7.2.QUY HOẠCH KHUNG TRỤC
Diện tích lấy nước từ sông Đà, sông Hồng, sông Đuống (gồm cả các khu vực lấy nước thông qua sông Nhuệ, Ngũ Huyện Khê, Bắc Hưng Hải) thì diện tích lấy nước sông Hồng là hơn 90.000ha chiếm 60% diện tích cần tưới toàn thành phố. Trong tương lai khi mà các công trình tiếp nguồn Cẩm Đình- Hiệp Thuận, Lương Phú hoàn thành thì diện tích lấy nước từ nguồn sông Hồng tăng lên đến 70% tổng diện tích cần tưới.
Cân bằng nước a. Khu vực lấy nước dòng nhánh
Khu vực vùng thượng sông Tích-Đáy thiếu nước trầm trọng cần phải có công trình tiếp nguồn từ sông Hồng. Hệ thống tiếp nguồn Lương Phú cần hoàn thiện sớm để tiếp nguồn vào sông Tích.
Hình 5. Các khu vực thiếu nước- lưu vực sông Hồng- Thái Bình
+ Đối với lưu vực sông Tích: về mặt tổng lượng nước cả năm là đủ, nhưng cân bằng cho mùa kiệt (tháng 2) khi đã có các hồ Đồng Mô, Suối Hai, các hồ chứa nhỏ và các trạm bơm nước từ sông Hồng bổ sung khoảng 37m3/s lưu vực vẫn còn thiếu khoảng 17m3/s.
Đến năm 2015, nhu cầu nước của khu vực có giảm đi do quá trình đô thị và công nghiệp hoá trên lưu vực mặc dù nhu cầu nước của các ngành khác có tăng. Lượng nước cân bằng cho tháng 2 thiếu khoảng 25 m3/s, khi các hồ chứa Suối Hai và Đồng Mô chuyển đổi mục đích hoàn toàn trong đó nước thay thế cho hồ Đồng Mô sẽ lấy từ sông Tích thì lượng thiếu sẽ là 28 m3/s, cùng với lượng nước duy trì dòng chảy dự kiến là 4m3/s sẽ cần khoảng 32 m3/s vào vụ đổ ải và khoảng 27m3/s vào thời kỳ tưới dưỡng.
Như vậy lưu vực sông Tích cần có công trình tiếp nguồn.
Bảng 27. Cân bằng sơ bộ lưu vực hữu Đáy
TT
|
Hạng mục
|
Đơn vị
|
Sông Tích
|
Sông Thanh Hà
|
I
|
Giai đoạn hiện trạng
|
|
|
|
1
|
Nước đến
|
|
|
|
|
Tổng lượng cả năm
|
106m3
|
1220
|
127
|
|
Lưu lượng tháng 2
|
m3/s
|
6
|
1
|
|
Hồ chứa
|
m3/s
|
21
|
1
|
|
Trạm bơm sông ngoài
|
m3/s
|
16
|
|
2
|
Nước dùng
|
|
|
|
|
Tổng lượng cả năm
|
106m3
|
735
|
18
|
|
Lưu lượng tháng 2
|
m3/s
|
60
|
1
|
3
|
Cân bằng
|
|
|
|
|
Tổng lượng cả năm
|
106m3
|
484
|
109
|
|
Lưu lượng tháng 2
|
m3/s
|
-17
|
0
|
II
|
Giai đoạn 2015
|
|
|
|
1
|
Nước đến
|
|
|
|
|
Tổng lượng cả năm
|
106m3
|
1220
|
127
|
|
Lưu lượng tháng 2
|
m3/s
|
6
|
1
|
|
Hồ chứa
|
m3/s
|
11
|
1
|
|
Trạm bơm sông ngoài
|
m3/s
|
16
|
0
|
2
|
Nước dùng
|
|
|
|
|
Tổng lượng cả năm
|
106m3
|
731
|
16
|
|
Lưu lượng tháng 2
|
m3/s
|
61
|
1
|
3
|
Cân bằng
|
|
|
|
|
Tổng lượng cả năm
|
106m3
|
488
|
111
|
|
Lưu lượng tháng 2
|
m3/s
|
-28
|
1
|
Tóm lại có thể nói rằng để đảm bảo phát triển bền vững nguồn nước ở khu vực miền núi thì trên các tiểu khu phải xây dựng các hồ chứa điều tiết cho mùa kiệt. Ngoài ra đến năm 2015 sẽ phải chuyển đổi cơ cấu cây trồng để giảm bớt lượng nước cần. Xây dựng quy trình điều hành công trình cấp nước để đáp ứng việc cung cấp đúng, đủ, hiệu quả, tiết kiệm và phát triển bền vững nguồn nước. Tăng cường thực hiện các biện pháp phi công trình như trồng rừng phủ xanh đất trống đồi trọc, ruộng bậc thang trồng cây theo đường đồng mức để tăng khả năng điều hoà nguồn nước, chống xói mòn.
b. Khu vực đồng bằng sông Hồng
Đối với khu vực đồng bằng, tổng lượng mùa kiệt cần tại Sơn Tây trong các kịch bản giai đoạn 2020 cần từ 18-24 tỷ m3. Nếu công trình trên dòng chính ở giai đoạn này với các công trình như Sơn La, Tuyên Quang, Bản Chát, Huổi Quảng đưa vào vận hành thì lượng nước cho đồng bằng sông Hồng đảm bảo cho các kịch bản phát triển. Lưu lượng kiệt bình quân nhiều năm đến Sơn Tây khoảng 1.860 m3/s, tuy nhiên có 2 năm lưu lượng tháng kiệt nhất chỉ đạt chưa đến 900 m3/s.
Bảng 28. Kết quả tính cân bằng giai đoạn 2020 - khu vực đồng bằng
Trường hợp tính toán
|
Tần
suất
|
Nước đến tại Sơn Tây (109m3)
|
Nước
dùng (109m3)
|
Cân
bằng (109m3)
|
Gian đoạn 2020
|
75%
|
25,93
|
19,4
|
6,52
|
|
85%
|
25,49
|
19,68
|
5,82
|
Hình 6. Lưu lượng bình quân tháng tại Sơn Tây khi có Sơn La (1960-2000)
Đối với khu vực đồng bằng nếu giai đoạn 2020 nếu xây dựng thêm các hồ chứa lớn ở thượng du như Sơn La, Bản Chát, Huổi Quảng, Nậm Nhùn thì hoàn toàn có thể đáp ứng đủ nhu cầu nước. Tuy nhiên cần phải chú ý đến vấn đề vận hành hồ chứa thượng lưu bởi vì nếu vận hành hồ chứa chỉ chú trọng đến hiệu ích kinh tế do phát điện mang lại thì hiệu quả cấp nước cho hạ du là rất ít.
Mực nước trên triền sông Hồng 1. Mực nước thực tế
Trong khi đó mực nước trên sông Hồng ngày càng có xu hướng cạn kiệt.
Bảng 29. Mực nước thấp nhất và năm xuất hiện qua các thời kỳ
Đơn vị (cm)
Trạm
|
Đặc Trưng
|
11
|
12
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
Năm
|
Sơn Tây
|
H min (57-87)
|
550
|
478
|
453
|
423
|
386
|
374
|
347
|
347
|
|
Năm
|
1957
|
1957
|
1958
|
1959
|
1958
|
1958
|
1960
|
1960
|
|
Hmin(88-08)
|
454
|
392
|
377
|
327
|
340
|
360
|
394
|
327
|
|
Năm
|
2006
|
2007
|
2008
|
2008
|
2008
|
2007
|
2008
|
2008
|
Hà Nội
|
H min (56-87)
|
304
|
247
|
210
|
192
|
157
|
167
|
174
|
157
|
|
Năm
|
1980
|
1962
|
1963
|
1956
|
1956
|
1958
|
1960
|
1956
|
|
Hmin(88-08)
|
176
|
130
|
112
|
80
|
100
|
116
|
146
|
80
|
|
Năm
|
2006
|
2007
|
2008
|
2008
|
2008
|
2007
|
2008
|
2008
|
Bảng 30. Mực nước thấp nhất xảy ra tại Hà Nội là 0,50 m (09h/7/1/2010)
STT
|
Trạm
|
Sông
|
Hmin (m)
|
1
|
Sơn Tây
|
Hồng
|
2,97
|
2
|
Cẩm Đình
|
Hồng
|
2,25
|
3
|
Liên Mạc
|
Hồng
|
1,25
|
4
|
Hà Nội
|
Hồng
|
0,50
|
5
|
Xuân Quan
|
Hồng
|
0,20
|
Mực nước sông Hồng ngày càng cạn kiệt có thể do một hoặc kết hợp các nguyên nhân sau:
-
Do vận hành hồ chứa thuỷ điện
-
Do biến đổi khí hậu
-
Do thay đổi lòng dẫn (xói sâu sau thuỷ điện, khai thác cát, nạo vét giao thông thuỷ).
-
Do nhu cầu nước tăng.
2. Mực nước thiết kế
a. Mực nước thiết kế hiện đang áp dụng cho các công trình tưới hiện tại:
Trong trường hợp này sử dụng tài liệu thực đo từ 1956-1987, kết quả tính toán tần suất mực nước thấp nhấp trong tháng 1 và tháng 2.
Bảng 31. Mực nước thấp nhất trong 02 tháng 1, 2 theo tần suất thiết kế
(Không có tác động của hồ chứa)
STT
|
Trạm
|
Sông
|
Hmin P%(m)
|
50
|
75
|
85
|
1
|
Hoà Bình
|
Đà
|
13,46
|
13,23
|
13,11
|
2
|
Lương Phú
|
Đà
|
10,7
|
10,43
|
10,28
|
3
|
Trung Hà
|
Đà
|
8,93
|
8,64
|
8,47
|
4
|
Sơn Tây
|
Hồng
|
5,16
|
4,85
|
4,68
|
5
|
Đập Đáy
|
Hồng
|
4,37
|
4,1
|
3,96
|
6
|
Liên Mạc
|
Hồng
|
3,38
|
3,16
|
3,05
|
7
|
Hà Nội
|
Hồng
|
2,46
|
2,30
|
2,21
|
8
|
Hưng Yên
|
Hồng
|
0,57
|
0,46
|
0,4
|
9
|
Tắc Giang
|
Hồng
|
0,49
|
0,38
|
0,32
|
b. Mực nước thiết kế tính theo liệt những năm gần đây
Kết quả tính toán mực nước thiết kế ứng với tần suất P=85% giai đoạn từ 1960-2008, không xem xét đến ảnh hưởng điều tiết của các hồ chứa thượng lưu từ bài toán thủy lực kiệt như sau:
Bảng 32. Mực nước thiết kế ứng với tần suất P=85% thời kỳ 1960-2008
STT
|
Trạm
|
Sông
|
Mực nước ứng với P=85%
|
Lưu lượng ứng với tần suất P=85%
|
1
|
Lương Phú
|
Hồng
|
9,03
|
423
|
1
|
Sơn Tây
|
Hồng
|
3,95
|
903
|
2
|
Cẩm Đình
|
Hồng
|
3,79
|
892
|
3
|
Liên Mạc
|
Hồng
|
2,48
|
885
|
4
|
Hà Nội
|
Hồng
|
1,38
|
561
|
5
|
Xuân Quan
|
Hồng
|
0,89
|
522
|
Trước đây các công trình lấy nước thường được thiết kế với mực nước trên các triền sông tương ứng với tần suất 75% (bảng 7.8), tức là tại Hà Nội khoảng 2,3m. Như vậy so với kết quả tính toán thuỷ lực hiện nay, mực nước đã giảm đi so với mực nước thiết kế của các công trình đã có khoảng 0,9m. Và như vậy nếu không có các tác động của hồ chứa như xả nước điều tiết trong các đợt tưới ải, dưỡng thì mực nước trên các triền sông hạ du còn có nguy cơ xuống thấp hơn nữa. Điều này đã và sẽ gây nhiều bất lợi cho các công trình lấy nước của thành phố Hà Nội nói riêng và các tỉnh vùng trung du và đồng bằng nói chung. Chính vì vậy mà thời gian gần đây thành phố đã phải bỏ ra rất nhiều kinh phí hàng năm để lắp đặt các trạm bơm dã chiến như Ấp Bắc, Phù Sa, Thanh Điềm, Bá Giang và hàng loạt các trạm bơm nhỏ khác.
Từ kết quả tính toán về mực nước, lưu lượng nước tại các vị trí trên sông Hồng ứng với tần suất nước đến 85%, thấy rằng mực nước tại các cửa lấy nước dọc sông trên địa phận Hà Nội đều thấp hơn mực nước thiết kế, làm cho năng lực lấy nước của các công trình giảm hoặc không thể lấy được nước. Vì vậy, phương án nguồn nước cấp cho thành phố là cải tạo, hạ thấp cao trình bể hút của các cửa lấy nước dọc sông Hồng, sông Đuống đối với công trình lấy nước là trạm bơm. Với các công trình hiện tại lấy nước bằng tự chảy thì cần chuyển sang hình thức lấy nước bằng động lực bằng cách xây dựng các trạm bơm để bơm nước vào các hệ thống khi mực nước sông Hồng, sông Đuống xuống thấp.
Theo phương án này, các công trình cần cải tạo bao gồm:
- Các trạm bơm Phù Sa, Xuân Phú, Đan Hoài, Hồng Vân, Thanh Điềm, Ấp Bắc.
- Các cống Liên Mạc, Long Tửu, Xuân Quan.
Ngoài ra còn xây dựng, hoàn thiện các hệ thống tiếp nguồn như Lương Phú, Cẩm Đình. Khi xây dựng hệ thống Lương Phú, theo kết quả tính toán thuỷ lực với tần suất 85% thì mực nước tại hạ du như Trung Hà, Cẩm Đình giảm khoảng 10cm.
Tuy nhiên, phương án giải quyết nêu trên có nhược điểm như sau: Hiện tại quá trình hạ thấp mực nước trên hệ thống sông Hồng trong mùa kiệt ứng với cùng một cấp lưu lượng đang diễn ra năm sau thấp hơn năm trước và chưa có dấu hiệu dừng lại. Vì vậy, nếu quá trình hạ thấp mực nước tiếp tục diễn ra trong nhiều năm tới thì khả năng lấy nước của các công trình mới xây dựng ngày càng giảm. Như vậy, phương án nêu trên chưa phải là phương án có tính triệt để để giải quyết những khó khăn về nguồn nước cho thành phố Hà Nội nói riêng và vùng đồng bằng sông Hồng nói chung.
Vấn đề khó khăn về nguồn nước trên hệ thống sông Hồng cần được xem xét, giải quyết một cách tổng thể, không chỉ riêng Hà Nội mà còn cả các tỉnh ở thượng và hạ lưu. UBND thành phố Hà Nội cần kiến nghị với Bộ Nông nghiệp và PTNT, Chính phủ xem xét các vấn đề sau:
1. Trong giai đoạn hiện tại cần xây dựng quy trình điều tiết các hồ chứa thượng du để dâng mực nước trên hệ thống sông Hồng, sông Đuống đảm bảo cho các công trình có thể lấy được nước. Với phương án này, mực nước yêu cầu tại Hà Nội là 2,3m. Sau khi tính toán thủy văn, thủy lực đã xác định được
- Lưu lượng tự nhiên ứng với tần suất P=85% tại Sơn Tây khoảng 900m3/s.
- Lưu lượng trung bình cần bổ sung từ các hồ chứa là 700m3/s.
2. Nghiên cứu giải pháp xây dựng các đập điều tiết bậc thang tại một số vị trí trên sông Hồng, sông Đuống để dâng mực nước trên hệ thống, đảm bảo các công trình hiện nay có thể lấy được nước mà không cần cải tạo. Đập được xây dựng cần đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Dâng đủ cao trình mực nước tại các cửa lấy nước.
- Chỉ được sử dụng trong mùa kiệt, không làm gia tăng mực nước lũ.
- Hạn chế xâm nhập mặn ở vùng hạ du.
- Giảm thiểu tối đa việc ảnh hưởng đến giao thông thủy.
Mực nước yêu cầu tại từng vị trí như sau:
- Hà Nội 2,3m; Xuân Quan 1,85m; Long Tửu 2,3m; Liên Mạc 3,6m; Cẩm Đình 4,5m; Sơn Tây 4,85m.
Giải pháp nguồn nước thành phố Hà Nội
Trong tình hình suy giảm nguồn nước trên hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình mà đặc biệt là trên triền sông Hồng trong những năm gần đây, ngoài việc kiến nghị thực hiện nghiên cứu các giải pháp triển dòng chính như xây dựng các đập dâng nước trên sông Hồng, điều tiết các hồ chứa thủy điện, hạn chế xói lòng sông… thì biện pháp ứng phó trước mắt đối với việc thiếu nguồn nước là bổ sung, duy trì các trạm bơm giã chiến, nạo vét kênh mương tăng cường khả năng trữ nước…
Để chủ động hơn về nguồn nước, khắc phục những khó khăn hiện tại thành phố cần:
- Đối với các hệ thống lấy nước dọc sông Hồng: Cải tạo toàn bộ các công trình lấy nước dọc sông Hồng gồm Phù Sa, Đan Hoài, Thanh Điềm, Ấp Bắc, Hồng Vân (để lấy được nước với mực nước thấp); xây mới Thụy Phú 2 để tưới cho khu vực phía Đông và một phần phía Tây huyện Phú Xuyên.
- Đối với sông Tích: Hoàn thành dự án Sông Tích tiếp nguồn sông Đà vào sông Tích để đảm bảo nguồn nước Sông Tích tưới cho hạ du và thay thế nhiệm vụ tưới của Hồ Đồng Mô, Hồ Suối hai phục vụ cho nhiệm vụ du lịch,.
- Đối với sông Đáy: Hoàn thành hệ thống tiếp nguồn sông Đáy nhằm đáp ứng cả ba nhiệm vụ cấp nước, tiêu thoát nước và phòng chống lũ; Tiếp nước cho sông Đáy từ sông Tích.
- Đối với sông Nhuệ: Xây dựng trạm bơm tưới, tiêu kết hợp Liên Mạc chủ động nguồn nước lấy vào sông Nhuệ mùa kiệt cấp nước tưới và kết hợp giảm thiểu ô nhiễm môi trường sông Nhuệ và các sông thuộc nội thành (Tô Lịch, Kim Ngưu, Sét).
- Đối với sông Ngũ Huyện Khê: Nghiên cứu xây dựng TB tiêu kết hợp tưới Long Tửu cấp nước cho sông Ngũ Huyện Khê khi mực nước sông Hồng thấp.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |