Ảnh hưỞng của sữa bổ sung pre-probiotic lên tình trạng dinh dưỠNG, nhiễm khuẩN


Ảnh hưởng lên hệ vi khuẩn chí đường ruột



tải về 1.05 Mb.
trang10/11
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích1.05 Mb.
#30969
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11

4.5. Ảnh hưởng lên hệ vi khuẩn chí đường ruột

Kết quả xét nghiệm 50 mẫu phân bằng phương pháp PCR cho thấy:



- Về vi khuẩn BB12: Tỷ lệ mẫu phân của trẻ có BB12(+) ở nhóm synbiotic 1 và nhóm synbiotic 2 là 81,3% và 77,8% ở thời điểm sau 3 tháng can thiệp; sau 6 tháng là 43,8% và 66,7%, cao hơn hẳn so với nhóm chứng và nhóm chỉ bổ sung prebiotic. Mặc dù tại thời điểm điều tra ban đầu các mẫu phân đều có kết quả (-) đối với vi khuẩn này. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Mẫu phân của trẻ được đánh giá là (+) khi số lượng vi khuẩn BB12 ≥ 105 CFU/g phân khô. Tại thời điểm T3, số lượng trung bình về BB12 trong phân của trẻ ở tất cả các nhóm đều tăng lên; trong đó cao nhất là ở nhóm synbiotic 1 và synbiotic 2, là các nhóm bổ sung probiotic BB12, so với nhóm chứng và nhóm prebiotic (56,5.106 13,3.106 so với 0,11.106 và 0,57.103). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,01. Sau 6 tháng can thiệp, ở nhóm chứng và nhóm prebiotic không phát hiện thấy BB12 trong phân của trẻ, trong khi đó số lượng trung bình về BB12 trong phân của trẻ ở nhóm synbiotic 1 và synbiotic 2, là những nhóm được bổ sung BB12 có số lượng cao hơn hẳn so với cả 2 nhóm kia (1,47.107 và 1,85.107 so với 0) với p<0,01. Kết quả nghiên cứu này cho thấy, nếu trẻ được uống bổ sung sữa có probiotic thì B. lactis BB12 có khả năng sống và phát triển trong đường ruột của trẻ. (Bảng 3.22; 3.23; biểu đồ 3.9)

- Về tổng số vi khuẩn: tổng số vi khuẩn có xu hướng thấp nhất ở nhóm prebiotic tại thời điểm T3 so với các nhóm còn lại, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Sau 6 tháng can thiệp, tổng số vi khuẩn đã giảm đi ở tất cả các nhóm nghiên cứu, thấp nhất ở nhóm synbiotic 1 so với nhóm chứng và nhóm prebiotic và nhóm synbiotic 2, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p <0,01 (1,70.1010 so với 6,49.1010 ; 5,96.1010 và 5,06.1010 ) (Bảng 3.23).

- Về vi khuẩn lactobacilli & Bifidobacteria: Số lượng trung bình của lactobacilli trong phân của trẻ ở nhóm prebiotic và synbiotic 1 có xu hướng cao hơn so với nhóm chứng sau 3 tháng can thiệp (2,88.107 2,87.107 so với 1,79.107 ở nhóm chứng) và đến 6 tháng thì cao nhất lại ở nhóm chứng. Tuy nhiên sự khác biệt này không có‎ ý nghĩa thống kê (p>0,05). Còn đối với Bifidobacteria, sau 3 tháng can thiệp thì số lượng trung bình Bifidobacteria trong phân của trẻ ở nhóm synbiotic 1 có xu hướng cao hơn so với nhóm chứng và các nhóm còn lại (2,09.1010 so với 1,64.1010, 1,59.1010, 1,64.1010), tuy nhiên sau 6 tháng can thiệp thì số lượng trung bình Bifidobacteria ở nhóm synbiotic 1 lại thấp hơn hẳn so với nhóm chứng với p<0,05. Tỷ lệ vi khuẩn có lợi Lactobacilli & Bifidobacteria trên tổng số vi khuẩn trong phân sau can thiệp đã tăng lên ở cả 4 nhóm nghiên cứu, trong đó tăng cao nhất ở nhóm synbiotic 1, rồi đến nhóm chứng và nhóm synbiotic 2 đối với Lactobacilli và nhóm synbiotic 2 đến nhóm chứng và nhóm synbiotic 1 đối với Bifidobacteria,(Bảng 3.23 và biểu đồ 3.10; 3.11; 3.12 & 3.13).

- Về BacteroidesE.coli: Cũng như tổng số vi khuẩn, sau 3 tháng can thiệp số lượng trung bình BacteroidesE.coli ở nhóm prebiotic thấp hơn so với 3 nhóm còn lại, tuy không có ý nghĩa thống kê (0,59.109 so với 0,96.109, 4,13.109 và 1,58.109 đối với bacteroides; 1,94.108 so với 6,38.108, 4,55.108 8,36.108 đối với E.coli). Tuy nhiên đến cuối can thiệp thì số lượng trung bình của BacteroidesE.coli lại thấp nhất ở nhóm synbiotic 1 (0,66.108 so với 7,60.108, 5,81.108 và 2,44.108 đối với bacteroides) và (0,24.108 so với 7,57.108, 10,4.108 0,69.108 đối với E. Coli). Tuy nhiên các sự khác biệt này cũng không có‎ ý nghĩa thống kê (p>0,05). Như vậy đến cuối can thiệp (sau 6 tháng thì số lượng trung bình của tổng số vi khuẩn, BacteroidesE.coli là thấp nhất ở nhóm synbiotic 1. Tỷ lệ vi khuẩn bacteroide trên tổng số vi khuẩn trong phân sau can thiệp đã được giảm đi rất nhiều ở 2 nhóm uống sữa bổ sung synbiotic, trong khi lại tăng lên ở nhóm chứng và nhóm uống sữa bổ sung prebiotic. Cũng tương tự như đối với vi khuẩn bacteroide, tỷ lệ E. coli trên tổng số vi khuẩn trong phân sau can thiệp đã được giảm đi tuy không nhiều ở 2 nhóm uống sữa bổ sung synbiotic, trong khi lại tăng lên rất cao ở nhóm chứng và nhóm uống sữa bổ sung prebiotic. (Bảng 3.24 và biểu đồ 3.14 & 3.15& 3.16 & 3.17). Kết quả này của chúng tôi cũng giống như kết quả của một nghiên cứu khác việc bổ sung BB12 làm giảm vi khuẩn có hại trong phân của trẻ [98]

Cũng tương tự như kết quả nghiên cứu của chúng tôi, một số nghiên cứu của các tác giả khác cũng cho thấy, việc bổ sung GOS và FOS sẽ kích thích sự phát triển của các vi khuẩn có lợi trong đường ruột của trẻ như Bifidobacteria [99], [116].

Kết quả nghiên cứu của Rigo cho thấy kết hợp GOS / FOS (0,4 g/100 ml) ở trẻ sơ sinh đủ tháng có tác dụng lên bifidobacteria và tỷ lệ bifidobacteria trên tổng số vi khuẩn trong phân tăng từ 21% ở ba ngày tuổi lên khoảng 50% ở 25 ngày tuổi [123]. Kết quả nghiên cứu của Schmelzle cũng cho kết quả tương tự khi kết hợp GOS / FOS (0,8 g/100 ml) [141]. Nghiên cứu của Costalos cho thấy clostridia trong phân thấp hơn, số lần đại tiện nhiều hơn, phân mềm hơn ở trẻ sơ sinh đủ tháng được cho bổ sung 0,4 g GOS / FOS (tỷ lệ 9:1) so với nhóm chứng [59]. 

Một trong các nghiên cứu lâm sàng đầu tiên của B. lactis BB12 ở trẻ em được

tién hành tại Nhật Bản với sự tham gia của 7 trẻ em khỏe mạnh từ 15 đến 31 tháng tuổi. Trẻ được bổ sung probiotic B. Lactis BB12 với liều lượng 1 x 109/ngày trong 21 ngày. Trong thời gian can thiệp, BB12 được tìm thấy trong các mẫu phân của trẻ cũng như IgA ở một số mẫu phân cao hơn đáng kể ở một số thời điểm can thiệp. Một tuần sau khi ngừng can thiệp, BB12 đã không còn phát hiện trong các mẫu phân và IgA trong phân cũng không cao [74]. Sự xuất hiện có chọn lọc của BB12 trong các mẫu phân của trẻ em được bổ sung probiotic cũng đã được ghi nhận trong các báo cáo khác được Haschke và cộng sự tổng hợp [87]. Một nghiên cứu khác cho thấy việc bổ sung BB12 có ảnh hưởng lên hệ vi khuẩn đường ruột của trẻ đẻ non; số lượng B. Lactis BB12 tăng lên ở trong phân, trong khi đó Enterobacteria clostridia thì giảm khoảng 10-15% [113]. Một nghiên cứu khác tại Hà Lan trên trẻ từ 1,6 đến 4 tháng tuổi bị dị ứng sữa bò với việc cho uống sữa bổ sung BB12CRL341, kết quả xét nghiệm cho thấy BB12CRL 341 cũng được tìm thấy trong phân [90].

Một nghiên cứu được tiến hành trên 30 người tình nguyện nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của GOS đơn lẻ hoặc GOS kết hợp với probiotic B.Lactis BB12 cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ và số lượng Bifidobacterium lactis BB12 giữa các nhóm nghiên cứu, kết quả này cho thấy GOS không phải là yếu tố làm tăng khả năng sống còn hoặc bền bỉ của B. lactis BB12 [25]. Nghiên cứu của chúng tôi không chứng minh được điều này do không có nhóm probiotic riêng lẻ.

Một nghiên cứu khác được tiến hành trên 105 trẻ khỏe mạnh tuổi từ 0-2 tháng, trẻ được chia thành 2 nhóm: nhóm can thiệp (51 trẻ) được uống sữa có bổ sung LGG và nhóm chứng (44 trẻ) được uống sữa công thức không bổ sung cho đến khi trẻ được 6 tháng tuổi nhằm đánh giá ảnh hưởng của sữa công thức được bổ sung Lactobacillus rhamnosus GG (LGG) lên tăng trưởng và vi khuẩn trong phân trong 6 tháng đầu đời của trẻ. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm can thiệp có số lần đại tiện cao hơn một cách có ý nghĩa so với nhóm chứng 9,1 ± 2,06 so với 8,0 ± 2,8 (p<0,05). Chủng Lactobacilli được tìm thấy nhiều hơn một cách có ý nghĩa ở nhóm can thiệp so với nhóm chứng ( 91% so với 76% (P<0,05) [157]. Trong nghiên cứu của chúng tôi khi bổ sung CRL-341BB12 thì trong 3 tháng đầu số lượng Bifidobacteria và Lactobacilli có tăng lên, tuy nhiên xu hướng này không được duy trì sau 6 tháng can thiệp.

Một số nghiên cứu khác còn cho thấy việc kết hợp prebiotic và probiotic cải thiện độ đặc lỏng của phân [36], [67], [122], [158] và ảnh hưởng tích cực lên vi khuẩn đường tiêu hóa thông qua việc kích thích sự phát triển của Bifidobacteria [122] .

Nghiên cứu của Bakker-Zierikzee trên 3 nhóm trẻ sơ sinh được tiến hành ngay sau khi trẻ sinh ra, trẻ được ngẫu nhiên chia thành 3 nhóm: nhóm1 (n=19) được uống sữa bổ sung prebiotic (GOS/FOS) với 6 g/l, Nhóm prebiotic (n = 9) được uống sữa có bổ sung BB12 với liều lượng 6,0 x1010/L và nhóm chứng (n =19), được uống sữa công thức không bổ sung trong vòng 16 tuần. Mẫu phân được lấy xét nghiệm vào ngày thứ 5 và 10 sau khi trẻ sinh và vào tuần thứ 4, 8, 12 và tuần 16. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bifidobacteria có cao hơn ở các nhóm can thiệp ở tuần thứ 16, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (tương ứng là 59,2%, 52,7% và 51,8% ở nhóm GOS/FOS, nhóm BB12 và nhóm chứng [30]. Kết quả này cũng tương tự như trong nghiên cứu của chúng tôi, ở tháng thứ 3 tỷ lệ bifidobacteria ở các nhóm bổ sung prebiotic và synbiotic 1 cũng có xu hướng cao hơn so với nhóm chứng (22,9%, 24,4% so với 20,4%), tuy nhiên xu thế này không duy trì ở tháng thứ 6.

Một nghiên cứu khác trên 30 trẻ đẻ non được chia làm 2 nhóm: nhóm can thiệp được bổ sung GOS/FOS 10g/L với tỷ lệ như trong sữa mẹ (9:1) và nhóm chứng được bổ sung sữa công thức, bên cạnh đó nhóm trẻ được nuôi bằng sữa mẹ với n =12 được sử dụng như nhóm tham khảo. Mẫu phân của trẻ được thu thập vào ngày 1, 7, 14, và 28 ngày, và các đặc tính của phân, tăng trưởng, biến chứng cũng được thu thập và ghi lại. Kết quả nghiên cứu cho thấy số lượng bifidobacteria ở nhóm bổ sung GOS/FOS cao hơn một cách có ý nghĩa so với nhóm chứng (p=0,0008), trong thời gian can thiệp phân của nhóm chứng trở nên cứng hơn trong khi đó phân ở các nhóm khác thì ổn định [75]. Kết quả này cũng giống như kết quả nghiên cứu của chúng tôi trẻ ở nhóm synbiotic 1 có số ngày phân cứng ít hơn rõ rệt (p<0,01). Một nghiên cứu được tiến hành trên 20 người trưởng thành tuổi từ 40 - 65, trong đó nhóm can thiệp được bổ sung 3 lần/ ngày 100 ml sữa lên men bổ sung109CFU L. casei Shirota/ml và nhóm chứng được uống sữa không lên men trong vòng 8 tuần. Kết quả cho thấy so với nhóm chứng thì nhóm can thiệp có số lượng Lactobacillus trong phân tăng lên một cách rõ rệt, trong đó L. casei Shirota là chủ yếu với số lượng 107 CFU/g phân tươi và số lượng Bifidobacterium cũng tăng lên một cách có ý nghĩa (p<0,05) [150]. Một nghiên cứu trên người trưởng thành cho thấy việc bổ sung 250 ml sữa với các liều khác nhau của Bifidobacterium lactis HN019 (DR10TM) [5 x 109 CFU/ngày (cao), 1,0 x 109 CFU/ngày (trung bình) và 6,5 x 107 CFU/ngày (thấp)] trong vòng 4 tuần cho thấy sau can thiệp số lượng bifidobacteria, lactobacilli enterococci trong phân tăng lên rõ rệt sau 4 tuần với số lượng trung bình bifidobacteria ở nhóm chứng là 9,31 ± 0,01 log CFU/g phân, ở nhóm liều cao, trung bình và liều thấp, số lượng bifidobacteria cao hơn hẳn so với nhóm chứng (9,88 ± 0,1, 9,75 ± 0,14 và 9,74 ± 0,11 log CFU/g phân, tương ứng) (p<0,006), kết quả cho thấy thậm chí với liều thấp (6,5 x 107 CFU/ngày) cũng làm thay đổi số lượng bifidobacteria, lactobacilli, enterococci [24]. Một nghiên cứu khác cho thấy việc bổ sung sớm B. breve cho trẻ có cân nặng sơ sinh thấp là có ích trong việc hỗ trợ hình thành hệ vi khuẩn chí đường ruột và Bifidobacteria [104].

Trong một nghiên cứu trên 232 bà mẹ mang thai có tiền sử bị dị ứng với việc bổ sung 1 x 10 CFU L reuteri (ATCC) 55730 hằng ngày trong vòng 4 tuần cuối trước khi sinh và con của họ được bổ sung như mẹ cho đến khi được 12 tháng tuổi. Kết quả nghiên cứu cho thấy Lactobacillus reuteri được tìm thấy trong sữa

mẹ và trong phân của hầu hết trẻ tham gia nghiên cứu [22].

Như vậy, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, đối với hệ vi khuẩn chí đường ruột thì các nhóm synbiotic có tác dụng tích cực lên thành phần và tỷ lệ các vi khuẩn có lợi và hại của cơ thể, tuy nhiên tác dụng này chưa thực sự ổn định. Nghiên cứu cũng cho thấy BB12 có thể sống và phát triển ổn định trong 6 tháng can thiệp. Phần lớn các nghiên cứu đều cho thấy probiotic có thể sống và tăng trưởng trong đường ruột của trẻ, tuy nhiên tác dụng của probiotic khi bổ sung trong thời gian dài cần phải được nghiên cứu thêm. Phần lớn các nghiên cứu can thiệp trong thời gian ngắn hoặc trong giai đoạn ban đầu thì tác dụng của probiotic tương đối rõ rệt hơn so với các giai đoạn sau.

Tác dụng của synbiotic có thể là do prebiotic và probiotic làm thay đổi hệ vi khuẩn trong đường ruột và do vậy làm tăng sức đề kháng đối với các bệnh nhiễm khuẩn thông qua cạnh tranh và ức chế sự phát triển của các vi khuẩn có hại hoặc (tuyến bảo vệ đầu tiên) và thông qua việc thay đổi chức năng miễn dịch (tuyến bảo vệ thứ hai).

Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc bổ sung B. lactis BB12L. casei CRL431 kết hợp với 0,25 g galacto-oligosaccharides trong 100 ml sữa công thức là an toàn và không có các tác dụng có hại lên sự tăng trưởng và hành vi ở trẻ nhỏ ở Hà Lan [158]. Mặc dù không phải là mục tiêu nhưng nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy việc bổ sung B. lactis BB12L. casei CRL431 cho trẻ em Việt nam là an toàn và dung nạp tốt khi kết hợp với GOS/FOS (9:1) trong sữa công thức (tác động tích cực lên tăng trưởng cân nặng/chiều cao của trẻ, không tác dụng có hại lên tình trạng nhiễm khuẩn của trẻ, tính chất phân của trẻ phần nào được cải thiện, số lần đại tiện của trẻ có xu hướng tăng ở các nhóm synbiotic). Nghiên cứu chỉ ra rằng các nhóm trẻ được bổ sung prebiotic hoặc synbiotic có ưu thế về tăng trưởng cân nặng và chiều cao hơn so với nhóm chứng và ưu thế này được xác định ngay từ tháng đầu tiên và duy trì trong suốt thời gian nghiên cứu, nhất là trẻ ở nhóm synbiotic 1. Tác dụng lên tăng trưởng cho đến nay vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chủng probiotic, liều lượng, thời gian bổ sung và tình hình bệnh tật của trẻ.

Trong nghiên cứu của chúng tôi thì các triệu chứng nhiễm khuẩn ít bị tác động của việc bổ sung prebiotic và synbiotic, có thể do liều bổ sung trong nghiên cứu của chúng tôi là thấp hơn so với các nghiên cứu khác [52], [76]. Bên cạnh đó, trong nghiên cứu của chúng tôi, phần lớn trẻ vẫn tiếp tục bú mẹ bên cạnh việc bổ sung prebiotic và synbiotic. Như chúng ta đã biết sữa mẹ là tiêu chuẩn vàng cho sữa công thức, sữa mẹ giúp trẻ phòng chống bệnh nhiễm khuẩn, kích thích sự phát triển của vi khuẩn có ích và làm phân của trẻ mềm hơn. Trẻ bú sữa mẹ ít bị nhiễm khuẩn đường tiêu hóa hơn so với trẻ uống sữa công thức [33], [47], [63], [86]. Điều này là do trong sữa mẹ có các yếu tố bảo vệ như kháng thể IgA giúp chống lại các vi khuẩn gây nhiễm khuẩn hô hấp và viêm đường ruột có trong môi trường xung quanh người mẹ và trẻ, lactoferrin trong sữa mẹ có thể tiêu diệt các vi khuẩn gây bệnh và ngăn ngừa chúng bám vào màng nhày [86], sữa mẹ còn chứa các chất kích thích miễn dịch và chất chống viêm như leukocytes, cytokines, chemokines, hóc môn, các acid béo, muối khoáng, vitamin và nucleotid. Các chất này cũng có thể ảnh hưởng lên hệ miễn dịch [51], [90]. Có thể trong nghiên cứu của chúng tôi tác dụng của việc bổ sung thêm prebiotic và synbiotic không được rõ ràng do trẻ đã có các yếu tố bảo vệ tốt từ sữa mẹ. Trong nghiên cứu này của chúng tôi, phần lớn các trường hợp lượng sữa bổ sung cho trẻ bị hạn chế và chỉ bổ sung cho khoảng < 30% nhu cầu sữa hằng ngày và sữa mẹ cung cấp phần lớn nhu cầu của trẻ. Bên cạnh đó, các đặc tính của phân chưa được cải thiện rõ rệt khi bổ sung prebiotic và probiotic. Điều này nói lên rằng việc bổ sung thêm GOS/FOS không thể cải thiện hơn khi trẻ đã có sữa mẹ do sữa mẹ chứa oligo- saccharides cũng làm tăng sự phát triển của các loài vi khuẩn bifidobacteria, đây là loài vi khuẩn có mặt sớm nhất trong đường tiêu hoá [164], Oligosaccharides trong sữa mẹ được xem như là prebiotic vì nó hỗ trợ sự phát triển của vi khuẩn BifidobacteriaLactobacilli trong ruột già của những trẻ bú mẹ hoàn toàn [81]. Hệ vi sinh vật của trẻ được nuôi bằng sữa mẹ không những có nhiều vi khuẩn bifidobacteria mà còn chứa ít các vi khuẩn gây bệnh có hại so với trẻ bú sữa ngoài [149], điều này một phần nào giải thích tại sao tỷ lệ mắc mới của bệnh nhiễm khuẩn là thấp ở trẻ được nuôi bằng sữa mẹ.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ ra rằng nhóm synbiotic 1 là nhóm có một vài ưu thế hơn đối với tăng trưởng của trẻ, nhiễm khuẩn tiêu hóa và hô hấp, hệ vi khuẩn chí đường ruột, tuy có lúc chưa thực sự rõ ràng và ổn định.



KẾT LUẬN
Từ những kết quả của nghiên cứu chúng tôi xin rút ra một số kết luận sau:

1. Về thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ, ăn bổ sung, tỷ lệ bệnh nhiễm trùng tại địa bàn nghiên cứu:

Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ, cho trẻ ăn bổ sung tại địa phương nghiên cứu còn chưa hợp lí: 44,4% trẻ được cho bú ngay trong vòng ½ giờ sau, 15,2 % bà mẹ cho con bú sau 24h; hơn 50 % bà mẹ cho trẻ ăn/uống các thức ăn khác trước khi cho bú lần đầu; gần 90% trẻ bắt đầu ăn bổ sung dưới 4 tháng tuổi; 10,4 % trẻ từ 4-5 tháng và 0,7 % từ 5-6 tháng tuổi, tháng tuổi trung bình trẻ bắt đầu ăn bổ sung là 3,4 tháng; lí do chủ yếu trẻ được cho ăn bổ sung sớm là do mẹ bận công việc (54,9%) và mẹ không đủ sữa (16,9%); thực phẩm phổ biến cho trẻ ăn bổ sung là các loại bột gạo, bột ăn liền (70,3%), các loại thịt, cá, trứng chỉ chiếm (32,8%).

Thực hành chăm sóc trẻ chưa phù hợp, tỷ lệ mắc bệnh nhiễm khuẩn còn cao: 52,2% bà mẹ cho con bú nhiều hơn khi trẻ bị bệnh và vẫn còn 5,3% bà mẹ cho bú ít hơn khi con họ bị ốm. Tỷ lệ tiêu chảy và nhiễm khuẩn hô hấp trong vòng hai tuần trước khi nghiên cứu tương ứng là 21,7% và 27,6%.

2. Về hiệu quả của sữa bổ sung prebiotic hoặc synbiotic lên tăng trưởng, nhiễm khuẩn đường tiêu hóa và hô hấp và hệ vi khuẩn chí đường ruột

2.1. Ảnh hưởng đến tăng trưởng ở trẻ:

- Sau 6 tháng can thiệp, mức tăng cân nặng ở cả 3 nhóm trẻ được uống sữa bổ sung prebiotic hoặc synbiotic đều cao hơn so với nhóm chứng (2,6 kg, 2,4kg, 2,3kg so với 2,2 kg), đặc biệt trẻ ở nhóm prebiotic và nhóm synbiotic 1 có mức tăng cân cao hơn hẳn so với nhóm chứng (2,6kg; 2,4kg so với 2,2 kg) (p<0,05) ;

- Trẻ ở 3 nhóm can thiệp có mức tăng chiều dài nằm cao hơn so với nhóm đối chứng (9,4cm; 9,9cm; 9,5cm so với 9,3cm), tuy nhiên chỉ có trẻ ở nhóm synbiotic1 có mức tăng chiều dài nằm cao hơn hẳn so với nhóm chứng (p<0,05).

- Chỉ số Z-Score về cân nặng theo tuổi (WAZ), chiều dài nằm theo tuổi (HAZ), cân nặng theo chiều dài nằm (WHZ) không có sự khác biệt giữa các nhóm nghiên cứu (p>0,05).



2.2. Ảnh hưởng đến nhiễm khuẩn tiêu hóa và hô hấp ở trẻ:

Sữa bổ sung prebiotic hoặc synbiotic cho trẻ đang bú mẹ trong thời gian 6 tháng chưa có tác dụng rõ rệt lên phần lớn các triệu chứng nhiễm khuẩn đường tiêu hóa và hô hấp. Tỷ lệ đầy hơi thấp hơn ở nhóm prebiotic và synbiotic 2 thấp hơn rõ rệt so với nhóm chứng (1,7%; 9,1% so với 23,6%) (p<0,05), số lần trẻ đi phân cứng thấp hơn rõ rệt ở nhóm synbiotic 1 so với các nhóm chứng, nhóm prebiotic và nhóm synbiotic 2 (0 so với 1 và 0; 0) (p<0,01).



2.3. Ảnh hưởng đến hệ vi khuẩn chí đường ruột ở trẻ:

- Sữa bổ sung synbiotic có xu hướng làm tăng số lượng, tỷ lệ một số vi khuẩn có lợi như Lactobacilli, (đối với Bifidobacteria thì xu hướng này chưa thực sự bền vững), đồng thời làm giảm tổng số vi khuẩn, số lượng, tỷ lệ một số vi khuẩn có hại như BacteroidesE.coli. Đặc biệt, sau 6 tháng can thiệp tỷ lệ mẫu phân có BB12 và số lượng trung bình BB12 trong phân của trẻ uống sữa bổ sung synbiotic cao hơn hẳn so với cả 2 nhóm kia (43,8% và 66,7%, so với 0%) và (1,47.107 và 1,85.107 so với 0) (p<0,05). Nhóm synbiotic 1 là nhóm có một vài ưu thế hơn đối với hệ vi khuẩn chí đường ruột, tuy có lúc chưa thực sự ổn định.



KHUYẾN NGHỊ
1. Cần tăng cường tuyên truyền và giáo dục các bà mẹ tại địa bàn nghiên cứu về NCBSM và ăn bổ sung hợp lí theo khuyến cáo của WHO nhằm giảm thiểu các bệnh nhiễm khuẩn góp phần cải thiện tình trạng dinh dưỡng của trẻ.

2. Sữa bổ sung synbiotic, đặc biệt là synbiotic 1 có thể sử dụng cho trẻ từ 6-12 tháng tuổi không được bú mẹ hoặc mẹ bị thiếu sữa, góp phần cải thiện tình trạng dinh dưỡng và cải thiện hệ vi khuẩn chí đường ruột cho trẻ.

3. Cần có các nghiên cứu sâu hơn với các chủng probiotic khác nhau nhằm đánh giá ảnh hưởng của chúng lên tăng trưởng, tình trạng nhiễm khuẩn đường tiêu hóa và hô hấp, hệ vi khuẩn đường ruột ở trẻ, đặc biệt trẻ không được nuôi bằng sữa mẹ (trẻ mồ côi).


TÓM TẮT NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN ÁN

1. Thử nghiệm hướng can thiệp mới trong giảm thiểu nhiễm khuẩn đường tiêu hóa và hô hấp bên cạnh các giải pháp can thiệp dinh dưỡng khác góp phần cải thiện tình trạng dinh dưỡng trẻ em Việt Nam.

2. Đánh giá được ảnh hưởng của prebiotic và synbiotic (CRL341/BB12 kết hợp với prebiotic GOS/FOS với các liều lượng khác nhau) lên tăng trưởng, nhiễm khuẩn đường tiêu hóa, hô hấp và lên hệ vi khuẩn đường ruột ở trẻ 6-12 tháng tuổi đang bú mẹ ở Việt Nam

3. Kết quả nghiên cứu cho thấy B. lactis BB12 được bổ sung có khả năng sống và phát triển ổn định trong đường ruột trẻ em Việt nam trong 6 tháng nghiên cứu.



TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt

  1. Nguyễn Yến Bình (2003), Nghiên cứu một số vi sinh vật gây tiêu chảy cấp ở trẻ từ 3 tháng đến 5 tuổi tại bệnh viên Xanh pôn- Hà nội và tính kháng thuốc của chúng, Luận văn bác sỹ chuyên khoa 2, Trường đại học Y Hà Nội, Hà Nội.

  1. Bộ môn dinh dưỡng & An toàn thực phẩm, Đại học Y Hà nội (2004), Dinh dưỡng và an toàn thực phẩm, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr.78-97, 113-128, 254-256.

  1. Bộ Y tế (2009), Tài liệu hướng dẫn xử trí tiêu chảy ở trẻ em, Ban hành kèm theo quyết định số 4121/QĐ-BYT ngày 28/10/2009, Bộ Y tế, Hà Nội.

  1. Bộ Y tế, Chương trình ARI (1994), Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính trẻ em, Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội, tr.2-29, 142-150.

  1. Nguyễn Kim Cảnh, Lê Bạch Mai (2004), "Một số nhận xét về tình hình sữa mẹ và cân nặng sơ sinh trẻ em", Thông tin dinh dưỡng số 1, Viện Dinh dưỡng, Hà Nội.

  1. Nguyễn Việt Cồ, Bùi Đức Dương (2000), Tình hình sử dụng dịch vụ y tế cơ sở và khả năng tiếp cận của trẻ em với chương trình NKHHCT, Hội nghị tổng kết hoạt động ARI, Hà Nội, tr. 38.

  1. Đào Ngọc Diễn, Nguyễn Trọng An và CS (1989), "Tìm hiểu cách nuôi trẻ em trong thời kỳ bú mẹ", Kỷ yếu công trình Nhi khoa,Viện Bảo Vệ Sức Khỏe Trẻ Em, Hà Nội, tr.14.

  1. Cao Thu Hương (2005), Sử dụng bột giàu năng lượng - vi chất phòng chống thiếu dinh dưỡng ở trẻ em 5-8 tháng tuổi, Luận án Tiến sỹ Y học, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, Hà Nội.

  1. Nguyễn Công Khẩn (1995), Thiếu vitamin A và bệnh khô mắt ở trẻ em dưới 5 tuổi vùng đồng bằng Sông Hồng Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Y học, Hà Nội.

  1. Hà Huy Khôi, Nguyễn Công Khẩn, Phạm Duy Tường, Nguyễn Trọng An (1990), "Tìm hiểu ảnh hưởng của việc bổ sung vitamin A liều cao tới tình trạng dinh dưỡng trẻ em", Tạp chí y học thực hành,(1), tr.5-6.

  1. Hà Huy Khôi, Từ giấy (1994), Các bệnh thiếu dinh dưỡng và sức khoẻ cộng đồng ở Việt nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr.4,7-19.

  1. Nguyễn Xuân Ninh, Bùi Anh Tuấn và CS (2008), "Hiệu quả của bổ sung sữa giàu Prebiotic đến tình trạng tiêu hóa, vi chất dinh dưỡng ở trẻ 24-36 tháng tuổi”, Tạp chí y học thực hành, 1(594-595), tr. 87-90.

  1. Nguyễn Xuân Ninh, Dương Thị Tình và CS (2009), Hiệu quả của sữa có probiotic và prebiotic đến tình trạng dinh dưỡng, nhiễm khuẩn, miễn dịch của trẻ 18-36 tháng tuổi, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Viện - Viện Dinh Dưỡng, Hà Nội.

  1. Phạm Văn Phú (2007), Nghiên cứu giải pháp cải thiện chất lượng thức ăn bổ sung dựa vào nguồn nguyên liệu địa phương ở một vùng nông thôn tỉnh Quảng Nam, Luận án Tiến sỹ Y học, Đại Học Y Hà Nội, Hà Nội.

  1. Nguyễn Lan Phương (2011), Hiệu quả của bổ sung sữa có probiotic và prebiotic đến tình trạng dinh dưỡng và tình trạng miễn dịch của trẻ từ 18-36 tháng tuổi tại huyện Gia Bình, Bắc Ninh, Luận án thạc sĩ dinh dưỡng cộng đồng, Viện Dinh Dưỡng, Hà Nội.

  1. Nguyễn Đình Quang (1996), Thực hành nuôi con của bà mẹ ở nội ngoại thành Hà Nội giai đoạn hiện tại, Luận án thạc sỹ dinh dưỡng cộng đồng, Đại Học Y Hà Nội, Hà Nội.

  1. Hoàng Kim Thanh, Hà Huy Khôi (1994), "Nghiên cứu tác dụng của bổ sung vitamin A liều cao tới tiến triển ỉa chảy- suy dinh dưỡng ở trẻ em", Tạp chí y học thực hành (3), tr.16-18.

  1. VDD (2005), Báo cáo về tình trạng dinh dưỡng trẻ em và bà mẹ. Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

  1. VDD (2011), Tình hình dinh dưỡng Việt Nam năm 2009-2010, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

  1. Nguyễn Tấn Viên, Lê Thị Ngọc Việt (1994), "Một số nhận xét về bệnh NKHHCT ở trẻ dưới 5 tuổi qua 5.084 trường hợp NKHHCT ở trẻ 2 tháng đến 5 tuổi", Kỷ yếu công trình Nhi khoa, tr.358-363.

Каталог: FileUpload -> Documents
Documents -> BỘ khoa học và CÔng nghệ
Documents -> HÀ NỘI – 2013 BỘ giáo dụC ĐÀo tạo bộ y tế viện dinh dưỠNG
Documents -> Phụ lục về cấp hạng khách quốc tế
Documents -> CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam qcvn 01 78: 2011/bnnptnt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia thứC Ăn chăn nuôi các chỉ tiêu vệ sinh an toàn và MỨc giới hạn tốI Đa cho phép trong thứC Ăn chăn nuôI
Documents -> TỔng cục dạy nghề
Documents -> BỘ giáo dụC ĐÀo tạo bộ y tế viện dinh dưỠng nguyễn thị thanh hưƠng thực trạng và giải pháP
Documents -> Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o bé y tÕ ViÖn dinh d­ìng Ph¹m hoµng h­ng HiÖu qu¶ cña truyÒn th ng tÝch cùc ®Õn ®a d¹ng ho¸ b÷a ¨n vµ
Documents -> TỜ khai xác nhận viện trợ HÀng hóA, DỊch vụ trong nưỚC
Documents -> Phụ lục I mẫU ĐƠN ĐỀ nghị ĐĂng ký LƯu hàNH

tải về 1.05 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương