MỤc lục mở ĐẦU 1 phần I. ĐIỀu kiện tự nhiêN, kinh tế, XÃ HỘI 5


Hiện trạng công trình tưới tiêu theo các vùng thủy lợi



tải về 3.53 Mb.
trang16/33
Chuyển đổi dữ liệu19.07.2016
Kích3.53 Mb.
#2044
1   ...   12   13   14   15   16   17   18   19   ...   33

Hiện trạng công trình tưới tiêu theo các vùng thủy lợi

5.2.1.2.Vùng thuỷ lợi Hữu Đáy


Vùng thuỷ lợi Hữu Đáy bao gồm diện tích của 7 huyện thị: Ba Vì, Sơn Tây, Phúc Thọ, Thạch Thất, Quốc Oai, Chương Mỹ và Mỹ Đức. Có diện tích tự nhiên là 145.023ha, diện tích cần tưới là 67.377ha.

Toàn vùng hiện đã có 342 công trình tưới tiêu, trong đó động lực là 330 công trình, tự chảy là 12 công trình ngoài ra còn có các trạm bơm, hồ đập nhỏ do các hợp tác xã quản lý khai thác. Các công trình tưới có diện tích thiết kế là 63.031ha, thực tế tưới đạt 46.221ha đạt và 69% diện tích cần tưới.

Là vùng có địa hình tương đối cao, các khu vực miền núi và bán sơn địa tiêu tự chảy thuận lợi. Diện tích đồi núi, khu vực bãi sông 74.462ha tiêu tự chảy trực tiếp ra các sông Đà, Hồng, Tích, Bùi. Diện tích cần tiêu bằng công trình là là 70.561ha, với 342 công trình, diện tích thực tế tiêu được 50.867ha đạt 72% diện tích cần tiêu. Diện tích tiêu bằng động lực là 40.465ha chiếm 79% diện tích cần tiêu toàn vùng.

Toàn vùng Hữu Đáy có 2.728 tuyến kênh tưới, tiêu và tưới tiêu kết hợp với chiều dài trên 4.623 km, trong đó:



  • 571 tuyến kênh với chiều dài 1.009km kênh do thành phố quản lý.

  • 2.157 tuyến kênh nội đồng với chiều dài 3.613km do các huyện quản lý.

a. Tưới, cấp nước


Nhìn chung các công trình tưới, cấp nước trong vùng đã được xây dựng từ lâu thập kỷ 70, 80, thậm chí nhiều công trình xây dựng vào thập kỷ 60. Mặc dù vẫn được tiến hành duy tu, bảo dưỡng và thay thế nhằm phục vụ sản xuất tuy nhiên không tránh khỏi sự xuống cấp trầm trọng, hiệu suất thấp, quản lý vận hành khó khăn, tốn kém.

Nguồn nước khó khăn do nguồn sinh thuỷ của các sông suối nội tại bị suy giảm, lượng nước đến của các hồ chứa Đồng Mô - Ngải Sơn, Suối Hai nhiều năm bị thiếu hụt không trữ đủ lượng nước theo thiết kế, mực nước các sông đặc biệt là mực nước sông Hồng những năm gần đây xuống thấp. Trạm bơm tưới Phù Sa với mực nước thiết kế bể hút cao không đủ cột nước để vận hành. Thành phố đã phải triển khai nhiều giải pháp chống hạn: Đắp các đập tạm trên sông Tích, sông Đáy; lắp đặt các trạm bơm điện, dầu dã chiến, tiếp nước từ sông Đà vào sông Tích, sông Hồng vào sông Đáy; trữ nước vào các trục tiêu để khắc phục khó khăn do hạn hán.



  • Khu vực miền núi, bán sơn địa Ba Vì (7 xã miền núi huyện Ba Vì): Chủ yếu tưới bằng các hồ đập nhỏ do các hợp tác xã quản lý có nhiệm vụ cấp nước tưới, nuôi trồng thủy sản và còn có nhiệm vụ phòng chống cháy rừng, cải thiện môi trường sinh thái và phục vụ du lịch. Hiện tại các hồ đập nhỏ tình trạng xuống cấp, nguồn nước cạn kiệt, cần được nâng cấp, sửa chữa đồng thời cần bảo vệ rừng đầu nguồn nhằm tăng nguồn sinh thủy.

  • Khu vực đồng bằng Ba Vì: Chủ yếu lấy nước từ các trạm bơm lấy nước sông Đà là trạm bơm Sơn Đà, Trung Hà và các hồ Mèo Gù, Cẩm Quỳ, Suối Hai. Nhìn chung các công trình đảm bảo khả năng cấp nước, tuy nhiên những năm gần đây nguồn nước các hồ chứa bị thiếu hụt, gây nhiều khó khăn cho công tác tưới, đặc biệt là thời kỳ đổ ải, hạn hán chủ yếu tập trung ở các khu tưới cuối kênh của trạm bơm Sơn Đà và hồ Mèo Gù. Bên cạnh đó hồ Suối Hai có nhu cầu chuyển mục đích sang phục vụ du lịch, vì vậy vấn đề đặt ra là cần phải tìm nguồn nước và công trình thay thế. Ngoài ra trạm bơm Trung Hà ngoài nhiệm vụ đảm bảo cung cấp nước tưới còn phải đảm nhiệm thêm nhiệm vụ tiếp nguồn cho sông Tích hàng năm trung bình khoảng 2-3 đợt, mỗi đợt 7-10 ngày.

  • Khu vực bán sơn địa Hữu Tích (phần Hữu Tích các huyện thị Sơn Tây, Phúc Thọ, Thạch Thất, Quốc Oai và Chương Mỹ): Nguồn nước cấp cho khu vực chủ yếu từ hồ Đồng Mô, Tân Xã, Đồng Sương, Văn Sơn, Miễu, các hồ đập nhỏ và các trạm bơm lấy nước từ sông Hang, sông Tích. Nhìn chung nguồn nước của khu vực gặp nhiều khó khăn do nguồn sinh thủy ngày càng cạn kiệt. Nguồn nước sông Hang, sông Tích cạn kiệt, những năm gần đây thường xuyên phải dùng trạm bơm Trung Hà, Sơn Đà bơm nước từ sông Đà vào sông Tích do vậy vấn đề xây dựng hệ thống tiếp nguồn từ sông Đà cho sông Tích ngày càng trở nên cấp thiết.

  • Khu vực đồng bằng Tả Tích (phần Tả Tích các huyện thị Sơn Tây, Phúc Thọ, Thạch Thất, Quốc Oai và Chương Mỹ):

  • Khu tưới bãi Phúc Thọ: Hầu hết (1.800ha) diện tích bãi Phúc Thọ được tưới bằng hệ thống Xuân Phú, tuy nhiên trạm bơm Xuân Phú mới xây dựng không tưới được do mực nước trên kênh Cẩm Đình- Hiệp Thuận quá thấp so với cao trình mực nước thiết kế bể hút của trạm bơm. Do vậy hiện tại vẫn phải sử dụng trạm bơm dã chiến Xuân Phú 10 x 1000m3/h lấy nước trực tiếp từ sông Hồng, nhưng do hệ thống kênh mương còn hạn chế nên chỉ tưới trực tiếp được 800ha, còn lại tạo nguồn cho các trạm bơm Phú Đa, Thuấn Nội, Trại Táo….

  • Khu tưới Đồng Mô: Hồ Đồng Mô hiện tại tưới cho 4.355 ha đất canh tác của các huyện thị Sơn Tây, Thạch Thất và Quốc Oai. Những năm gần đây nguồn nước của hồ bị thiếu hụt nên thường xuyên bị thiếu nước tưới cho vụ đông xuân hàng năm và có năm còn bị hạn hán ngay cả đầu vụ mùa (như vụ mùa năm nay 2010). Để đảm bảo đủ nước, công ty Sông Tích đã phải hỗ trợ bằng các trạm bơm lấy nước từ nguồn sông Tích. Trong tương lai, để phục vụ du lịch, hồ Đồng Mô sẽ không còn làm nhiệm vụ tưới, khu tưới hồ đảm nhiệm sẽ được tưới bằng trạm bơm Cẩm Yên 2 lấy nước sông Tích tuy nhiên đến nay dự án vẫn chưa thực hiện được và sông Tích vẫn thường xuyên bị cạn kiệt do chưa có hệ thống tiếp nguồn.

  • Trạm bơm Phù Sa: Với nhiệm vụ tưới cho 6.556ha, trong đó tưới cho Sơn Tây 157 ha, Phúc Thọ: 3.759 ha, Thạch Thất: 2.067 ha, Quốc Oai: 573ha. Từ năm 2002 lại đến nay vào vụ đông xuân máy bơm không hoạt động được khi mực nước sông Hồng xuống thấp, phải thường xuyên lắp đặt bơm dã chiến Phù Sa với quy mô 21x1000m3/h để bơm hỗ trợ. Sau gần 80 năm khai thác sử dụng, trạm bơm tưới Phù Sa đã xuống cấp, cao độ thiết kế mực nước bể hút không còn phù hợp, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tưới của công trình. Hiện tại Bộ Nông nghiệp & PTNT đã có chủ trương đầu tư xây dựng mới trạm bơm tưới Phù Sa.

  • Khu tưới Tả Bùi – huyện Chương Mỹ: Chủ yếu lấy nước từ sông Đáy bằng các trạm bơm Phụng Châu, Biên Giang, Chi Lăng, Hoàng Diệu và lấy nước từ sông Tích, sông Bùi bằng các trạm bơm Hạ Dục, Tử Nê, Yên Duyệt, Đông Sơn… Trừ trạm bơm Phụng Châu vừa mới được nâng cấp, hầu hết các trạm bơm còn lại máy móc đều cũ nát cần nâng cấp, sửa chữa. Nguồn nước của khu vực này cũng rất bị động và nằm ở cuối nguồn sông Tích, sông Bùi, sông Đáy hàng năm đều bị hạn.

  • Khu tưới hữu Tích: bao gồm diện tích phía hữu Tích thuộc các huyện thị Sơn Tây, Thạch Thất, Quốc Oai, Chương Mỹ. Đây là vùng bán sơn địa vì vậy ruộng đất phân tán. Các công trình tưới chủ yếu là các hồ đập nhỏ, các trạm bơm nhỏ lấy nước từ các nhánh suối của dãy Ba Vì và sông Tích, sông Bùi. Những năm gần đây do nguồn nước ngày càng cạn kiệt, mực nước ở các hồ chứa đều thấp hơn so với thiết kế do vậy vấn đề tưới gặp nhiều khó khăn. Nguồn nước sông Tích cũng cạn kiệt, hàng năm phải bơm nước từ sông Đà qua trạm bơm Trung Hà để tiếp nguồn cho sông Tích tuy nhiên đây chỉ là giải pháp tình thế.

  • Khu tưới Mỹ Hà: Bao gồm toàn bộ diện tích của huyện Mỹ Đức được tưới bằng 2 nguồn chính là từ hồ chứa Quan Sơn và các trạm bơm dọc sông Đáy. Về nguồn nước lấy từ sông Đáy rất dồi dào do được ảnh hưởng của thủy triều, tuy nhiên nguồn nước từ hồ chứa những năm gần đây cũng bị suy giảm, bên cạnh đó còn có vấn đề yêu cầu chuyển đổi mục đích sử dụng của hồ Quan Sơn sang phục vụ du lịch.

b. Tiêu, thoát nước


Là khu vực có nhiều đồi núi và địa hình đồi gò nên việc tiêu nước là khá thuận lợi. Vùng đồng bằng Tả Tích, tiêu nước khó khăn hơn và chủ yếu tiêu bằng động lực, hệ số tiêu đạt bình quân 5,5-6l/s/ha. Vùng Hữu Tích chủ yếu tiêu tự chảy ra sông Tích, Thanh Hà, Đáy, các vùng trũng ven sông được khoanh tiêu bằng các trạm bơm nhỏ.

Vấn đề về tiêu của vùng hữu Đáy chủ yếu là năng lực công trình đầu mối chưa đảm bảo, khả năng thoát lũ của sông Tích hạn chế do dòng chảy quanh co.



  • Khu vực miền núi, bán sơn địa Ba Vì có diện tích 31.173ha, tiêu tự chảy trực tiếp ra các sông.

- Khu vực đồng bằng Ba Vì: với diện tích tự nhiên 11.230ha trong đó diện tích tiêu bằng công trình là 9.385ha, hiện tại có 3.305ha được tiêu động lực bằng 7 trạm bơm và 6.080ha tiêu tự chảy ra sông Tích. Vùng tiêu bằng động lực với các trạm bơm như Cổ Đô, Vạn Thắng, Chi Lai… hệ số tiêu khoảng 6-9l/s/ha. Trục tiêu Cổ Đô – Vạn Thắng chiều dài 16km chưa đủ năng lực chuyển tải thường bị tràn bờ gây ngập úng. Các khu vực hiện tại đang tiêu tự chảy như Phú Sơn- Yên Bồ và Tiền Phong vẫn chưa chủ động về tiêu và các khu vực này hàng năm vẫn xảy ra úng ngập.

- Khu vực Tả Tích

Được bao bọc bởi sông Đáy, sông Tích và sông Hồng, khu vực Tả Tích có diện tích 40.990ha, trong đó diện tích tiêu bằng công trình là 34.132 ha, hướng tiêu ra sông Tích và sông Đáy. Diện tích các khu vực bãi 6.858ha tiêu tự chảy ra sông Hồng, sông Đáy, sông Tích.

Tiêu động lực vào sông Tích có các khu tiêu: Quán Mới, Phú Thụ, Lại Thượng, Săn, Lim, Ngọc Bài, Bình Phú, Đầm Bung 1, An Sơn, Đông Sơn, Tử Nê, Yên Duyệt, Hạ Dục. Tiêu Động lực vào sông Đáy có các khu tiêu như Hiệp Thuận, Thuỵ Đức, Cộng Hoà, Phụng Châu, Phụ Chính, An Vọng.

Nhìn chung các trạm bơm tiêu đều có hệ số tiêu từ 5-8 l/s/ha, cá biệt có những khu vực chỉ đạt 2-4 l/s/ha như khu tiêu Lim, Lại Thượng, Cần Kiệm, An Vọng, Cửa Đình…

Đa số các trạm bơm máy móc bị hỏng hóc, nhà trạm xuống cấp, kênh mương bồi lắng. Điển hình như các trạm bơm Lại Thượng 1,2 , Săn, Đồng Trúc, Bình Phú, Cần Kiệm, Cấn Hạ, Trại Do, Đông Yên và Vĩnh Phúc.

Khu tiêu Yên Sơn hiện đang tiêu tự chảy ra sông Đáy với diện tích 1.450ha, hiện tại các khu công nghiệp, đô thị và giao thông trong khu phát triển mạnh. Hệ thống tiêu tự chảy hiện có không đáp ứng được yêu cầu tiêu.Trạm bơm tiêu Yên Sơn hiện đã được lập dự án.

Khu tiêu Phú Thụ tiêu cho 3200ha có trạm bơm đầu mối tương đối hoàn chỉnh nhưng hàng năm vẫn bị ngập úng do kênh chính còn chưa được nạo vét mở rộng làm hạn chế khả năng chuyển tải nước.

Khu tiêu Đầm Bung 1 với các trạm bơm tiêu Thông Đạt, Trại Do, Đồng Vỡ, Vĩnh Phúc tiêu cho 2010ha ra sông Tích. Hiện tại trạm bơm Vĩnh Phúc đã bị hư hỏng: trạm bơm thấp, cống qua đê lún nứt không đảm bảo an toàn gây ra ngập úng đã được lập dự án đầu tư để nâng cấp.

Ở khu vực tả Tích hiện các khu đô thị như Sơn Tây, Thạch Thất, Quốc Oai, Chúc Sơn.. đã và đang được mở rộng làm tăng nhu cầu tiêu và ảnh hưởng đến các công trình tiêu.

- Khu vực Hữu Tích

Là khu vực miền núi và bán sơn địa, có diện tích tự nhiên 38.483ha, diện tích cần tiêu bằng công trình là 9.518ha, còn lại là tự chảy không qua công trình. Phần diện tích bơm tiêu nằm rải rác dọc theo sông Tích từ Sơn Tây đến Chương Mỹ với các khu tiêu nhỏ như: Đầm Đượm, Cầu Khoai, Đầm Quâng, Liệp Mai, Đồng Ma, Gò Rốm, Đồng Yên, Đồng Chuối, Nhân Lý, Cầu Tây, Mỹ Hạ, Mỹ Thượng, Mỹ Lương, Đồng Buộm. Khó khăn trong vấn đề tiêu ở khu vực này là việc cách ly lũ núi và chống tràn của các khu tiêu. Ngoài ra các trạm bơm như Đầm Quâng xây dựng từ năm 1960 bị hư hỏng nặng, Cầu Cổng bị hỏng máy.

Đây là khu vực được quy hoạch khu đô thị và công nghệ cao Hoà Lạc, hầu hết các khu đô thị và công nghiệp đều được bố trí ở các khu vực cao nên việc tiêu thoát tự chảy thuận lợi.

- Khu vực Mỹ Hà

Diện tích tự nhiên là 23.147ha, diện tích cần tiêu bằng công trình 17.526ha được tiêu tự chảy và động lực ra sông Đáy với 13 trạm bơm tiêu và 9 trạm bơm kết hợp. Tổng diện tích tiêu tiêu động lực theo thiết kế là 20.649ha, thực tế tiêu được 13.655ha, đạt 78% so với yêu cầu hiện tại. Diện tích còn lại là các khu vực đồi núi được tiêu tự chảy thuận lợi.



Nhiều trạm bơm công suất rất bé chỉ đạt 2-3 l/s/ha như Phúc Lâm, Tảo Khê, Cống Bột, Xuy Xá, Hoà Lạc, Phú Hiền. Chỉ trừ các trạm bơm Phúc Lâm, An Mỹ II, Phù Lưu Tế 2, Bạch Tuyết vừa mới xây còn lại các trạm bơm khác hầu hết máy móc cũ nát, nhà trạm xuống cấp, kênh mương bồi lắng.

Bảng 5 5. Tổng hợp hiện trạng công trình tưới tiêu vùng Hữu Đáy theo nguồn sông













Nguồn tưới

(Hướng tiêu)

Diện tích tưới (ha)

Diện tích tiêu (ha)

Thiết kế

Thực tế

Yêu Cầu

Thiết kế

Thực tế

Yêu Cầu

Hữu Đáy

63.031

46.221

67.377

74.135

50.867

70.561

Đà

3.501

3.501

 

0

0

 

Hồng

8.019

7.305

 

0

0

 

Tích

6.158

5.989

 

42.415

30.885

 

Đáy

4.550

4.436

 

30.429

19.982

 

Nội đồng

40.803

24.991

 

1.291

 

 

5.2.1.3. Vùng thuỷ lợi Tả Đáy (sông Nhuệ)


Hệ thống tả sông Nhuệ được hình thành từ những năm 30 của thế kỷ trước, là hệ thống tưới tiêu kết hợp với công trình đầu mối tưới là cống Liên Mạc và cống Lương Cổ. Ban đầu hệ thống tạo nguồn nước và tiêu thoát nước bằng tự chảy. Tuy nhiên cho đến nay rất nhiều trạm bơm đã ra đời tưới tiêu động lực chủ động cho phần lớn diện tích của hệ thống

Trục chính của hệ thống là sông Nhuệ với chiều dài 74 km từ cống Liên Mạc đến Phủ Lý. Ngoài ra còn có các trục sông lớn như sông Duy Tiên, Tô Lịch, La Khê, Vân Đình. Các công trình lớn điều tiết trên hệ thống nhằm điều tiết tưới tiêu cho các khu vực như cống Hà Đông, Đồng Quan, Nhật Tựu, Hoà Mỹ, Điệp Sơn, Lương Cổ.

Hệ thống sông Nhuệ phụ trách tưới tiêu cho các huyện thuộc địa bàn thành phố Hà Nội gồm: Đan Phượng, Hoài Đức, Hà Đông, Thanh Oai, Thường Tín, Phú Xuyên, Ứng Hoà, Từ Liêm, Thanh Trì, ngoài ra còn hỗ trợ tiêu cho các Quận Tây Hồ, Đống Đa, Hoàn Kiếm, Ba Đình, Thanh Xuân, Cầu Giấy, Hoàng Mai, Hai Bà Trưng.

Hệ thống còn phụ trách toàn bộ huyện Duy Tiên và một phần diện tích của huyện Kim Bảng, Thành Phố Phủ Lý của tỉnh Hà Nam.



Bảng 5 6. Thông số các công trình điều tiết lớn

TT

Công trình

Cao trình đáy mới đo (m)

Cao trình đáy cũ (m)

Số cửa

Bề rộng (m)

Chiều cao (m)

1

Cống Liên Mạc 1

0,81

1,00

5

18

15.5

2

Cống Liên Mạc 2

0,31

0,50

3

18

10

3

Cống Hà Đông Mới

-1,00

-0,8

2

22

6

4

Cống Đồng Quan

-2,3

-2,23

3

26

6

5

Cống La Khê

0,18

+0,40

2

9

3,55

6

Cống Hòa Mỹ

-0,51

0

1




6,56

7

Công Vân Đình

-1,79

-0,55

2

6,4

4,12

8

Cống Ngoại Độ

-0,78







6




9

Đ. Thanh Liệt

1,50







25,2




Ghi chú: Cao trình đáy công trình mới đo theo cao độ quốc gia.

Toàn vùng Tả Đáy có 2.680 tuyến kênh tưới, tiêu và tưới tiêu kết hợp với chiều dài trên 3.032 km, trong đó:



  • 659 tuyến kênh với chiều dài 1.366km kênh do thành phố quản lý

  • 2.021 tuyến kênh nội đồng với chiều dài 1.665km do các huyện quản lý.

a. Tưới, cấp nước

Diện tích yêu cầu tưới toàn vùng là 57.949ha, thực tế đạt 50.650ha đạt gần 87% yêu cầu tưới, hiện ti trong hệ thống có 484 công trình. Mặc dù về mặt công trình tưới cho hệ thống là tương đối đảm bảo, tuy nhiên hàng năm diện tích bị khó khăn nguồn nước vẫn rất lớn do nguồn nước không đảm bảo đặc biệt là từ năm 2003 đến nay mực nước sông Hồng liên tục xuống thấp. Với nhu cầu nước hiện tại của các khu vực lấy nước sông Nhuệ dự kiến khoảng 70 m3/s, trong lúc đó công trình đầu mối Liên Mạc chỉ được thiết kế với lưu lượng thiết kế 37m3/s không đủ đáp ứng nhu cầu nước cho hệ thống. Hiện tại cống Tắc Giang đã được xây dựng để bổ sung nước cho sông Châu, hỗ trợ nhiệm vụ cho sông Nhuệ với diện tích tưới là 4.343ha. Hệ thống Tắc Giang bao gồm cống Tắc Giang 12,5m, ở các cao trình -1,5m, +2m và +5m; âu Tắc Giang 7m, ở cao trình -0,5m các cống Điệp Sơn, Phủ Lý, Chợ Lương. Hiện trạng cấp nước của các khu vực thuộc Hà Nội như sau:



- Vùng tưới hệ thống Đan Hoài:

Trạm bơm Đan Hoài được xây dựng từ năm 1962 gồm 5 máy 8.000m3/h thiết kế tưới cho 9.200ha của 2 huyện Đan Phượng, Hoài Đức và 1 phần huyện Từ Liêm. Trạm bơm Đan Hoài hiện tại cấp nước cho 4.722ha, trong đó huyện Đan Phượng là 1.796ha, Hoài Đức 2.879ha, trong đó có 3 trạm bơm tưới cấp 2 gồm Minh Khai, Phương Bảng và Tiên Tân lắp tổng cộng 15 máy, lưu lượng 1000-1500m3/h tưới cho 569ha.

Mặc dù lấy nước trực tiếp từ sông Hồng nhưng trạm bơm Đan Hoài, do mực nước xuống thấp nhiều năm gần đây về mùa kiệt không thể bơm được để đảm bảo phục vụ sản xuất. Thành phố đã xây dựng trạm bơm dã chiến Bá Giang với quy mô 25x1000m3/h để hỗ trợ cho Đan Hoài và xả nước xuống sông Đáy tạo nguồn cho các trạm bơm dọc sông Đáy. Trong tương lai các khu vực canh tác trong đê của hệ thống Đan Hoài sẽ nhường chỗ cho các khu đô thị, công nghiệp, diện tích cần tưới giảm xuống còn xấp xỉ 50% diện tích hiện nay

Khu vực hệ thống tưới Đan Hoài đang trong quá trình đô thị hóa mạnh mẽ, trong tương lai gần như các diện tích canh tác trong đê sẽ nhường chỗ cho các khu đô thị, công nghiệp. Vì vậy nhiệm vụ tưới của trạm bơm Đan Hoài sẽ giảm dần, tuy nhiên thay vào đó là các nhiệm vụ cấp nước cho sinh hoạt, công nghiệp và môi trường.

Sau gần năm mươi năm vận hành, trạm bơm Đan Hoài đã và đang bị xuống cấp nghiêm trọng: máy móc cũ nát thường xuyên phải tu bổ sửa chữa chắp vá, hiệu quả bơm tưới thấp, chi phí điện năng lớn, cần phải được cải tạo nâng cấp. Hiện thành phố đã phê duyệt chủ trương đầu tư xây dựng mới trạm bơm Đan Hoài.

- Vùng tưới La Khê

Trạm bơm La Khê là công trình đầu mối tưới cho các quận, huyện Hà Đông, Thanh Oai và Ứng Hoà. Trạm được xây dựng từ năm 1962 với quy mô 6x8000m3/h có diện tích thiết kế 5.418ha, thực tế phục vụ 4.418ha trong đó tưới cho diện tích canh tác trên địa bàn quận Hà Đông là 1.365ha.

Công trình tưới chính là trạm bơm La Khê tưới cho 4.418ha, trạm bơm I1-16 tưới cho 500ha, Thanh Thuỳ 560ha, Phương Nhị 1.450ha. Diện tích tưới thiết kế của các công trình tưới là 7.381ha, thực tế tưới được 6.396 ha.

Những năm gần đây nguồn nước cấp cho trạm bơm cũng rất hạn chế do mực nước sông Hồng xuống thấp, cống Liên Mạc lấy không đủ công suất trong khi đó nhu cầu nước trong hệ thống sông Nhuệ lớn. Bên cạnh đó chất lượng nước sông Nhuệ cũng là vấn đề lớn ngay cả khu vực trên Hà Đông (trước khi có Thanh Liệt đổ vào) thì nước sông Nhuệ cũng đã bị ô nhiễm từ các khu công nghiệp, đô thị làng nghề đổ xuống theo các sông Đăm, Cầu Ngà, Xuân Đỉnh, Đồng Bông… Hiện tại khu vực này đã được xây dựng 2 trạm bơm mới lấy nước từ sông Đáy đó là trạm bơm Cao Xuân Dương tưới cho 2.440ha và Cao Bộ tưới cho 1.985ha. Tuy nhiên do nguồn nước sông Đáy từ hệ thống Cẩm Đình- Hiệp Thuận vẫn chưa có nên để có nguồn cấp cho các trạm bơm này thường phải xả nước từ các trạm bơm Phù Sa và Đan Hoài xuống bổ sung nước cho sông Đáy.



- Vùng tưới Hồng Vân

Trạm bơm Hồng Vân được xây dựng năm 1964, với quy mô 5x8.000m3/h có nhiệm vụ thiết kế tưới cho 8.816ha, thực tế hiện nay tưới cho 5.500ha của 2 huyện Thường Tín và Phú Xuyên. Hiện tại công suất trạm bơm vẫn đảm bảo được yêu cầu tuy nhiên máy thường xuyên bị sự cố, công suất chỉ đạt 60-70% thiết kế, nhà máy bị nứt tường thấm dột, cống qua đê hỏng khớp nối, kênh chính dài 34km chưa kiên cố hoá. Trong khi đó ngoài nhu cầu nước của Thường Tín thì khu vực Nam Thanh Trì cũng đang cần được tiếp nước từ Hồng Vân để cải thiện nguồn nước. Trong những năm tới khu vực này cũng bị đô thị hóa, diện tích canh tác sẽ giảm đi đặc biệt là các khu vực phía trên đường quy hoạch vành đai 4.

Sau gần năm mươi năm vận hành, trạm bơm Hồng Vân đã và đang bị xuống cấp nghiêm trọng: máy móc cũ nát thường xuyên phải tu bổ sửa chữa chắp vá, hiệu quả bơm tưới thấp, chi phí điện năng lớn, cần phải được cải tạo nâng cấp. Hiện thành phố đã phê duyệt chủ trương đầu tư cải tạo nâng cấp hệ thống tưới Hồng Vân.

- Vùng tưới Từ Liêm (2159ha)

Đây là các khu vực chủ yếu tưới bằng các trạm bơm nhỏ, lấy nước từ sông Nhuệ. Chất lượng nước đoạn thượng lưu Cầu Diễn hiện vẫn đảm bảo, tuy nhiên đoạn hạ lưu Cầu Diễn đã bị ô nhiễm. Trong tương lai diện tích canh tác của Từ Liêm không còn nhiều do vậy một số trạm bơm sẽ chuyển sang các nhiệm vụ khác như cấp nước môi trường (trạm bơm Thụy Phương), hoặc bỏ dần nhiệm vụ tưới.



- Vùng tưới Thanh Trì (1912ha)

Thanh Trì sử dụng nguồn nước từ sông Nhuệ hiện đã bị ô nhiễm nghiêm trọng. Khu vực Nam Thanh Trì cần hệ thống tiếp nguồn nước từ sông Hồng qua trạm bơm Hồng Vân.



- Vùng tưới Ứng Hòa (11221ha)

Đây là huyện trọng điểm lúa của thành phố Hà Nội, nguồn tưới chủ yếu là từ sông Nhuệ, một số khu vực dùng nước sông Đáy. Tuy nhiên do nằm ở cuối nguồn nên vùng tưới của Ứng Hòa hiện thường xuyên thiếu nước. Hiện tại, trạm bơm Thái Bình đã được xây dựng để lấy nước sông Đáy hỗ trợ cho 2000ha của khu vực.



- Vùng tưới Phú Xuyên. (9953ha)

Phú Xuyên cũng là một trong những huyện có diện tích nông nghiệp lớn của Thành phố. Số lượng lớn các trạm bơm tưới chủ yếu lấy nước từ sông Nhuệ vì vậy khu vực này phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn nước sông Nhuệ. Những năm gần đây do nguồn nước sông Nhuệ kém, thành phố đã có các giải pháp như xây dựng trạm bơm Thụy Phú năm 2006 với quy mô 2 x 3000m3/h lấy nước sông Hồng để tăng cường nguồn nước cho khu vực này.


b. Tiêu thoát nước


Tổng diện tích tự nhiên là 107.282ha, diện tích các vùng bãi sông là 11.956ha được tiêu tự chảy không có công trình ra sông Hồng và sông Đáy, diện tích cần tiêu có công trình là 95.326ha, năng lực thực tế của các công trình này là 75.344ha đạt 79%.

Cũng tương tự như các công trình đầu mối tưới, các công trình tiêu đều đã được đầu tư tương đối hoàn thiện tuy nhiên trong thực tế diện tích úng vẫn rất lớn mà nguyên nhân chủ yếu là do các hệ thống sông trục như sông Tô Lịch, Nhuệ, Duy Tiên không đủ khả năng tải nước, nhiều khu vực trong hệ thống tiêu tự chảy nên không chủ động mà hoàn toàn phụ thuộc vào mực nước ngoài sông Đáy đặc biệt là khu vực tiêu vào sông Nhuệ phía trên cống Hà Đông. Một số khu vực hệ số tiêu còn rất thấp như lưu vực tiêu của trạm bơm Đông Mỹ.



Vùng tiêu ra sông Hồng:

Vùng tiêu trực tiếp ra sông Hồng tiêu hoàn toàn bằng động lực với diện tích cần tiêu là: 14.753ha, trong đó:

- Khu nội thành Hà Nội bao gồm toàn bộ diện tích phía Đông sông Tô Lịch có diện tích cần tiêu 7.753 ha, trạm bơm Yên Sở có công suất 45m3/s và đã được xây dựng giai đoạn 2 nâng công suất lên thành 90m3/s.

- Bốn trạm bơm lớn khác là Đông Mỹ (Thanh Trì), Bộ Đầu (Thường Tín), Khai Thái (Phú Xuyên) tiêu thoát cho 7.000ha trên địa bàn Thanh Trì, Thường Tín, Phú Xuyên. Một số khu vực trong lưu vực tiêu của 3 trạm bơm trên đang trong quá trình đô thị hóa mạnh nên yêu cầu tiêu tăng cao vượt quá khả năng của các trạm bơm gây ngập úng như Đông Mỹ, Bộ Đầu.



Vùng tiêu động lực ra sông Đáy

Tiêu trực tiếp ra sông Đáy gồm 3 trạm bơm lớn Đào Nguyên, Ngoại Độ I, Vân Đình và một số trạm bơm nhỏ. Tổng diện tích cần tiêu là 23.299ha, năng lực thực tế của các công trình tiêu được 18.181ha đạt 78% so với yêu cầu tiêu. Các trạm bơm tiêu chính gồm:



    • Trạm bơm Đào Nguyên có diện tích thiết kế ban đầu là 2.400ha, thực tế tiêu được 1.400ha. Trạm bơm đã hoạt động hơn 20 năm (từ 1988), máy móc cũ nát hiệu quả bơm tiêu hạn chế, đặc biệt là khả năng chuyển tải của cống qua đường Láng, kênh dẫn S0 không mở rộng được.

    • Trạm bơm Vân Đình (28 máy 8.000m3/h) có nhiệm vụ tiêu cho 10.800ha, hỗ trợ tiêu cho trạm bơm Vân Đình là 6 trạm bơm nhỏ với diện tích tiêu thực tế là 3.172ha. Trục tiêu Vân Đình được nối với sông Nhuệ thông qua cống Hoà Mỹ. Đây là trạm bơm lớn của khu vực, ngoài nhiệm vụ tiêu cho khu vực trạm bơm Vân Đình còn có nhiệm vụ hỗ trợ tiêu cho trục sông Nhuệ khi cần thiết.

    • Trạm bơm Ngoại Độ 2 bổ sung năng lực cho lưu vực Ngoại Độ tiêu ra sông Đáy đã được phê duyệt đang chuẩn bị tiến hành xây dựng tuy nhiên hiện tại TB Ngoại Độ 1 (15 máy 8.000m3/h) tiêu cho 6.500ha ra sông Đáy cũng đang bị xuống cấp cần được cấp cải tạo.

Vùng tiêu vào sông Nhuệ

Tổng toàn vùng tiêu ra sông Nhuệ có diện tích cần tiêu là là 57.274ha, thực tế tiêu 39.280ha đạt 68% so với yêu cầu tiêu. Vùng tiêu trực tiếp ra sông Nhuệ được chia làm 2 khu tiêu nhỏ: trên Hà Đông và dưới Hà Đông. Tổng cộng có 198 trạm bơm các loại tiêu vào sông Nhuệ với công suất 316m3/s.



- Khu tiêu trên Hà Đông: Bao gồm diện tích của khu vực nội thành Hà Nội, các huyện Từ Liêm, Đan Phượng, Hoài Đức, một phần của Hà Đông và Thanh Trì. Tiêu bằng động lực gồm 48 trạm bơm với 130 tổ máy (53 m3/s) tiêu chủ yếu cho các khu vực trũng thấp như Thượng Mỗ, Chùa Đậu trục sông Đăm, còn lại tiêu tự chảy ra sông Nhuệ với các trục tiêu chính như sông Đăm, Cầu Ngà, Hà Nội, Đồng Bông, Mỹ Đình, Mễ Trì, Ba Xã, La Khê…. Đây là khu vực đô thị mới phát triển với nhiều công trình quan trọng của thủ đô và các khu đô thị mới do vậy việc tiêu thoát nước cần được hết sức coi trọng.

    • Nhìn chung các trạm bơm tiêu vào sông Nhuệ là các trạm bơm vừa và nhỏ, đều thiếu công suất, máy móc cũ nát: Trạm bơm Đồng Nghễ II xây dựng năm 1994 nhưng chưa hoạt động được do hệ thống kênh dẫn kém. Trạm bơm Ngòi Già thực tế không hoạt động do diện tích chuyển sang khu công nghiệp. Trạm bơm Cầu Sa và Đồng Quan Tả mái bể xả bị hư hỏng, nhà quản lý cũ.

    • Các khu vực tiêu tự chảy hoàn toàn phụ thuộc vào mực nước sông Nhuệ, trong khi hệ thống kênh mương còn ách tắc, co hẹp và chưa đảm bảo khả năng tiêu nước. Công trình đô thị, công nghiệp phát triển mạnh và nhanh trong khi đó công trình tiêu thoát nước chưa theo kịp. Khi mực nước Sông Nhuệ tại thượng lưu cống Hà Đông nhỏ hơn +4,5m, việc tiêu ra sông Nhuệ thuận lợi, nhưng một số năm gần đây về mùa mưa, do hệ thống sông Nhuệ tiêu thoát nước kém, mực nước Sông Nhuệ trước cống Hà Đông thường từ +5 đến +6 m. Bên cạnh đó các khu công nghiệp đô thị phát triển rất nhanh với cao độ nền tôn cao gây ra tình trạng úng ngập lớn và cục bộ, đặc biệt là các khu dân cư cũ và các khu vực xen kẹp.

    • Hiện tại khu vực đã được quy hoạch tiêu hoàn toàn bằng động lực với các trạm bơm Yên Nghĩa, Đào Nguyên và Yên Thái ra sông Đáy, trạm bơm Nam Thăng Long và Liên Mạc ra sông Hồng.

- Khu tiêu dưới Hà Đông: Thuộc địa bàn của các quận, huyện Hà Đông, Thanh Trì, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hoà, Phú Xuyên, được tiêu bằng động lực với 193 trạm bơm với 602 tổ máy (262 m3/s).

    • Mặc dù các trạm bơm tiêu gần đây cũng được chú trọng nâng cấp, xây mới tuy nhiên đa số các trạm bơm tưới tiêu máy móc đều cũ nát xuống cấp, thiếu năng lực, cần cải tao và nâng cấp như Thạch Nham 2, Thanh Văn 1, Khe Tang, Văn Khê 1, Ước Lễ 1, Lưu Khê, Phúc Quang, Đại Cường, Thái Bằng, Trầm Lộng…

    • Năng lực một số trạm bơm còn chưa đảm bảo hệ số tiêu 7l/s/ha như Vĩnh Mộ 2, Gia Khánh 1,2, Hậu Bành, Nhị Khê, Văn Bình, Phúc Trại. Hệ thống kênh tiêu nhiều đoạn bị ách tắc như kênh tiêu của TB Gia Khánh 2.

Bảng 5 7. Tổng hợp hiện trạng công trình tưới tiêu vùng Tả Đáy

Nguồn tưới

(Hướng tiêu)

Diện tích tưới (ha)

Diện tích tiêu (ha)

Thiết kế

Thực tế

Yêu Cầu

Thiết kế

Thực tế

Yêu Cầu

Tả Đáy

75.980

50.650

57.949

124.057

75.344

95.326

Hồng

14.740

9.979

 

13.582

8.599

 

Nhuệ

44.562

29.642

 

64.274

48.164

 

Nội đồng

11.186

6.744

 

19.677

 

 

Đáy

5.492

4.285

 

26.524

18.581

 



5.2.1.4.Vùng Bắc Hà Nội


Vùng Bắc Hà Nội bao gồm diện tích của các huyện Gia Lâm, Sóc Sơn, Đông Anh, Mê Linh và quận Long Biên.

Toàn khu vực có 177 công trình tưới tiêu các loại do các xí nghiệp KTCTTL phụ trách, ngoài ra còn có rất nhiều các trạm bơm, hồ đập nhỏ do các HTX nông nghiệp phụ trách.

Toàn vùng Bắc Hà Nội có 1.793 tuyến kênh tưới, tiêu và tưới tiêu kết hợp với chiều dài trên 2.997 km, trong đó:


  • 425 tuyến kênh với chiều dài 594km kênh do thành phố quản lý

  • 1.368 tuyến kênh nội đồng với chiều dài 2.404km do các huyện quản lý.

a. Tưới, cấp nước


Với diện tích cần tưới toàn vùng là 38.783ha, các công trình tưới trên địa bàn các huyện trong vùng có diện tích tưới thực tế là 33.637ha, đạt 87% yêu cầu. Diện tích tưới bằng động lực hơn 26.000ha chiếm hơn 68% diện tích yêu cầu tưới toàn vùng.

Hệ thống tưới lớn của vùng Bắc Hà Nội gồm có Thanh Điềm, Ấp Bắc- Nam Hồng và Trịnh Xá:



  • Hệ thống tưới lớn của Mê Linh là trạm bơm Thanh Điềm xây dựng năm 2001 với quy mô 10x3.600m3/h lấy nước từ sông Hồng. Hệ thống được thiết kế tưới cho toàn bộ huyện Mê Linh với 7.574ha của huyện Mê Linh và thị xã Phúc Yên (Vĩnh Phúc). Thực tế hiện nay Thanh Điềm là trạm bơm duy nhất để cấp nước trực tiếp và tạo nguồn cho gần 6.000ha của huyện Mê Linh; cấp nguồn cho sông Cà Lồ chết tưới cho 3.000ha của các huyện Mê Linh, Yên Lạc, Bình Xuyên, Phúc Yên. Từ năm 2002 trở lại đây, mực nước sông Hồng mùa kiệt thường xuyên xuống thấp, TB Thanh Điềm không hoạt động được. Thành phố đã phải xây dựng trạm bơm dã chiến Thanh Điềm với quy mô 16x1100m3/h để chống hạn. Để đảm bảo yêu cầu cấp nước ổn định cần cải tạo, nâng cấp TB Thanh Điềm để có thể lấy nước khi mực nước sông Hồng xuống thấp.

  • Hệ thống Ấp Bắc – Nam Hồng là hệ thống tưới lâu đời được xây dựng từ đầu những năm 1960 tưới cho 14.086ha diện tích canh tác các huyện Mê Linh- Đông Anh và Sóc Sơn với 2 công trình đầu mối chính là Trạm bơm Ấp Bắc có quy mô 6x8.000m3/h lấy nước trực tiếp từ sông Hồng, trạm bơm Nam Hồng lấy nước kênh chính Ấp Bắc tưới lên 2 kênh tưới chính Tây và chính Đông. Hiện tại hệ thống này chỉ còn nhiệm vụ tưới cho 7800ha tuy nhiên những năm gần đây trạm bơm Ấp Bắc vào vụ đông xuân thường xuyên không hoạt động được mực nước trên sông Hồng xuống quá thấp. Do vậy trạm bơm dã chiến Ấp Bắc mới được xây dựng với quy mô 20x1000m3/h nhằm hỗ trợ để đảm bảo được yêu cầu tưới, chống hạn. Trong tương lai khu vực này đô thị hoá nhanh và mạnh nên diện tích canh tác không còn nhiều. Tương lai trong vài năm tới (sau khi hồ Sơn La xây dựng) nếu không có sự cải thiện nguồn nước sông Hồng thì yêu cầu cần đặt ra là xây lại trạm bơm Ấp Bắc đảm bảo tưới khi mực nước sông Hồng xuống thấp.

  • Cống Long Tửu cung cấp nước cho khoảng 18.000ha diện tích canh tác của TP Hà Nội và tỉnh Bắc Ninh. Dọc kênh Long Tửu (sông Ngũ Huyện Khê) có 6 trạm bơm tưới do công ty quản lý và 8 trạm bơm HTX thuộc địa phận Đông Anh. Những năm gần đây mực nước sông Hồng xuống thấp, cống Long Tửu không lấy đủ nước, các trạm bơm không đủ nguồn để bơm tưới. Hệ thống tưới Trịnh Xá- Bắc Ninh cũng nằm trong tình trạng này do vậy gần 1.200ha của Đông Anh thuộc hệ thống Trịnh Xá đang rất khó khăn trong công tác điều hành tưới và chống hạn.

  • Khu vực Sóc Sơn với địa hình núi, bán sơn địa nên diện tích canh tác thường nhỏ lẻ manh mún. Diện tích canh tác tập trung nhiều ở vùng Đông Nam có các hệ thống tưới lấy nước từ sông Cầu và Cà Lồ (3.347ha) như các trạm bơm Tân Hưng, Cẩm Hà, Thá. Ngoài ra còn có hệ thống tưới lấy từ trạm bơm Nội Bài lấy nước từ Nam Hồng, kênh Đại Lải. Còn lại khu vực miền núi (6.370ha) chủ yếu là lấy từ các hồ chứa nhỏ nằm rải rác, trong đó có các hồ chứa như Đồng Quan, Kèo Cà, Đồng Đò và rất nhiều hồ chứa nhỏ do xã quản lý. Tương tự như các khu vực khác, những năm gần đây nguồn nước cạn kiệt đã gây rất nhiều khó khăn về tưới cho khu vực này

2. Tiêu, thoát nước


Tổng diện tích tự nhiên của vùng là 80.584ha, trong đó có 33.845ha vùng đồi núi và bãi sông được tiêu tự chảy không có công trình ra các sông suối; diện tích cần tiêu bằng công trình là 46.739ha, trong đó bằng động lực là 24.416ha chiếm 52%. Tổng diện tích thiết kế của các công trình tiêu là 45.428ha, thực tế tiêu được 35.075ha chỉ đạt 75% so với yêu cầu tiêu hiện tại.

- Khu vực Bắc Cà Lồ: Gồm diện tích của toàn huyện Sóc Sơn với địa hình đồi núi là chính nên phần lớn diện tích của huyện được tiêu tự chảy ra sông suối, chỉ có 4.184ha vùng trũng nhỏ ven sông Cà Lồ, sông Cầu tiêu bằng động lực bằng các trạm bơm tiêu như Tiên Hưng, Tăng Long, Cẩm Hà 1,2, Tiên Tảo. Các trạm bơm đều đã hoạt động trên 10 năm nên nhiều hỏng hóc xẩy ra. Hệ số tiêu công trình tiêu đầu mối thấp khoảng từ 2,6-4,5 l/s/ha. Khu vực trũng thấp của ngòi tiêu Lương Phúc, Kim Lũ, Xuân Kỳ chưa có công trình tiêu động lực thường xuyên xảy ra ngập úng.



- Khu vực Nam Cà Lồ- Bắc Đuống: Gồm diện tích của huyện Mê Linh, Đông Anh và phần bắc Đuống của huyện Gia Lâm. Hướng tiêu chủ yếu của khu vực là tiêu ra sông Cầu thông qua sông Cà Lồ và Ngũ Huyện Khê. Ngoài ra còn có tiêu động lực bằng các trạm bơm ra sông Hồng, Đuống như: Cổ Điển, Phương Trạch, Dương Hà, Phù Đổng và Thịnh Liên. Nhìn chung năng lực các công trình đều có hệ số tiêu thấp, tùy theo từng công trình đạt từ 4,4 - 8,5l/s/ha

  • Tiêu bằng động lực ra sông Hồng: Hiện tại khu vực có trạm bơm tiêu ra sông Hồng là trạm bơm Cổ Điển tiêu cho khu đô thị Vân Trì với quy mô 20 m3/s mới được xây dựng do Sở Xây dựng quản lý, trạm bơm Phương Trạch tiêu cho 1.700ha ra sông Hồng đã bị xuống cấp. Theo thiết kế thì trạm bơm Cổ Điển tiêu cho cả lưu vực của trạm bơm Phương Trạch.

  • Tiêu ra sông Đuống bằng các trạm bơm Dương Hà- Phù Đổng- Thịnh Liên với diện tích 2516ha với lưu lượng khoảng 17 m3/s. Công trình đầu mối Dương Hà và Thịnh Liên vẫn đảm bảo, trạm bơm Phù Đổng cũ nát xuống cấp. Trục tiêu Thiên Đức bị bồi lắng, ô nhiễm nghiêm trọng.

  • Khu vực tiêu động lực và tự chảy xuống Cà Lồ: Trạm bơm Tam Báo được xây dựng từ năm 1978 với quy mô 10x4.000m3/h tiêu ra sông Cà Lồ cho 2.050 ha tuy nhiên với công suất đầu mối còn thiếu, hiện tại bị hỏng 1 máy nên thực tế trạm bơm tiêu chỉ đạt 1.574ha. Lưu vực của Thường Lệ có diện tích 4500ha, gồm TB Thường Lệ 1 được xây dựng năm 1967 với quy mô 6x 4.000m3/h, TB Thường Lệ II được xây dựng năm 1978, quy mô 16x4000m3/h. Cả 3 trạm bơm tiêu trên đều tiêu ra sông Cà Lồ qua hệ thống kênh xả là ngòi Phù Trì và ngòi Thanh Lâm. Các ngòi tiêu hiện bị lấn chiếm, bồi lấp, mặt cắt thoát nước bị co hẹp; các trạm bơm tiêu đều đã cũ, máy móc hư hỏng, hiệu quả bơm tiêu thấp, cần cải tạo lại.

  • Khu vực tiêu xuống sông Ngũ Huyện Khê: Các trạm bơm Thạc Quả, 19/5, Đồng Dầu là những trạm bơm máy móc cũ nát, nhà trạm xuống cấp đang được đề nghị xây dựng lại

- Khu vực Nam Đuống: Thuộc diện tích quận Long Biên và phần phía Nam Đuống huyện Gia Lâm với khoảng 8.527ha tiêu bằng tự chảy qua sông Cầu Bây rồi ra sông Kim Sơn- Bắc Hưng Hải. Sông Cầu Bây- trục tiêu chính của khu vực bị bồi lắng thu hẹp làm hạn chế khả năng thoát nước trong khi nhu cầu tiêu ngày càng cao do quá trình đô thị hoá.

Bảng 5 8. Hiện trạng công trình tưới tiêu vùng bắc Hà Nội theo nguồn sông

Nguồn tưới

(Hướng tiêu)

Diện tích tưới (ha)

Diện tích tiêu (ha)

Thiết kế

Thực tế

Yêu Cầu

Thiết kế

Thực tế

Yêu Cầu

Khu Bắc Hà Nội

50.707

33.637

38.783

45.428

35.075

46.739

Hồng

18.655

7.885

 

4.000

2.300

 

Cà Lồ

3.161

1.774

 

14.720

10.841

 

Đuống

2.549

1.838

 

2.516

2.251

 

Bắc Hưng Hải

392

382

 

8.527

6.450

 

Ngũ huyện Khê

1.944

1.944

 

9.849

8.562

 

Cầu

1.484

610

 

5.816

4.671

 

Nội đồng

22.522

19.204

 

0

0

 



Hiện trạng các công trình phòng chống lũ


Thành phố Hà Nội có 18 tuyến đê chính với 464,727 km đê sông. Trong đó 162,848 km là đê hữu và tả sông Hồng (có 37,32 km là đê cấp đặc biệt bảo vệ cho nội thành Hà Nội). Có 65,35 km đê tả Đáy và 21,447 km đê hữu Đuống là đê cấp I; có 67,464 km gồm các tuyến đê tả Đáy, hữu Đà, La Thạch, Ngọc Tảo, tả Đuống là đê cấp II; còn lại là đê cấp III và cấp IV. Chi tiết các tuyến đê sông như sau:

Bảng 5 9. Hiện trạng các tuyến đê sông thuộc thành phố Hà Nội

TT

Tuyến đê

Cấp đê

Từ km - đến km

Dài (km)

Cao độ (m)

1

Hữu Hồng



















Cấp I

Ko - K36,2

36,2

20,75 - 17,5







Cấp đặc biệt

K47,98 - K85,3

37,32

12,98 - 16,06







Cấp I

K40,35 - K47,98

7,63

16,32 - 15,4







Cấp I

K85,3 - K117,85

32,55

12,8 - 11,0

2

Tả Hồng

Cấp I

K25,5 - K48,165

19,665

16,5







Cấp I

K48,165 - K77,284

29,119

13,52 - 15,91

3

Tả Đáy



















Cấp I

K0 - K65,35

65,35

15,16 - 8,44







Cấp II

K65,35 - K80,022

14,672

8,81 - 7,9

4

Đê hữu Đáy

Cấp III

K0 - K18,42

18,42

14,2 - 12,05

5

Đê Hữu Đà

Cấp II

K0 - K9,7

9,7

21,62 - 20,44

6

Đê La Thạch

Cấp II

K0 - K6,5

6,5

16,92 - 16,57

7

Đê Ngọc Tảo

Cấp II

K0 - K14,134

14,134

17,32 - 13,99

8

Vân Cốc

Cấp III




15,2










Cấp III

K0 - K8,5

8,5

15,36 - 14,97







Cấp III

K8,5 - K15,2

6,7

16,04 - 15,03

9

Đê Tiên Tân

Cấp III

K0 - K7

7

15,5

10

Đê Tả Tích

Cấp IV

K0 - K32,62

32,62

12 - 9,5

11

Đê Tả Bùi

Cấp IV

K0 - K14,566

14,566

8

12

Đê Đường 6

Cấp III

K0 - K5,96

5,96

10,5 - 11,0

13

Mỹ Hà

Cấp IV

K0 - K12,7

12,7

6.5

14

Hữu Đuống

Cấp I

K0 - K21+447

21,447

13,89 - 12,29

15

Tả Đuống

Cấp II

K0 - K22+458

22,458

14,70 - 12,70

16

Tả cà Lồ

Cấp III

K0 - K20+252

20,252

10,92 - 10,05

17

Hữu cà Lồ

Cấp III

K0 - K9+065

9,065

11,50 - 10,12

18

Hữu Cầu

Cấp III

K17- K28+828

11,828

10,29 - 10,72

Ngoài các tuyến đê chính còn có các công trình phòng chống lũ khác:

  • Tổng chiều dài các đê bối trên sông Đà, sông Hồng, sông Đuống là 88,69 km.

  • Tổng số cống dưới đê 187 cái : Trong đó đê hữu Hồng 17, đê tả Hồng 8, đê hữu Đuống 6, đê tả Đuống 5, đê hữu Cầu 12, đê hữu Cà Lồ 14, đê tả Cà Lồ 21, đê tả Đáy 18, đê hữu Đáy 13, đê hữu Đà 5, đê Vân Cốc 3, đê Tiên Tân 1, đê tả Tích 46, đê tả Bùi 8, đê đường 6 có 6 cái và đê Mỹ Hà 4.

  • Tổng số kè sông là 84 cái : Trong đó hữu Hồng 29, tả Hồng 6, hữu Đuống 5, tả Đuống 6, hữu Cà Lồ 2, tả Cà Lồ 7, hữu Cầu 5, tả Đáy 9, hữu Đáy 6, hữu Đà 5 và tả Bùi 4.

  • Tổng số cửa khẩu 30 cái, chủ yếu tập trung ở đê tả Hồng, đê hữu Hồng và tả Đuống.

  • Chiều dài bãi được trồng tre chắn sóng khoảng 74,83km.

  • Số giếng giảm áp 207 cái đa số thuộc tuyến hữu sông Hồng.

Каталог: uploads -> files
files -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
files -> Btl bộ ĐỘi biên phòng phòng tài chíNH
files -> Bch đOÀn tỉnh đIỆn biên số: 60 -hd/TĐtn-tg đOÀn tncs hồ chí minh
files -> BỘ NÔng nghiệP
files -> PHỤ LỤC 13 MẪU ĐƠN ĐỀ nghị HỌC, SÁt hạch đỂ CẤp giấy phép lái xe (Ban hành kèm theo Thông tư số 46/2012/tt-bgtvt ngày 07 tháng 11 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ gtvt) CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> TRƯỜng cao đẲng kinh tế KỸ thuật phú LÂm cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
files -> CHƯƠng trình hoạT ĐỘng lễ HỘi trưỜng yên năM 2016 Từ ngày 14 17/04/2016
files -> Nghị định số 79/2006/NĐ-cp, ngày 09/8/2006 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Dược
files -> LỜi cam đoan tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận án này là trung thực, khách quan và chưa được ai bảo vệ ở bất kỳ học vị nào
files -> BẢng tóm tắt quyền lợI, phạm VI, CÁC ĐIỂm loại trừ VÀ HƯỚng dẫn thanh toán bảo hiểm của hợP ĐỒng nguyên tắc tập thể ngưỜi thân cbcnv vsp

tải về 3.53 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   12   13   14   15   16   17   18   19   ...   33




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương