5.3.TÌNH TRẠNG THIÊN TAI Thiên tai do úng lụt
Trong những năm gần đây, trước sự biến đổi bất thường của thời tiết đã xuất hiện mưa lớn kéo dài, lượng mưa vượt quá tần suất thiết kế. Mặc dù các công trình thuỷ lợi đã hoạt động hết công suất cùng với sự phối kết hợp chặt chẽ của công tác chỉ đạo phòng chống lũ lụt nhưng tình trạng úng lụt vẫn diễn ra trên diện rộng. Diện tích lớn nhất là các năm 2006 và 2008, nguyên nhân chủ yếu là bão hoặc áp thấp gây ra mưa lớn trên diện rộng, mưa vượt tần suất thiết kế.
Trận ngập lụt lịch sử tháng 11 năm 2008
Trong đợt mưa úng qua các trạm bơm bắt đầu hoạt động vào sáng thứ 6 ngày 31/10/08. Tuy nhiên mực nước cao nhất trên sông Nhuệ vào lúc 15 h ngày 1/11/2008 và đến 16 h cùng ngày tất cả các TB tiêu ra sông Nhuệ đều ngừng bơm theo chỉ đạo của ban phòng chống lụt bão Trung ương. Đến lúc này chỉ có các trạm bơm bơm ra sông Hồng và sông Đáy như: Yên Sở, Đông Mỹ, Khai Thái, Yên Lệnh, Bộ Đầu, Vân Đình, Ngoại Độ, Quế, Lạc Tràng, Phương Trung, Cao Xuân Dương hoạt động
Ngoài việc tiêu cho lưu vực phụ trách, các trạm bơm như Vân Đình, Khai Thái còn phải bơm hỗ trợ cho sông Nhuệ qua cống Bìm và Hòa Mỹ.
Bảng 5 10. Lượng mưa thực đo tháng 11 năm 2008
Tổng lượng mưa (mm)
|
Đào Nguyên
|
Liên Mạc
|
Hà Đông
|
La Khê
|
Đồng Quan
|
Hoà Mỹ
|
Vân Đình
|
Nhật Tựu
|
Lương Cổ
|
Hà Nội
|
1 ngày max
|
610
|
363
|
530
|
551
|
307
|
359
|
488
|
230
|
208
|
405
|
2 ngày max
|
718
|
495
|
670
|
722
|
443
|
520
|
617
|
361
|
339
|
479
|
3 ngày max
|
848
|
555
|
770
|
775
|
475
|
564
|
674
|
398
|
372
|
560
|
5 ngày max
|
900
|
567
|
835
|
785
|
504
|
593
|
708
|
415
|
409
|
577
|
Bảng 5 11. Diện tích úng ngập
TT
|
Năm
|
Diện tích ngập (ha)
|
Ghi chú
|
|
|
Tả Đáy
|
Hữu Đáy
|
Bắc Hà Nội
|
|
3
|
Năm 2004
|
60972
|
2793
|
7560
|
|
4
|
Năm 2005
|
59499
|
6357
|
7230
|
|
5
|
Năm 2006
|
58740
|
6813
|
8450
|
Khu vực trên Hà Đông ngập nặng
TB Yên Sở phải hỗ trợ cho Sông Nhuệ
|
6
|
Năm 2008
|
56500
|
Mưa lớn vào cuối vụ mùa (Th11)
Nhiều khu vực Nam Thành phố ngập trong nhiều ngày
|
Nguyên nhân gây ra úng:
-
Do điều kiện thời tiết một số năm bất lợi, lượng mưa vượt quá tần suất thiết kế (2006-2008). Mực nước sông ngoài cao làm giảm khả năng tiêu tự chảy và tiêu động lực cũng khó khăn do mực nước cao uy hiếp đê nội đồng sông Nhuệ, sông Bùi.
-
Công trình đầu mối tiêu còn thiếu năng lực so với thiết kế hoặc chưa có công trình tiêu chủ động:
+ Nhìn chung các khu vực trên địa bàn thành phố đều thiếu năng lực công trình đầu mối điển hình như khu vực: Đông Nam Sóc Sơn, Ngoại Độ, Yên Sở.
+ Một số khu vực trước đây tiêu tự chảy, nay khó khăn như: khu vực Phú Sơn- Yên Bồ, Hiệp Thuận, Yên Sơn, trên Hà Đông…
+ Một số khu vực mặc dù vẫn tiêu tự chảy tốt nhưng ảnh hưởng lớn đến khu vực hạ du như: khu vực trên cống Vực Dê- Đông Anh tiêu vào Ngũ Huyện Khê, khu vực Long Biên- Gia Lâm tiêu vào Bắc Hưng Hải.
-
Hệ thống công trình đầu mối và công trình nội đồng chưa đồng bộ, không được tu sửa, nạo vét thường xuyên gây úng giả tạo.
+ Sông trục như sông Nhuệ, sông Cầu Bây, sông Thiếp, Cổ Đô - Vạn Thắng, các sông cấp 2... bị bồi lắng khả năng tiêu thoát kém. Nhiều kênh tiêu bị xâm hại, lấn chiếm nghiêm trọng do quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá.
- Nhiều trạm bơm xây dựng lâu, máy móc cũ, hiệu suất thấp, tốn điện năng.
Thiên tai do hạn hán
Cũng như các công trình tiêu, trên địa bàn thành phố đã có rất nhiều công trình cấp nước. Mặc dù hiện tượng hạn trong những năm gần đây không xảy ra, tuy nhiên hàng năm diện tích canh tác bị khó khăn về nước vẫn tồn tại đặc biệt là một số năm gần đây (từ năm 2003 đến nay). Diện tích bị hạn tập trung chủ yếu ở khu vực bán sơn địa như Hữu Tích, hữu Mỹ Hà, Sóc Sơn. Các khu vực khác dùng nguồn nước từ sông Hồng cũng bị hạn hán do mực nước sông Hồng xuống thấp, các cống không lấy đủ nước theo yêu cầu, các trạm bơm không hoạt động được hoặc hoạt động một phần công suất.
Mặc dù đã được chính quyền các cấp hết sức quan tâm chống hạn cũng với nỗ lực của nhân dân nhưng vấn đề giải quyết bài toán nguồn nước hàng năm trong thời kỳ tưới ải và tưới dưỡng vẫn là vấn đề hết sức nan giải trên địa bàn thành phố.
Nguyên nhân gây ra hạn:
-
Do điều kiện thời tiết một số năm bất lợi, lượng nước đến dòng chính mùa kiệt (2003 đến nay) không đảm bảo theo tiêu chuẩn thiết kế.
- Điều tiết vận hành hồ chứa thuỷ điện thượng du chỉ được 2-3 đợt trong mùa khô, còn lại các thời gian khác gần như không xả làm mực nước sông Hồng ngày càng có xu hướng xuống thấp, kỷ lục là đầu tháng 3 vừa qua mực nước tại Hà Nội chỉ còn 0,1m trong khi đó mực nước thiết kế của các công trình thuỷ lợi hiện nay ở đồng bằng sông Hồng tương ứng với mực nước tại Hà Nội là 2,15m
-
Đa số các công trình tưới được xây dựng từ thập niên 60-70 nên tình trạng chung đều xuống cấp, máy móc cũ nát, hiệu suất thấp, hỏng hóc nhiều.
-
Hệ thống công trình nội đồng, kênh trục dẫn nước chưa đồng bộ và không được tu sửa, nạo vét thường xuyên, một số khu vực khả năng trữ của hệ thống nội đồng kém như khu vực: Sông Nhuệ, sông Đáy, Ngũ Huyện Khê...
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |