Ảnh hưỞng của sữa bổ sung pre-probiotic lên tình trạng dinh dưỠNG, nhiễm khuẩN



tải về 1.05 Mb.
trang2/11
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích1.05 Mb.
#30969
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

1. Mô tả thực trạng NCBSM, thực hành ăn bổ sung, tình hình nuôi dưỡng và bệnh tật của trẻ từ 5-6 tháng tuổi tại huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.


2. Đánh giá mức độ ảnh hưởng của sữa bổ sung prebiotic và synbiotic (probiotic kết hợp với prebiotic) đến tình trạng dinh dưỡng, tình trạng nhiễm khuẩn và hệ vi khuẩn chí đường ruột ở trẻ từ 6-12 tháng tuổi trong 6 tháng can thiệp.
Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. HỆ VI KHUẨN CHÍ ĐƯỜNG RUỘT

1.1.1. Khái niệm

Vi khuẩn chí đường ruột là các vi khuẩn sống bình thường trong đường tiêu hoá và thực hiện nhiều chức năng có lợi cho con người. Cơ thể con người có khoảng 1013 tế bào, trong khi đó số vi khuẩn có trong đường ruột còn gấp mười lần [83], [142]. Phần lớn vi khuẩn ở trong ruột [155] và 60% trong phân [83]. Có khoảng từ 300 đến 1000 loài vi khuẩn sống trong đường ruột [83], trung bình khoảng 500 loài [142]. Tuy nhiên mỗi cá thể có khoảng từ 30-40 loài chiếm ưu thế [79]. Nấm (Saccharomyces boulardii) cũng là một phần của vi khuẩn đường ruột, nhưng hoạt động của chúng ít được biết đến.

Nhiều nghiên cứu cho thấy mối liên quan giữa vi khuẩn và con người không chỉ đơn thuần là mối liên quan hội sinh (không gây hại) mà là mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau - mối quan hệ cộng sinh [83]. Mặc dù con người có thể sống mà không cần đến vi khuẩn chí [142], nhưng trong thực tế, các vi khuẩn chí thực hiện nhiều chức năng có lợi cho con người, như làm lên men các chất chứa năng lượng chưa được sử dụng, tác động lên hệ miễn dịch, kìm hãm sự phát triển của các vi khuẩn có hại, điều hoà sự phát triển của ruột, tạo ra vitamin cho cơ thể như biotin và vitamin K, tạo hóc môn điều khiển dự trữ mỡ của cơ thể... Tuy nhiên, trong một số tình huống nhất định thì một số loài có thể gây bệnh và làm tăng nguy cơ gây ung thư [143]. Không phải tất cả các vi khuẩn ăn vào đều là probiotic vì bên cạnh việc lên men các loại thực phẩm thì lợi ích của nó chưa được xác định và các vi khuẩn cũng có các cơ chế khác nhau tác động lên cơ thể.

Các thực phẩm lên men, đặc biệt là các sản phẩm làm từ sữa như sữa chua, đã được sử dụng từ lâu. Ngày nay thực phẩm và nước giải khát có chứa các vi khuẩn sản sinh acid lactic (LAB) chiếm khoảng 40% thực phẩm sử dụng trên thế giới, các vi khuẩn LAB đặc biệt là các loài Lactobacilli, Bifidobacteria, Streptococcus là được sử dụng rộng rãi trong thực phẩm, chúng hiếm khi gây bệnh nhiễm trùng và có tác hại đối với cơ thể con người. Chỉ có một số nhỏ các loài này được nghiên cứu và có tác dụng như một probiotic.

Các probiotic thường được nghiên cứu cho đến nay là loài Lactobacillus bao gồm các chủng như L.Rhamnosus (GG), L.Acidophilus, L.Casei, L.Johnsonii, L.Reuteri là được nghiên cứu nhiều nhất ở người. Đối với loài Bifidobacteria, các chủng được nghiên cứu nhiều nhất là B.Breve, B.Infantis, B.Lactis, B.Longum. Tên gọi của các chủng cũng có sự thay đổi ví dụ như B.Lactis còn được gọi là B.Bifidum, B.Animalis hoặc Bifidobacterium, BB12. Rhamnosus của chủng Lactobacillus Pacasei còn được gọi là Lactobacillus GG.

1.1.2. Sự xuất hiện vi khuẩn chí đường ruột ở trẻ sơ sinh

Đường ruột của trẻ mới sinh là vô trùng. Ngay sau khi được sinh ra, số lượng vi khuẩn chí đường ruột của trẻ phát triển nhanh và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như yếu tố di truyền, đẻ thường hay đẻ có can thiệp, vi khuẩn của người mẹ, cách nuôi trẻ và môi trường xung quanh trẻ. Khi đứa trẻ vừa được sinh ra, ngay lập tức vi khuẩn từ người mẹ và môi trường xung quanh xâm nhập vào đường tiêu hoá của trẻ. Ngay sau khi đẻ trẻ sơ sinh đã có vi khuẩn ở đường tiêu hoá, các vi khuẩn này có nguồn gốc từ phân của người mẹ, nếu đứa trẻ được sinh ra bằng can thiệp thì có thể nhiễm vi khuẩn từ mẹ, nhưng chủ yếu là từ môi trường xung quanh [140]. Sau khi sinh, vi khuẩn từ môi trường bên ngoài qua đường miệng và đường da thâm nhập vào cơ thể trẻ khi mẹ cho trẻ bú, hôn trẻ, vuốt ve...



E. coli streptococci là những vi khuẩn đầu tiên có mặt ở trẻ và chỉ sau vài ngày số lượng vi khuẩn có thể đạt tới 108 – 1010/g phân [140]. Trong tuần đầu sau khi sinh, những vi khuẩn này tạo nên một môi trường thuận lợi cho sự có mặt tiếp theo của các vi khuẩn kị khí, chủ yếu là các vi khuẩn thuộc các loài Bifidobacterium, Bacteroides, ClostridiumRuminococcus [69]. Trẻ được nuôi bằng sữa mẹ thì Bifidobacteria tăng nhanh và chiếm ưu thế, có thể do trong sữa mẹ có yếu tố phát triển Bifidobacteria và chiếm khoảng 80-90% tổng số vi khuẩn, LactobacilliBacteroids cũng tăng nhưng ít hơn và Enterobacteria thì giảm. Trẻ được nuôi bằng các loại sữa bột thì vi khuẩn đa dạng hơn với số lượng lớn Enterobacteriaceae, enterococci, bifidobacteria, Bacteroides và clostridia [57], chủ yếu là ColiformBacteroids [87], [66]. Khi trẻ bắt đầu ăn dặm, thì vi khuẩn của trẻ bú mẹ là gần giống như của trẻ ăn sữa ngoài, khi trẻ hai tuổi thì hệ vi khuẩn trong cơ thể giống như ở người trưởng thành. Mặc dù thành phần của vi khuẩn đường ruột là khác nhau giữa các cá thể, nhưng trong một cá thể thì thành phần này là ổn định trong 1 thời gian dài (16-18 triệu).

1.1.3. Sự phân bố của các vi khuẩn đường ruột

Trong cơ thể, đại tràng là nơi có số lượng lớn và nhiều loài vi khuẩn nhất, hoạt động của chúng làm cho ruột già trở thành cơ quan chuyển hoá tích cực của cơ thể [155]. Phần lớn vi khuẩn ở ruột non là vi khuẩn gram (+), trong khi đó ở đại tràng là gram(-) [34]. Phần đầu của ruột kết phần lớn chịu trách nhiệm việc lên men carbohydrate [143], [155] trong khi đó phần sau của ruột chịu trách nhiệm phân huỷ protein và amino acid [143], [155]. Vi khuẩn phát triển nhanh ở manh tràng và phần đi lên của ruột kết, nơi có độ pH thấp, phát triển chậm ở kết tràng, nơi có độ pH gần như trung tính [143]. Cơ thể điều chỉnh sự cân bằng và phân bố của vi khuẩn thông qua thay đổi độ pH, hoạt động hệ miễn dịch và nhu động ruột.

Hơn 99% vi khuẩn đường ruột là vi khuẩn kị khí [143], nhưng ở manh tràng thì vi khuẩn yếm khí có mật độ cao [143].



1.1.4. Các loài vi khuẩn chí đường ruột

Không phải tất cả các loài vi khuẩn đường ruột đều được xác định [143], [155], do một vài loài không nuôi cấy được [83], [79], do vậy việc phân lập và xác định DNA là rất khó khăn [145]. Mật độ các loài là khác nhau giữa các cá thể, nhưng

tương đối ổn định trên từng cá thể [143].



Biều đồ 1. Phân bố vi khuẩn tại các đoạn khác nhau trong đường tiêu hóa người trưởng thành

Phần lớn vi khuẩn là các giống Bacteroides, Clostridium, Fusobacterium [143], [79], Eubacterium, Ruminococcus, Peptococcus, PeptostreptococcusBifidobacterium [143], [79]. Các giống khác như EscherichiaLactobacillus là ít hơn [143]. Các loài của Bacteroides chiếm khoảng 30% vi khuẩn đường ruột và đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của cơ thể người [83].

Hiện nay người ta cũng biết đến các giống nấm của đường ruột như Candida, Saccharomyces, Aspergillus Penicillium.

1.1.5. Vai trò của vi khuẩn chí đường ruột

Vi khuẩn ở đường ruột thực hiện nhiều chức năng hữu ích cho con người, bao gồm chức năng tiêu hoá các chất giàu năng lượng chưa được sử dụng [69], kích thích sự tăng trưởng tế bào, ức chế sự phát triển của các vi khuẩn có hại, làm cho hệ miễn dịch chỉ phản ứng đối với các vi khuẩn gây bệnh, bảo vệ cơ thể khỏi một số bệnh [143], [83].

1.1.5.1. Tác dụng tới quá trình lên men Carbohydrate và hấp thu

Cơ thể con người không thể sử dụng một vài carbohydrate, không thể tiêu hoá

nếu thiếu vi khuẩn đường ruột do một số vi khuẩn có các enzyme để chuyển hoá một số loại polysaccharide mà tế bào người không có [83]. Carbohydrate mà cơ thể người không thể tiêu hoá nếu thiếu vi khuẩn chí là các loại tinh bột, chất xơ, oligosaccharide và đường như lactose, đường rượu, chất nhày đường ruột và protein [143], [155].

Vi khuẩn chí giúp chuyển hoá carbohydrate, lên men và chuyển thành các acid béo mạch ngắn (SCFAs) [155], [79] và được cơ thể sử dụng như một nguồn năng lượng và các chất dinh dưỡng hữu ích [155], chúng còn làm tăng hấp thu nước, giảm khả năng phát triển các vi khuẩn gây bệnh, tăng sự phát triển tế bào đường ruột và phát triển vi khuẩn có ích [145]. Các acid béo mạch ngắn được tạo thành do quá trình lên men đường bao gồm các acid như acid propionic, acid butyric…[155], [79]. Gas và các acid hữu cơ như acid lactic cũng được sản xuất nhờ quá trình lên men này [79]. Acid acetic được cơ thể sử dụng, acid propionic giúp gan sản xuất ATP và acid butyric cung cấp năng lượng cho tế bào đường ruột và có tác dụng ngăn ngừa ung thư [155].

Có nhiều bằng chứng khác còn cho thấy vi khuẩn chí làm tăng quá trình hấp thu và dự trữ lipid [83]. Vi khuẩn chí giúp cơ thể tăng hấp thu các vitamin như vitamin K. Hơn nữa các acid béo mạch ngắn còn giúp cơ thể hấp thu các chất khác như calci, magie và sắt [143]. Các acid béo mạch ngắn còn làm tăng sự phát triển, kiểm soát sự tăng sinh và biệt hoá các tế bào biểu mô ruột [143], giúp các mô lympho cạnh đường tiêu hoá phát triển. Vi khuẩn còn làm thay đổi sự phát triển đường ruột thông qua việc thay đổi sản sinh các protein bề mặt tế bào như protein vận chuyển natri và glucose [83].

1.1.5.2. Ngăn chặn sự phát triển của các vi khuẩn gây bệnh

Một vai trò quan trọng khác của vi khuẩn chí là ngăn chặn sự phát triển của các vi khuẩn gây hại, nấm và các vi khuẩn có hại như Clostridium difficile không thể phát triển quá mức do phải cạnh tranh với các vi khuẩn có ích. Tác dụng rào cản của vi khuẩn có ích là ngăn ngừa sự xâm nhập của vi khuẩn gây bệnh và ức chế sự phát triển làm giảm số lượng các vi khuẩn này trong đường ruột [143].

Các vi khuẩn chí còn ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn có hại thông qua cạnh tranh các chất dinh dưỡng và điểm gắn (receptor) vào tế bào biểu mô của ruột kết. Các vi khuẩn cộng sinh thường thành công hơn trong việc cạnh tranh này. Các vi khuẩn chí gửi các tín hiệu hoá học đến chủ thể về số lượng chất dinh dưỡng mà chúng cần và chủ thể chỉ cung cấp đủ số lượng đó, do vậy các vi khuẩn có hại bị đói, thiếu chất dinh dưỡng. Các vi khuẩn có ích còn sản xuất ra chất bacteriocin có thể tiêu diệt vi khuẩn có hại và số lượng của chúng được điều khiển bởi các enzyme của chủ thể [143].

Quá trình lên men và tạo ra các acid béo cũng làm giảm độ pH trong ruột già, làm giảm sự tăng sinh của vi khuẩn có hại và tạo điều kiện thuận lợi cho các vi khuẩn có ích. Độ pH cũng có thể làm tăng bài tiết carcinogen [155].

1.1.5.3. Ảnh hưởng đến hệ miễn dịch

Các vi khuẩn chí đường ruột tác động một cách liên tục lên hệ tiêu hoá và hệ miễn dịch của cơ thể. Các vi khuẩn này là yếu tố quan trọng trong sự phát triển sớm hệ miễn dịch màng nhày, cả yếu tố vật lí và chức năng, nó còn tiếp tục đóng vai trò quan trọng sau này trong hoạt động của chúng. Các vi khuẩn kích thích các tế bào lympho cùng với màng nhày tạo ra các kháng thể đối với vi khuẩn gây bệnh. Hệ miễn dịch nhận biết và tiêu diệt các vi khuẩn có hại, không tiêu diệt các vi khuẩn có ích và sự dung nạp được hình thành ở trẻ [143].

Ngay sau khi sinh, vi khuẩn đã có mặt trong đường tiêu hoá của trẻ. Những vi khuẩn có mặt đầu tiên trong đường tiêu hoá có khả năng tác động lên các đáp ứng miễn dịch và làm cho chúng thuận lợi hơn với các vi khuẩn này và ít thuận lợi hơn cho các vi khuẩn cạnh tranh, do vậy các vi khuẩn có mặt đầu tiên trong ruột đóng vai trò quan trọng trong thành phần vi khuẩn đường tiêu hoá sau này. Tuy nhiên từ thời điểm trẻ ăn bổ sung thì ưu thế chuyển từ vi khuẩn yếm khí như

Streptococci Escherichia coli sang vi khuẩn kị khí [143], [83].

Các nghiên cứu trong thời gian gần đây cho thấy, các vi khuẩn chí đường ruột đóng vai trò quan trọng trong việc sản sinh TLRs trong ruột giúp cơ thể hàn gắn các tổn thương. Vi khuẩn chí có thể ảnh hưởng đến "dung nạp miệng" làm cho nó ít nhạy cảm với các kháng nguyên được tiêu hoá, trong đó có kháng nguyên do vi khuẩn có ích tạo ra. LactobacilliBifidobacteria có thể tác động lên miễn dịch cục bộ và miễn dịch hệ thống [144]. Tần suất mắc bệnh và các rối loạn đường ruột ở trẻ được bú mẹ có thể liên quan đến sự khác nhau về thành phần vi khuẩn giữa trẻ bú mẹ và trẻ được nuôi bằng sữa công thức. LactobacilliBifidobacteria định cư trong ruột chống lại việc định cư của các vi khuẩn gây bệnh và do vậy nó thực hiện một phần chức năng rào cản của ruột. Các vi khuẩn này cũng có liên quan đến việc bài tiết các chất có tính chất chống vi khuẩn [146] và mucin thông qua việc kích thích gen MUC2 và MUC3, một phần rào cản của ruột ngăn chặn sự bám dính của các vi khuẩn gây bệnh [107]. Một vài LactobacilliBifidobacteria làm giảm các phản ứng miễn dịch đối với các kháng nguyên và làm giảm các đáp ứng miễn dịch dị ứng.

Một tác động khác của vi khuẩn đường ruột là làm tăng đáp ứng miễn dịch sIgA và vi khuẩn đường ruột. sIgA là immunoglobulin quan trọng và chiếm ưu thế trên bề mặt màng nhày, bảo vệ chống lại các kháng nguyên, vi khuẩn gây bệnh, các độc tố và các yếu tố độc hại khác [72]. Việc tổng hợp sIgA ở ruột chịu tác động của vi khuẩn. Sự phát triển của tế bào sản xuất IgA ở màng nhày của ruột, tiền sIgA chịu ảnh hưởng nhiều của vi khuẩn đường ruột. Sữa mẹ có chứa nhiều sIgA và truyền sang cho trẻ. Thêm vào đó Bifidobacteria có nhiều ở những trẻ được bú mẹ kích thích việc tổng hợp và bài tiết IgA. Trong 28 ngày đầu sau khi sinh, ở những trẻ được nuôi bằng sữa công thức thì sIgA không có trong phân [31]. Các nghiên cứu trên động vật cho thấy khi bổ sung LactobacilliBifidobacteria bằng đường miệng thì ảnh hưởng đến sIgA [154] Các nghiên cứu trên trẻ sơ sinh nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của việc bổ sung một số loài LactobacilliBifidobacteria lên việc kích thích các đáp ứng miễn dịch màng nhày cũng cho các kết quả dương tính. Có thể nói rằng từng loại vi khuẩn, (đặc biệt là Bifidobacteria Lactobacilli) đã giúp cho vật chủ (cơ thể) duy trì chức năng rào cản của ruột và các đáp ứng miễn dịch một cách hợp lí.

1.1.5.4. Phòng ngừa dị ứng

Vi khuẩn chí cũng tham gia vào việc ngăn ngừa dị ứng [41], một phản ứng quá mức của hệ miễn dịch đối với các kháng nguyên lành tính. Nhiều nghiên cứu về hệ vi khuẩn đường ruột của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ cho thấy thành phần vi khuẩn đường ruột của trẻ bị dị ứng và trẻ không bị dị ứng là khác nhau, những trẻ bị dị ứng có số lượng các loại vi khuẩn có hại như C.difficileS.aureus nhiều hơn và có ít BacteroidesBifidobacteria [41]. Điều này được giải thích là do các vi khuẩn có ích kích thích, làm cho hệ miễn dịch phản ứng một cách hợp lí đối với các kháng nguyên và việc thiếu các vi khuẩn này làm cho hệ miễn dịch phản ứng quá mức đối với các kháng nguyên. Ở khía cạnh khác, sự khác nhau về vi khuẩn đường ruột có thể chỉ là kết quả chứ không phải nguyên nhân gây ra dị ứng [41].

1.1.5.5. Phòng ngừa các bệnh viêm ruột

Một vài tác giả cho rằng các acid béo mạch ngắn (SCFAs) do vi khuẩn chí sinh ra giúp phòng ngừa các bệnh viêm ruột ở trẻ nhỏ [84]. Tần suất mắc mới và tỷ lệ mắc bệnh IBD cao hơn ở các nước công nghiệp phát triển so với các nước có nền kinh tế kém hơn, bệnh cũng có liên quan đến việc vệ sinh tốt khi còn trẻ, không nuôi con bằng sữa mẹ, tiêu thụ nhiều đường và mỡ động vật [84] và tần suất mắc mới tỷ lệ nghịch với vệ sinh kém trong năm đầu của cuộc đời, tiêu thụ rau quả và các thức ăn chưa được chế biến [84]. Việc sử dụng kháng sinh giết chết các vi khuẩn có lợi, cũng như vi khuẩn có hại cũng có mối liên quan với IBD. Mặt khác việc sử dụng probiotic mang lại lợi ích cho sức khoẻ, giúp điều trị IBD.

1.1.5.6. Hệ vi khuẩn chí đường ruột với các bệnh khác

Bên cạnh việc có lợi cho sức khoẻ, vi khuẩn đường tiêu hoá cũng có thể có hại cho cơ thể. Chúng có thể sản xuất độc tố và carcinogen [155] liên quan đến các bệnh nhiễm trùng máu, ung thư ruột kết và IBD [143]. Do vậy, điều quan trọng đối với sức khoẻ là phải cân bằng số lượng vi khuẩn, quá nhiều hoặc quá ít đều không có lợi cho sức khoẻ. Có thể dùng enzyme để điều hoà sự cân bằng này [155].



1.1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự cân bằng hệ vi khuẩn đường ruột

1.1.6.1. Độ pH của đường ruột

Độ pH đóng vai trò quan trọng cho hoạt động của ruột. Độ pH của dạ dày là rất thấp, chỉ khoảng 2-4, điều này quan trọng cho quá trình tiêu hoá và tiêu diệt các vi khuẩn có hại. Độ pH tăng dần từ dạ dày đến ruột già. Vi khuẩn sản sinh acid lactic ưa môi trường acid, trong khi đó vi khuẩn gây thối lại ưa thích môi trường kiềm. Do vậy, có một sự cạnh tranh giữa các vi khuẩn lên men và vi khuẩn gây thối. Vi khuẩn lên men sản xuất ra acid hữu cơ để duy trì độ pH thấp, tạo môi trường thuận lợi cho chúng phát triển và hoạt động, trong khi đó các vi khuẩn gây thối sản xuất amoniac để tăng độ pH, tạo môi trường thuận lợi cho chúng phát triển và hoạt động. Nếu độ pH tăng thì các vi khuẩn gây thối và các dạng gây bệnh của candida có cơ hội phát triển và ức chế các vi khuẩn tạo acid lactic. Điều này có thể gây ra hàng loạt các tổn thương ở ruột. Việc bổ sung probiotic và prebiotic giúp phục hồi độ pH và tạo điều kiện thuận lợi cho các vi khuẩn có lợi.







Hình 2. Độ pH và sự phân bố vi khuẩn trong hệ tiêu hóa

1.1.6.2. Tác dụng của kháng sinh

Việc sử dụng các kháng sinh phổ rộng làm thay đổi số lượng các vi khuẩn có ích có thể ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ và khả năng tiêu hoá thức ăn [46]. Thuốc kháng sinh có thể gây ra tiêu chảy do kích thích trực tiếp lên ruột, thay đổi số lượng vi khuẩn đường ruột hoặc cho phép vi khuẩn có hại phát triển, làm tăng sức đề kháng của vi khuẩn và khó điều trị khi mắc bệnh lần sau [46]. Việc thay đổi số lượng và số loài vi khuẩn chí có thể làm giảm khả năng lên men carbohydrate, chuyển hóa các acid mật và có thể gây ra tiêu chảy. Carbohydrate không được tiêu hoá sẽ hấp thu nhiều nước, làm lỏng phân hoặc việc thiếu các acid béo mạch ngắn có thể gây tiêu chảy [34]. Ngoài ra, việc giảm số lượng các vi khuẩn có ích làm giảm khả năng khống chế sự phát triển của các loài vi khuẩn có hại như C. difficileSalmonella kedougou. Thành phần vi khuẩn đường ruột cũng có thể thay đổi khi bị bệnh nặng, do sử dụng kháng sinh, chán ăn...

1.1.6.3. Probiotic & Prebiotic

Do việc thiếu vi khuẩn trong đường tiêu hoá có thể gây ra tác hại đối với sức khoẻ nên việc sử dụng probiotic có tác dụng chống viêm và có thể nâng cao sức khoẻ. Prebiotic là thành phần của thức ăn có thể hỗ trợ sự phát triển vi khuẩn đường ruột và cải thiện sức khoẻ [84].

1.1.6.4. Bệnh tật

Tác động của vi khuẩn chí lên miễn dịch đường ruột đã rõ, điều này cho thấy sự thay đổi vi khuẩn đường ruột có liên quan đến các trạng thái do sự thay đổi các đáp ứng miễn dịch. Ví dụ như việc tăng BacteroidesClostridia trong phân và giảm Bifidobacteria không điển hình ở những trẻ bị bệnh dị ứng so với trẻ bình thường [42]. Sự thay đổi vi khuẩn chí đường ruột và các loài không phải là Bifidobacteria chiếm ứu thế là cơ sở cho việc can thiệp bằng probiotic nhằm giảm thiểu các bệnh như bệnh viêm ruột kết hoại tử (NEC) [108]. Đối với bệnh nhân mắc bệnh viêm ruột thì việc giảm số lượng BifidobacteriaLactobacilli và tăng số lượng các vi khuẩn khác như Bacteroides có liên quan đến sự xuất hiện và mức độ nặng nhẹ của bệnh [60].

Những thay đổi “cân bằng” vi khuẩn đường ruột, đặc biệt là trong các bệnh liên quan đến viêm và miễn dịch do ít vi khuẩn đi theo đường ăn uống hoặc ít phơi nhiễm đã đưa đến “giả thuyết sạch”. Giả thuyết này cho rằng ít phơi nhiễm đối với vi khuẩn và các kháng thể trong thời thơ ấu ở các nước công nghiệp dẫn đến sự phát triển không đầy đủ các đáp ứng miễn dịch, tăng nguy cơ bùng phát các bệnh hen và dị ứng [164]. Càng ngày người ta càng thừa nhận rằng mối tương tác giữa cơ thể và vi khuẩn có ảnh hưởng lên bệnh phản ứng đặc dị. Trẻ sinh ra có hoạt động tế bào lympho Th2 vượt trội, làm cho chúng có phản ứng mạnh đối với các dị nguyên và tăng sản xuất IgE. Ở một khía cạnh khác, việc phơi nhiễm với vi khuẩn đường ruột kích thích hoạt động của Th1 và kết quả là vi khuẩn đường ruột (sẵn có trong ruột hoặc bổ sung) có thể cân bằng miễn dịch từ trạng thái vượt trội của Th2 sang đáp ứng cân bằng Th1/Th2 và giảm cơ hội cho các phản ứng dị ứng mạnh. Cuối cùng thì các tế bào TReg giải phóng cytokine như TGF-â giúp ức chế phản ứng của Th1 hoặc Th2 và cũng đóng vai trò quan trọng trong việc cân bằng đáp ứng của cơ thể đối với vi khuẩn hoặc kháng nguyên trong thực phẩm và hoạt động của tế bào này cũng tăng theo số lượng vi khuẩn trong ruột. Mối tương tác giữa vi khuẩn và đường ruột và tác động của chúng lên các đáp ứng miễn dịch là cơ sở cho việc sử dụng probiotic trong Nhi khoa.

1.2. PROBIOTIC, PREBIOTIC VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

1.2.1. Probiotic

Theo Tổ chức Y tế thế giới thì Probiotic được định nghĩa là các vi khuẩn có lợi cho sức khoẻ của con người khi ăn (bổ sung) vào một lượng nhất định [70]. LAB bifidobacteria là các loại vi khuẩn phổ biến được sử dụng như “probiotic”. Probiotic được sử dụng rộng rãi trong các sản phẩm sữa như sữa chua, đậu tương lên men và các sản phẩm bổ sung. Bắt đầu từ thế kỷ 20 người ta mới cho rằng probiotic có lợi cho cơ thể trong việc cải thiện sự cân bằng vi khuẩn đường ruột, ức chế sự phát triển của vi khuẩn gây hại và các vi khuẩn sản sinh độc tố.



Một số đặc tính của probiotic [70]:

  • Là một vi khuẩn có nguồn gốc từ người và không gây bệnh

  • Vẫn sống và ổn định sau khi cấy, xử lí và đề kháng các kỹ thuật xử lí

  • Đề kháng dưới tác động của dịch dạ dày, mật và dịch tụy

  • Có khả năng bám vào tế bào niêm mạc ruột, có khả năng sinh sản và tạo nên các hiệu ứng lâm sàng hoặc chức năng có lợi cho cơ thể người sử dụng

1.2.1.1. Đặc điểm của vi khuẩn Bifidobacterium

Bifidobacteria tồn tại ở trẻ ngay từ những ngày đầu sau sinh, đặc biệt là trẻ được bú mẹ. Bifidobacteria lần đầu tiên được phân lập từ phân của trẻ được bú mẹ, số lượng các vi khuẩn này là tương đối ổn định và giảm đi khi lớn tuổi. Quần thể vi khuẩn bifidobacteria chịu ảnh hưởng của các yếu tố như khẩu phần ăn, thuốc kháng sinh và sự căng thẳng. Bifidobacteria là vi khuẩn kị khí gram (-), không chuyển động, không tạo bào tử catalase-âm tính, hình dạng của chúng khác nhau. Tên gọi của vi khuẩn này xuất phát từ việc chúng thường tồn tại ở dạng hình chữ Y hay dạng chẻ đôi. Thành phần guanine và cytosine của DNA là trong khoảng 54 mol% và 67 mol%. Chúng tạo ra acid acetic và acid lactic mà không tạo ra CO2. Chúng cũng được phân loại là vi khuẩn tạo acid lactic (LAB). Hiện nay có khoảng 30 loài bifidobacteria được phân lập. Bifidobacteria được sử dụng như probiotic là: Bifidobacterium adolescentis, Bifidobacterium bifidum, Bifidobacterium animalis, Bifidobacterium thermophilum, Bifidobacterium breve, Bifidobacterium longum, Bifidobacterium infantis and Bifidobacterium lactis. Các chủng của Bifidobacteria được dùng như probiotic là Bifidobacterium breve strain Yakult, Bifidobacterium breve RO7O, Bifidobacterium lactis BB12, Bifidobacterium longum RO23, Bifidobacterium bifidum RO71, Bifidobacterium infantis RO33, Bifidobacterium longum BB536 and Bifidobacterium longum SBT-2928.

1.2.1.2. Đặc điểm của vi khuẩn Lactobacillus

Lactobacilli có mặt trong ruột và trong âm đạo là vi khuẩn kị khí gram (+), không tạo bào tử. Thành phần guanine và cytosine của DNA là trong khoảng 32 mol% và 51 mol%. Chúng cũng được phân loại như là vi khuẩn tạo acid lactic (LAB). Hiện nay có khoảng 56 loài Lactobacillus được phân lập. Lactobacilli được sử dụng như probiotic bao gồm Lactobacillus acidophilus, Lactobacillus brevis, Lactobacillus bulgaricus, Lactobacillus casei, Lactobacillus cellobiosus, Lactobacillus crispatus, Lactobacillus curvatus, Lactobacillus fermentum, Lactobacillus GG (Lactobacillus rhamnosus or Lactobacillus casei subspecies rhamnosus), Lactobacillus gasseri, Lactobacillus johnsonii, Lactobacillus plantarum Lactobacillus salivarus. Lactobacillus plantarum 299v strain có nguồn gốc từ bột chua. Lactobacillus plantarum có nguồn gốc từ người. Các chủng khác của LactobacillusLactobacillus acidophilus BG2FO4, Lactobacillus acidophilus INT-9, Lactobacillus plantarum ST31, Lactobacillus reuteri, Lactobacillus johnsonii LA1, Lactobacillus acidophilus NCFB 1748, Lactobacillus casei Shirota, Lactobacillus acidophilus NCFM, Lactobacillus acidophilus DDS-1, Lactobacillus delbrueckii subspecies delbrueckii, Lactobacillus delbrueckii subspecies bulgaricus type 2038, Lactobacillus acidophilus SBT-2062, Lactobacillus brevis, Lactobacillus salivarius UCC 118 và Lactobacillus paracasei subsp paracasei F19.

Каталог: FileUpload -> Documents
Documents -> BỘ khoa học và CÔng nghệ
Documents -> HÀ NỘI – 2013 BỘ giáo dụC ĐÀo tạo bộ y tế viện dinh dưỠNG
Documents -> Phụ lục về cấp hạng khách quốc tế
Documents -> CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam qcvn 01 78: 2011/bnnptnt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia thứC Ăn chăn nuôi các chỉ tiêu vệ sinh an toàn và MỨc giới hạn tốI Đa cho phép trong thứC Ăn chăn nuôI
Documents -> TỔng cục dạy nghề
Documents -> BỘ giáo dụC ĐÀo tạo bộ y tế viện dinh dưỠng nguyễn thị thanh hưƠng thực trạng và giải pháP
Documents -> Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o bé y tÕ ViÖn dinh d­ìng Ph¹m hoµng h­ng HiÖu qu¶ cña truyÒn th ng tÝch cùc ®Õn ®a d¹ng ho¸ b÷a ¨n vµ
Documents -> TỜ khai xác nhận viện trợ HÀng hóA, DỊch vụ trong nưỚC
Documents -> Phụ lục I mẫU ĐƠN ĐỀ nghị ĐĂng ký LƯu hàNH

tải về 1.05 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương