ở nhóm chứng và nhóm synbiotic 2. Còn ở nhóm prebiotic và nhóm synbiotic 1 có xu hướng giảm, tuy nhiên vẫn ở mức cao hơn so với thời điểm ban đầu.



Biểu đồ 3.11. Tỷ lệ Lactobacilli trên tổng số vi khuẩn trong phân

trước và sau can thiệp

Nhận xét: Tỷ lệ vi khuẩn có lợi Lactobacilli trên tổng số vi khuẩn trong phân sau can thiệp đã tăng lên ở cả 4 nhóm nghiên cứu, trong đó tăng cao nhất là ở nhóm synbiotic 1, rồi đến nhóm chứng và nhóm synbiotic 2.


Biểu đồ 3.12. Thay đổi số lượng Bifidobacteria trong phân

tại các thời điểm nghiên cứu so với ban đầu

Nhận xét: Số lượng Bifidobacteria tăng lên ở cả 4 nhóm nghiên cứu sau 3 tháng can thiệp, nhưng sau đó lại giảm ở cả 3 nhóm can thiệp.



Biểu đồ 3.13. Tỷ lệ Bifidobacteria trên tổng số vi khuẩn trong phân

trước và sau can thiệp

Nhận xét: Tỷ lệ vi khuẩn Bifidobacteria trên tổng số vi khuẩn trong phân sau can thiệp đã tăng lên ở cả 4 nhóm nghiên cứu, trong đó tăng cao nhất là ở nhóm synbiotic 2, rồi đến nhóm chứng và nhóm synbiotic 1. Thấp nhất cũng là ở nhóm prebiotic.



Biểu đồ 3.14. Thay đổi số lượng Bacteroides trong phân tại các thời điểm nghiên cứu so với ban đầu

Nhận xét: Số lượng vi khuẩn Bacteroides đã giảm đi sau thời gian can thiệp ở nhóm synbiotic 1 và nhóm synbiotic 2. Còn ở nhóm chứng và nhóm prebiotic hầu như rất ít thay đổi.


Biểu đồ 3.15. Thay đổi tỷ lệ Bacteroide trên tổng số vi khuẩn trong phân

trước và sau can thiệp

Nhận xét: Tỷ lệ vi khuẩn bacteroide trên tổng số vi khuẩn trong phân sau can thiệp đã được giảm đi rất nhiều ở 2 nhóm synbiotic, nhất là nhóm synbiotic 2, trong khi lại tăng lên ở nhóm chứng và nhóm prebiotic.



Biểu đồ 3.16. Thay đổi số lượng E.coli trong phân

tại các thời điểm nghiên cứu so với ban đầu

Nhận xét: Sau 6 tháng can thiệp, số lượng E. coli trong phân tăng lên ở nhóm chứng và nhóm prebiotic, trong khi lại giảm đi ở nhóm synbiotic 1 và synbiotic 2 so với thời điểm ban đầu.

Biểu đồ 3.17. Thay đổi tỷ lệ E. Coli trên tổng số vi khuẩn trong phân

trước và sau can thiệp

Nhận xét: Cũng tương tự như đối với vi khuẩn bacteroide, tỷ lệ E. coli trên tổng số vi khuẩn trong phân sau can thiệp đã được giảm đi tuy không nhiều ở 2 nhóm synbiotic, trong khi lại tăng lên rất cao ở nhóm chứng và nhóm prebiotic.

Chương 4

BÀN LUẬN

4.1. Thực trạng NCBSM, thực hành ăn bổ sung, tình hình nuôi dưỡng và bệnh tật của trẻ:

Kết quả điều tra ban đầu trên 322 trẻ cho thấy chỉ có 44,4 % bà mẹ cho con bú ngay trong vòng ½ giờ sau sinh và vẫn còn 15,2 % bà mẹ cho con bú sau 24h (bảng 3.1). Có đến hơn 50% bà mẹ vẫn còn cho trẻ uống sữa công thức cho trẻ sơ sinh, nước đường, mật ong hoặc các thức ăn khác trước khi cho bú lần đầu (bảng 3.2). Kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ có 2/322 trẻ (0,7 %) được bắt đầu cho ăn bổ sung ở độ tuổi 5-6 tháng, cũng chỉ có 10,4 % trẻ được ăn bổ sung ở độ tuổi 4-5 tháng, còn lại gần 90% bà mẹ bắt đầu cho trẻ ăn bổ sung dưới 4 tháng tuổi, trong đó trẻ được ăn bổ sung trong vòng 2 tháng đầu là 18,0%, tháng tuổi trung bình trẻ bắt đầu được ăn bổ sung là 3,4 tháng tuổi (bảng 3.3). Kết quả nghiên cứu tập tính nuôi con dưới 24 tháng tuổi của các bà mẹ tại phường Láng Hạ, quận Đống đa, Hà Nội cũng cho thấy tỷ lệ trẻ được bú mẹ sớm trong vòng ½ giờ đầu sau sinh thấp và chỉ đạt 40% [5], Một nghiên cứu khác cũng được tiến hành tại 1 huyện của tỉnh Thái Nguyên vào năm 2002 cũng cho thấy tỷ lệ trẻ được bú mẹ trong vòng ½ giờ đầu chỉ 37,8% thấp hơn trong nghiên cứu của chúng tôi và vẫn có đến 14,6% các bà mẹ cho trẻ bú sau 24 giờ [8]. Báo cáo về tình trạng dinh dưỡng trẻ em và bà mẹ năm 2005 của Viện Dinh dưỡng cho thấy, thực tế hiện nay việc cho trẻ dưới 4 tháng tuổi uống thêm nước cam, chanh, thậm chí là cho ăn thêm sữa bột và cháo bột là rất phổ biến. Tỷ lệ bú sữa mẹ hoàn toàn ở trẻ nhỏ dưới 4 tháng tuổi chỉ là 18,9% và đến 6 tháng tuổi là 12,4% và có tới 9,2% trẻ được cho ăn bổ sung sớm trong vòng hai tháng đầu sau sinh, tỷ lệ trẻ được cho ăn bổ sung trước 4 tháng là 23,1% [18]. Báo cáo về tình hình dinh dưỡng năm 2009-2010 thì tỷ lệ bú mẹ trong vòng ½ giờ đầu sau sinh có cao hơn nghiên cứu của chúng tôi là 61,7% [19]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy thực hành nuôi con bằng sữa mẹ tại địa phương nghiên cứu còn nhiều điểm chưa hợp lí: tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn và bú ngay trong ½ giờ đầu sau khi sinh còn rất thấp; rất nhiều bà mẹ cho trẻ uống hoặc ăn thêm sữa công thức cho trẻ sơ sinh, nước thảo mộc, nước đường trước khi cho con bú; đặc biệt, thời điểm bắt đầu cho trẻ ăn bổ sung thêm các thức ăn khác ngoài sữa mẹ rất sớm. Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới năm 2002 thì thời gian thích hợp cho trẻ ăn bổ sung là khi trẻ 6 tháng tuổi. Do vậy việc cho trẻ ăn bổ sung sớm sẽ là nguy cơ làm mẹ bị mất sữa, cũng như gây các bệnh nhiễm khuẩn đường tiêu hóa và hô hấp cấp ở trẻ nhỏ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến SDD cho trẻ ở đây. Khi được hỏi, có rất nhiều lí do các bà mẹ đưa ra để giải thích vì sao lại cho con họ ăn bổ sung sớm như vậy. Trong các lí do, có đến 54,9% bà mẹ nói rằng do bận nhiều công việc phải đi làm xa hoặc không về nhà theo đúng giờ cho trẻ bú được, 16,9% bà mẹ cho rằng mình không đủ sữa cho con bú (bảng 3.4). Kết quả này cũng phù hợp với một số nghiên cứu trong đó chỉ rõ lí do ảnh hưởng đến thời gian nuôi con bằng sữa mẹ là do mẹ thiếu sữa [23], thiếu sữa khiến nhiều bà mẹ phải cai sữa cho con trước 6 tháng tuổi [2], việc thiếu sữa xảy ra phổ biến cho các bà mẹ ở thành phố do căng thẳng trong công việc, do phải đi làm sớm, số lần cho trẻ bú ít đi cũng là nguyên nhân gây thiếu sữa ở các bà mẹ [65]. Đây là một thực tế hiện nay không chỉ ở các vùng nông thôn, mà cả ở các vùng thành thị, khi mà các bà mẹ phải đi làm sớm và không có điều kiện về nhà đúng giờ cho con bú được.Tại địa bàn nghiên cứu, các thực phẩm được các gia đình sử dụng phổ biến cho trẻ ăn bổ sung là các loại bột gạo, bột ăn liền (70,3%), các loại thịt, cá, trứng chỉ chiếm (32,8%). (bảng 3.5)

Kết quả một nghiên cứu khác cũng cho kết quả như trong nghiên cứu này: bột ăn liền được sử dụng rộng rãi cho trẻ (72,4%) hoặc bột tự chế biến nhưng khi nấu thường ít cho thêm các loại thịt, dầu mỡ [14].

Nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ ra rằng khi mẹ đi làm thì người chăm sóc trẻ

chính là ông bà chiếm hơn 69%, các ông bố chăm sóc con khi mẹ vắng nhà chỉ có 15,5% (bảng 3.6), điều này cũng cho thấy việc tuyên truyền giáo dục NCBSM và ăn bổ sung hợp lí cần phải chú trọng đến các đối tượng là các ông/bà của trẻ, bên cạnh các bà mẹ trẻ là những đối tượng đích.

Mặc dù đã được tuyên truyền cách cho bú khi trẻ bị bệnh, nhưng trong nghiên cứu của chúng tôi thì chỉ có 52,2% bà mẹ cho con bú nhiều hơn khi trẻ bị bệnh, thậm chí còn 5,3% bà mẹ còn cho bú ít hơn khi con họ bị ốm (bảng 3.7).

Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ và cho trẻ ăn bổ sung của các bà mẹ tại địa bàn nghiên cứu, còn nhiều điểm chưa hợp lí. Phải chăng đây là những lí do quan trọng dẫn đến tỷ lệ mắc tiêu chảy và nhiễm khuẩn hô hấp trong vòng hai tuần trước khi nghiên cứu còn cao, tương ứng là 21,7% và 27,6 % (bảng 3.8). Do vậy, bên cạnh các yếu tố khách quan như mẹ thiếu sữa, mẹ phải đi làm sớm thì các yếu tố khác như hiểu biết của bà mẹ về NCBSM, ăn bổ sung và chăm sóc trẻ khi bị bệnh vẫn còn là những vấn đề cần được quan tâm nhiều hơn nữa tại địa phương này.

Theo Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF), NCBSM là một trong bốn biện pháp bảo vệ sức khoẻ trẻ em, sữa mẹ là thức ăn tốt nhất cho trẻ [2]. Trong thời gian 4-6 tháng đầu sau sinh, sữa mẹ là nguồn cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển của trẻ, có tỷ lệ các chất dinh dưỡng cân đối và dễ hấp thu, đặc biệt là protein và vitamin A [11]. NCBSM giúp trẻ chống lại các bệnh nhiễm trùng và làm giảm tử vong trẻ, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, nơi mà điều kiện vệ sinh thực phẩm còn kém [39]. Sữa mẹ được xem là yếu tố khởi đầu, phát triển thành phần của vi khuẩn đường ruột [109]. Sữa mẹ chứa oligo- saccharides làm tăng sự phát triển của các loài vi khuẩn bifidobacteria, đây là loài vi khuẩn có mặt sớm nhất trong đường tiêu hoá [164], và sự có mặt của chúng trong đường tiêu hoá là tốt cho sức khoẻ của trẻ. Hệ vi sinh vật của trẻ được nuôi bằng sữa mẹ không những có nhiều vi khuẩn bifidobacteria mà còn chứa ít các vi khuẩn gây bệnh có hại so với trẻ bú sữa ngoài [149], điều này một phần nào giải thích tại sao tỷ lệ mắc mới của bệnh nhiễm khuẩn là thấp ở trẻ được nuôi bằng sữa mẹ.


Каталог: FileUpload -> Documents
Documents -> BỘ khoa học và CÔng nghệ
Documents -> HÀ NỘI – 2013 BỘ giáo dụC ĐÀo tạo bộ y tế viện dinh dưỠNG
Documents -> Phụ lục về cấp hạng khách quốc tế
Documents -> CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam qcvn 01 78: 2011/bnnptnt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia thứC Ăn chăn nuôi các chỉ tiêu vệ sinh an toàn và MỨc giới hạn tốI Đa cho phép trong thứC Ăn chăn nuôI
Documents -> TỔng cục dạy nghề
Documents -> BỘ giáo dụC ĐÀo tạo bộ y tế viện dinh dưỠng nguyễn thị thanh hưƠng thực trạng và giải pháP
Documents -> Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o bé y tÕ ViÖn dinh d­ìng Ph¹m hoµng h­ng HiÖu qu¶ cña truyÒn th ng tÝch cùc ®Õn ®a d¹ng ho¸ b÷a ¨n vµ
Documents -> TỜ khai xác nhận viện trợ HÀng hóA, DỊch vụ trong nưỚC
Documents -> Phụ lục I mẫU ĐƠN ĐỀ nghị ĐĂng ký LƯu hàNH

tải về 1.05 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương