LỜi giới thiệu suy tư ban đẦu về MẦu nhiệm giêSU



tải về 1.5 Mb.
trang17/19
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích1.5 Mb.
#13722
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   19

CON NGƯỜI
Con Người, thuật ngữ bí nhiệm này là danh xưng mà Đức Giêsu thường dùng để nói về mình nhất. Chỉ trong Tin Mừng Máccô, thuật ngữ này xảy ra mười bốn lần trên miệng Đức Giêsu. Đúng thế, trong toàn bộ Tân Ước, thuật ngữ “Con Người” chỉ được tìm thấy trên miệng Đức Giêsu, với một luật trừ duy nhất trong cái nhìn về các tầng trời mở ra được công nhận đối với Stêphanô đang chết. “Kìa, tôi thấy các tầng trời mở ra và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa” (Cv 7:56). Ngay lúc chết, Stêphanô thấy được những gì Đức Giêsu đã tiên báo trước trong khi Ngài bị xét xử trước Sanhedrin. “Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến” (Mc 14:62). Vì thế, Stêphanô thật sự trích dẫn một lời nói của Đức Giêsu, chân lý mà thánh nhân được đặc ân nhìn thấy ngay vào lúc ngài chịu tử đạo.

Khám phá này quan trọng. Các học giả Tân Ước về Kitô học, bao gồm cả các Tác giả Phúc Âm, không xây dựng trên danh xưng “Con Người”, nhưng trên những danh xưng khác đã bắt đầu được truyền bá trong thời gian của Đức Giêsu: “Messiah (Kitô), “Kyrios” (Chúa), “Con Thiên Chúa”. Việc chỉ định “Con Người” điển hình trong những lời nói riêng của Đức Giêsu. Trong giảng dạy của các Tông đồ, nội dung của danh xưng này được chuyển tải vào các danh xưng khác, nhưng danh xưng đặc biệt này lại không được dùng tới. Khám phá này thật sự khá rõ ràng. Và còn nữa, cuộc tranh luận rộng rãi đã phát triển giữa danh xưng này trong các nhà chú giải hiện đại. Bất cứ ai muốn đi xuống tận cùng của danh xưng này, họ tìm thấy chính họ trong bãi tha ma của những giả thuyết mâu thuẫn lẫn nhau. Bàn luận về cuộc tranh luận này nằm ngoài tầm với của cuốn sách này. Ngược lại, chúng ta cần nghiên cứu đến những luồng chính của lý luận này.

Thông thường có sự phân biệt giữa ba tập hợp về nhận định “Con Người”. Nhóm đầu tiên gồm có những câu nói liên quan đến Con Người sẽ đến, những câu nói mà trong đó, Đức Giêsu không nhắm đến chính Ngài như Con Người, nhưng phân biệt giữa Đấng sẽ đến và chính Ngài. Nhóm thứ hai bao gồm những câu nói về hoạt động trần thế của Con Người, trong khi đó, nhóm thứ ba đề cập đến sự đau khổ và Sống lại của Ngài. Khuynh hướng nổi cộm giữa các nhà chú giải chỉ liên quan đến nhóm thứ nhất, nếu như bất cứ, như những câu nói đích thực của Đức Giêsu. Điều này phản ánh cách chú giải theo quy ước về giảng dạy của Đức Giêsu theo hướng cánh chung học nội tại. Nhóm thứ hai bao gồm những câu nói về quyền tha tội của Con Người, về vương quyền của Ngài trên ngày sabát, và về việc vô sản và vô gia cư của Ngài. Dựa theo luồng lý luận chính, nhóm này đã triển khai trong truyền thống ban đầu của Palestine. Điểm này cho thấy có nguồn gốc rất sớm, nhưngkhông trở về xa tới chính Đức Giêsu. Cuối cùng, những câu nói gần đây là những câu nói liên quan đến cái chết và Sự Sống lại của Con Người. Trong Tin Mừng Máccô, những câu nói này xảy ra trong khoảng thời gian Đức Giêsu đi lên Giêrusalem, và thông thường, theo thuyết này, chỉ có thể được sáng tạo sau các biến cố trong câu hỏi, có lẽ cả chính Tác giả Phúc Âm.

Cách phân chia những câu nói của Con Người theo cách này là hệ quả của một loại logíc phân loại cách chi tiết những khía cạnh khác nhau của một danh xưng. Trong khi cách phân chia này thích hợp cho tư duy chuyên môn cách chính xác, cách này lại không hợp với sự đa phức của thực tại cuộc sống, trong đó, cái toàn thể đa tầng kêu gào sự diễn đạt. Tuy nhiên, tiêu chuẩn nền về cách phân loại cho chú giải này hệ tại vào vấn đề chúng ta có thẻ quy cho Đức Giêsu điều gì cách an toàn, trong hoàn cảnh cuộc sống của Ngài và thế giới văn hóa thời của Ngài? Quá rõ ràng, rất ít! Những lời công bố thật về quyền bính hay những tiên đoán về cuộc Thương khó hình như không hợp lắm. Thể loại mong chờ làm nhẹ bớt-khải huyền đã được lưu truyền trong thời đó có thể gán cho Ngài “cách an toàn”, nhưng dường như không còn gì cả. Vấn đề là cách tiếp cận này không công bình đối với ảnh hưởng mạnh mẽ của biến cố Giêsu. Suy tư của chúng ta về cách chú giải của Julicher về các dụ ngôn đã dẫn chúng ta đến kết luận rằng không ai bị lên án Thập giá vì đang răn dạy cách vô thưởng vô phạt.

Để xảy ra một sự cố tận căn như thế, dẫn đến bước cực đoan là trao nộp Đức Giêsu cho Roma, phải có điều gì ấn tượng lắm đã lên tiếng và thực hiện. Những biến cố quan trọng và khuấy động xảy ra ngay từ lúc đầu. Hội thánh mới được khai sinh chỉ có thể từ từ trân trọng ý nghĩa trọn vẹn của các biến cố này, mà Hội thánh đã nắm bắt được như là, trong “việc nhớ đến” chúng, Hội thánh dần dần đã ngẫm nghĩ và suy tư về và qua các biến cố này. Cộng đoàn bí mật được công nhận với một cấp độ đáng ngạc nhiên về thiên tài thần học. Ai là những nhân vật cao cả chịu trách nhiệm cho việc khám phá ra tất cả những điều này? Không có ai cả, sự cao cả, tính mới mẻ ấn tượng, trực tiếp đến từ Đức Giêsu. Chỉ trong đức tin và đời sống của cộng đoàn, điều này được triển khai xa hơn, nhưng cộng đoàn không sáng tạo ra. Đúng thế, “cộng đoàn” không thể nào xuất hiện và sống sót trừ khi một thực tại đặc biệt trước đó đã xảy ra.

Thuật ngữ “Con Người” mà Đức Giêsu vừa giữ lại trong bí nhiệm của Ngài, và đồng thời, vừa dần dần tỏ lộ ra, trở thành mới mẻ và đáng ngạc nhiên. Thuật ngữ này không được phổ biến như một danh xưng về niềm hy vọng đấng messiah. Thuật ngữ này thích hợp cách tuyệt vời với phương pháp giảng dạy của Đức Giêsu, cũng như Ngài đã nói rất nhiều trong ẩn ngữ và dụ ngôn và dần dần dẫn tới thực tại ẩn mình mà chỉ có thể khám phá ra qua cuộc đời làm môn đệ. Cả trong cách dùng Do thái và Aramic, ý nghĩa đầu tiên của thuật ngữ “Con Người” chỉ đơn thuần có nghĩa là “con người”. Từ ngữ đơn giản này hòa hợp với lời ám chỉ bí nhiệm đối với một ý thức mới về sứ mạng trong thuật ngữ “Con Người”. Điều này trở nên rõ ràng trong lời nói về ngày sabát mà chúng ta tìm thấy trong Nhất Lãm. Trong Máccô ghi lại điều này: “Ngày sabát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sabát. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày sabát” (Mc 2:27 tt). Trong Mátthêu và Luca không có câu đầu tiên. Các Tác giả Phúc Âm chỉ ghi lại lời nói của Đức Giêsu. “Con Người làm chủ ngày sabát” (Mt 12:8; Lc 6:5). Có lẽ được giải thích là Mátthêu và Luca bỏ đi câu đầu tiên vì sợ rằng sẽ bị lạm dụng. Nếu có thể như thế, rõ ràng theo Máccô, cả hai câu này thuộc về nhau và chú giải cho nhau.

Nói rằng ngày sabát cho con người chứ không phải con người cho ngày sabát, không chỉ là một diễn đạt theo kiểu quan niệm hiện đại mang tính cách tự do mà tự ý chúng ta biết được trong các từ này. Trong nghiên cứu về Bài giảng Trên núi, chúng ta đã thấy rằng cách chính xác làm sao không thể hiểu được giảng dạy của Đức Giêsu. Trong Con Người, con người được mạc khải như họ phải thực sự trở nên. Trong chiều kích Con Người, trong chiều kích tiêu chuẩn mà chính Đức Giêsu là, con người tự do và họ biết cách dùng ngày sabát cách thích hợp như một ngày tự do xuất phát từ Thiên Chúa và đến cùng Thiên Chúa. “Con Người là Chúa ngày sabát”. Tầm quan trọng trong lời công bố của Đức Giêsu là cách chú giải Lề luật cách quyền bính vì chính Ngài là Lời ban đầu của Thiên Chúa, ở đây, trở nên hoàn toàn hiển nhiên. Và tầm quan trọng trong lời công bố của Đức Giêsu cũng trở nên rõ ràng về loại tự do mới nào được ủy thác trên con người như một hệ quả, một tự do không liên quan gì đến sự bốc đồng bề ngoài. Lời nói về tầm quan trọng của ngày sabát này là phần chồng lên nhau của “con người” và “Con Người”. Chúng ta thấy làm sao giảng dạy này, tự nó rất bình thường, lại trở nên một diễn đạt về chân giá trị đặc biệt của Đức Giêsu như thế nào.

Vào thời Đức Giêsu, “Con Người” không được dùng như một danh xưng. Nhưng chúng ta tìm ra dấu vết của nó khá sớm trong sách Đaniel trong cái nhìn về bốn con thú và “Con Người” đại diện cho lịch sử thế gian. Nhà thị kiến thấy các quyền bính thống trị thế gian thành công qua hình ảnh bốn con thú khổng lồ nổi lên từ biển, đến từ “bên dưới”, và vì thế đại diện cho sức mạnh chỉ đặt nền tảng trên bạo lực, sức mạnh đầy thú tính. Vì thế, nhà thị kiến vẽ lại bức tranh tối tăm và khá xáo trộn về lịch sử thế giới. Phải thừa nhận rằng cái nhìn này không hoàn toàn bi quan. Con thú thứ nhất, con sư tử có cánh của con đại bàng, đã bị nhổ cánh. “Nó được nhấc lên khỏi mặt đất và đặt đứng trên hai chân như một người; nó được ban cho một quả tim người” (Đn 7:4). Sức mạnh có thể được nhân hóa, cả trong thế giới ngày nay. Sức mạnh có thể nhận được khuôn mặt người. Tuy nhiên, đó chỉ là cứu độ tương đối, bởi vì lịch sử tiếp tục và trở nên tối hơn khi lịch sử đi tới.

Nhưng kế đó, sau khi sức mạnh của sự dữ đã đạt tới đỉnh điểm của nó, có một điều gì đó hoàn toàn khác xuất hiện. Nhà thị kiến nhận ra từ xa, như thể Chúa thật của thế gian trong hình ảnh của những Ngày Xa Xưa, Đấng chấm dứt nỗi kinh hoàng. Và giờ đây: “Có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến … Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. … vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (Đn 7:13 tt). Từ trên cao, con người đã đối diện với các con thú dưới vực sâu. Cho đến nay, cũng như các con thú dưới vực sâu đại diện cho các vương quốc trần gian đang có mặt, hình ảnh “Con Người”, Đấng ngự đến từ “mây trời”, tiên báo về vương quốc hoàn toàn mới, một vương quốc “nhân loại”, được đánh dấu bởi quyền năng đích thật đến từ chính Thiên Chúa. Vương quốc này cũng báo hiệu mùa vọng mang tính phổ quát thật, hình dáng lịch sử tích cực và cuối cùng mà từ lâu rồi đã là đối tượng của sự chờ đợi cách âm thầm. Vì thế, “Con Người” đến từ trên cao, trở thành phản đề của các con thú dưới vực sâu biển cả. Như thế, Ngài không chỉ đại diện cho một nhân vật mang tính cá nhân, nhưng cho “vương quốc” mà thế giới đạt tới mục đích của mình.

Các nhà chú giải đã chấp nhận cách rộng rãi cho rằng bản văn này dựa vào một phiên bản sớm hơn, trong đó “Con Người” biểu thị một nhân vật riêng biệt. Dù chúng ta không có phiên bản này, nó vẫn còn là một phỏng đoán. Những bản văn thường được trích dẫn từ 4 Ezra 13 và sách Enoch của Ethiopia cũng vẽ lại Con Người như một nhân vật riêng biệt, thì mới hơn Tân Ước và vì thế, không được coi như một trong những nguồn của nó. Dĩ nhiên, dường như khá hiển nhiên để nối kết thị kiến của Con Người với niềm hy vọng về Đấng Messiah và với nhân vật của chính Đấng Messiah, nhưng chúng ta không có chứng cứ văn bản nào được ghi lại trước thời mụcvụ của Đức Giêsu. Vì thế, kết luận vẫn duy trì là sách Đaniel dùng hình ảnh Con Người đại diện cho vương quốc cứu độ sẽ đến, một thị kiến có sẵn để Đức Giêsu xây dựng trên đó, nhưng Ngài đã gọt giũa bằng cách nối kết niềm hy vọng này với con người và việc làm riêng của Ngài.

Giờ đây, chúng ta hãy trở lại với chính các bản văn Sách thánh. Chúng ta thấy rằng nhóm những câu nói đầu tiên về Con Người nói về việc đến trong tương lai của Ngài. Đa số những câu nói này xảy ra trong diễn từ của Đức Giêsu về thời thế mạt (x. Mc 13:24-27) và trước tòa án Sanhedrin (x. Mc 14:62). Vì thế, việc bàn luận về những câu nói này thuộc về phần thứ hai của cuốn sách này. Chỉ có một điểm quan trọng mà tôi muốn chỉ ra chỗ này là: Những câu nói này về chiến thắng của Đức Giêsu trong tương lai, về việc Ngài lại đến để phán xét và để tụ họp người công chính, người “tuyển chọn”. Tuy nhiên, chúng ta không được coi nhẹ vì những câu nói này được phát biểu bởi một con người đứng trước các thẩm phán, những người lên án và nhạo báng Ngài: Trong chính những câu nói này, vinh quang và Thương khó nối kết cách chặt chẽ với nhau.

Thú thật rằng những lời này không cốt ý nhắc đến cuộc Thương khó, nhưng đó là thực tại mà trong đó, Đức Giêsu tìm thấy chính mình và Ngài đề cập tới trong đó. Chúng ta gặp lại nối kết này trong hình thức khá tập trung trong dụ ngôn về cuộc Phán xét Cuối cùng được ghi lại trong Tin Mừng của thánh Mátthêu (25:31-46), trong đó Con Người, trong vai trò thẩm phán, tự đồng hóa mình với những người đói khát, với kẻ lạ, người trần truồng, bệnh nhân, kẻ bị tù tội, với tất cả những ai đau khổ trong thé gian này, và Ngài diễn tả cung cách ứng xử đối như cách đối xử với chính Ngài. Cách đơn giản, đây không phải là cuốn tiểu thuyết về sự phán xét thế gian, được phát minh ra sau sự Sống lại. Trong việc trở nên nhập thể, Ngài hoàn tất căn tính này với ý nghĩa cực ký sát mặt chữ. Ngài là con người vô sản hay vôn gia cư, Ngài không có nơi để gối đầu (x. Mt 8:19; Lc 9:58). Ngài là tù nhân, người bị lên án, và bị chết trần truồng trên Thập giá. Căn tính này của Con Người là Đấng phán xét thế gian với những ai đang đau khổ trong mọi cách, giả định căn tính của vị thẩm phán với Đức Giêsu trần thế và mạc khải sự hiệp nhất nội tại của Thập giá và vinh quang, của hiện hữu trần thế trong khiêm nhường và quyền bính để phán xét thế gian trong tương lai. Con Người là một con người duy nhất, và con người này là Đức Giêsu. Căn tính này chỉ cho chúng ta con đường, chỉ cho chúng ta tiêu chuẩn theo đó, cuộc đời của chúng ta sẽ được phán xét trong một ngày nào đó.

Điều này qua đi mà không nói rằng sự uyên bác mang tính phê bình đã không xem xét đến bất cứ câu nói này về việc lại đến của Con Người như những lời nói xác thực của Đức Giêsu. Chỉ có hai bản văn từ nhóm này được phân loại như những câu nói của Đức Giêsu quy cho Ngài “cách an toàn”, trong phiên bản được Tin Mừng Luca ghi lại, tối thiểu kèm theo một vài phê bình. Bản văn thứ nhất là Luca 12:8 tt: “Thầy nói cho anh em biết: Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì sẽ bị chối trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa”. Bản văn thứ hai là Luca 17:24 tt: “Vì ánh chớp chóa lòa chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ như vậy trong ngày của Người. Nhưng trước đó, Người phải chịu đau khổ nhiều và bị thế hệ này loại bỏ”. Lý do tại sao các bản văn này được xem như phê chuẩn vì dường như chúng phân biệt giữa Con Người và Đức Giêsu. Đặc biệt câu nói thứ nhất, được lý luận, làm cho khá rõ rằng Con Người không đồng hóa với Đức Giêsu đang lên tiếng.

Giờ đây, điểm đầu tiên cần lưu ý về vấn đề này là dù sao chăng nữa, truyền thống xa xưa nhất đã không hiểu được điều này theo cách thức này. Bản văn song song trong Máccô 8:38 (“Giữa thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, ai hổ thẹn vì tôi, và những lời tôi dạy, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng các thánh thiên thần, trong vinh quang của Cha Người”). Không nói rõ căn tính này, nhưng bố cục của câu văn làm cho nó rõ ràng như pha lê. Trong phiên bản của cùng một bản văn trong Mátthêu, thiếu đi thuật ngữ Con Người. Điều này càng làm rõ hơn căn tính của Đức Giêsu trần thế với vị thẩm phám sẽ đến. “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10:32 tt). Nhưng cả trong bản văn của Luca, căn tính hoàn toàn rõ ràng từ nội dung tổng thể. Đúng thế, Đức Giêsu nói trong hình thức ẩn ngữ mang đặc tính của Ngài, để cho người nghe phải đi tới bước cuối cùng để hiểu. Nhưng còn có một căn tính chức năng song song với lời tuyên tín và chối từ, giờ đây và vào lúc phán xét, trước Đức Giêsu và trước Con Người, và điều này chỉ có nghĩa trên cơ sở căn tính bản thể.

Các vị thẩm phán Sanhedrin thật sự hiểu Đức Giêsu cách thích hợp: Ngài không sửa sai họ như nói lên một điều gì đó: “Nhưng các bạn hiểu lầm tôi, việc Con Người sẽ đến là một người khác”. Sự hiệp nhất nội tại giữa kénosis (x. Pl 2:5-11) đã sống của Đức Giêsu với việc lại đến trong vinh quang là động cơ thường xuyên trong những lời nói và hành động của Ngài. Cách trung thực, điểm này rất mới về Đức Giêsu, không sáng chế ra, ngược lại, đây là bản toát yếu về nhân vật và lời nói của Ngài. Những bản văn riêng lẻ phải được xem trong bối cảnh, tách ra không thể nào hiểu rõ hơn. Ngay cả Luca 12:8 tt có vẻ như thêm vào cho một chú giải khác, bản văn thứ hai rõ hơn nhiều: Luca 17:24 tt đồng hóa cách rõ ràng hai nhân vật. Con Người sẽ không đến chỗ này hay chỗ kia, nhưng sẽ hiện ra như một ánh sáng loé lên từ tận cùng tầng trời này đến tầng trời kia, để cho mọi người sẽ trông thấy Ngài, Đấng bị Đâm thâu (x. Kh 1:7). Tuy nhiên, trước đó Đấng ấy, cùng Con Người này, sẽ phải chịu đau khổ nhiều và bị loại trừ. Lời tiên tri về cuộc Thương khó và lời loan báo về vinh quang trong tương lai nối kết cách chặt chẽ với nhau. Rõ ràng cùng một con người là chủ đề cho cả hai: Đúng thế, chính con người này, Đấng nói lên những lời này, đã trên đường đến sự đâu khổ của Ngài.

Cũng thế, những câu nói trong đó Đức Giêsu nói về hoạt động hiện tại của Ngài minh họa cả hai chiều kích. Chúng ta đã nghiên cứu sơ lược về lời công bố của Ngài rằng, như Con Người, Ngài là Chúa của ngày sabát (x. Mc 2:28). Đoạn này minh họa cách chính xác về những gì mà Máccô đã diễn tả một nơi nào đó. “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc 1:22). Đức Giêsu đặt chính mình về phía Người Ban Lề luật, Thiên Chúa. Ngài không phải là nhà chú giải, nhưng Thiên Chúa.

Điều này càng tở nên rõ hơn trong trình thuật về người bại liệt mà những người bạn của anh ta thòng anh ta xuống từ mái nhà đến dưới chân Chúa trên cái cáng. Thay vì nói lời chữa lành, như người bại liệt và các bạn của anh ta đang mong chờ, trước hết, Đức Giêsu nói cùng người đau khổ: “Này con, con đã được tha rồi” (Mc 2:5). Tha tội là đặc quyền của một mình Thiên Chúa, như các kinh sư phản đối. Nếu Đức Giêsu gán quyền bính này cho Con Người, như thế, Ngài đang công bố sở hữu chân giá trị của chính Thiên Chúa và hành động trên nền tảng này. Chỉ sau lời hứa tha tội, bệnh nhân đang hy vọng được nghe: “Vậy để các ông biết: Ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội, Đức Giêsu bảo người bại liệt, Ta truyền cho con: Hãy đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi về nhà” (Mc 2:10-11). Lời công bố mang tính thần thánh này là những gì dẫn đến cuộc Thương khó. Trong nghĩa này, những gì Đức Giêsu nói về quyền bính của Ngài đều chỉ về sự đau khổ của Ngài.

Chúng ta hãy tiếp tục đến nhóm thứ ba về những câu nói của Đức Giêsu về Con Người: Những tiên báo về cuộc Thương khó của Ngài. Chúng ta đã thấy cả ba tiên báo về cuộc Thương khó trong Tin Mừng Máccô, xảy ra trong khoảng hành trình của Đức Giêsu, loan báo về số phận đang đến của Đức Giêsu và sự cần thiết nội tại của nó càng ngày càng rõ dần. Ba tiên báo này đạt tới tâm điểm nội tại và đỉnh điểm của chúng trong nhận định theo sau lời tiên báo thứ ba về cuộc Thương khó và bài diễn từ gắn kết chặt chẽ về cai trị và phục vụ. “Vì Con Người không phải để người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10:45).

Câu nói này liên kết với một trích dẫn từ các Bài ca về Người Tôi Tớ Đau khổ (x. Is 53) và vì thế, đan kết một phần khác của truyền thống Cựu Ước vào với bức tranh Con Người. Đức Giêsu, một mặt tự nhận mình với vị thẩm phán thế gian sẽ đến, chỗ này cũng tự nhận mình với Người Tôi Tớ đang đau khổ và đang chết của Thiên Chúa, Đấng mà Ngôn sứ tiên báo trong các Bài ca của ông. Sự hiệp nhất giữa đau khổ và “chúc tụng”, giữa sỉ nhục và huy hoàng, trở nên rõ rệt. Phục vụ là hình thức đích thực của việc lãnh đạo và cho chúng ta một chiều sâu vào trong con đường hữu thể Chúa của Thiên Chúa, của “vương quyền Thiên Chúa”. Trong đau khổ và sự chết, cuộc đời của Con Người trở nên “thân thiện sinh” cách tuyệt đối. Ngài trở nên Đấng Cứu Thế và Đấng mang lại cứu rỗi cho “nhiều người”: Không chỉ cho con cái Israel tản mác, nhưng cho tất cả con cái tản mác của Thiên Chúa (x. Ga 11:52), cho nhân loại. Trong cái chết của Ngài cho “nhiều người”, Ngài siêu việt những biên giới của thời gian và không gian, và tính phổ quát trong sứ mạng của Ngài trở nên hoàn tất.

Cách chú giải trước đây coi sự nhập chung lại giữa thị kiến của Đaniel về việc Con Người đang đến với những hình ảnh của Người Tôi Tớ Đau khổ của Thiên Chúa được Israel chuyển tải là nét đặc trưng mang tính mới mẻ và riêng biệt về tư tưởng Con Người của Đức Giêsu, đúng thế, như là tâm điểm của toàn bộ việc Ngài hiểu về Ngài. Điều này khá chính xác để thực hiện như thế. Cho dù, chúng ta phải thêm vào rằng tổng hợp của các truyền thống Cựu Ước làm thành hình ảnh Con Người của Đức Giêsu vẫn còn bao gồm nhiều hơn, và đem nhiều phẩn tử và nhiều luồng của truyền thống Cựu Ước lại chung với nhau.

Trước hết, câu trả lời của Đức Giêsu về câu hỏi có phả Ngài là Đấng Messiah, người Con được Chúc lành hay không, phối hợp Đaniel 7 với Thánh vịnh 110 lại với nhau: Đức Giêsu trình bày chính Ngài là Đấng ngồi “bên tay phải của Đấng Quyền Năng”, tương xứng với những gì Thánh vịnh tiên báo về vị vua-tư tế tương lai. Hơn thế nữa, lời tiên báo thứ ba về Thương khó, đề cập đến việc các kinh sư, bô lão, và các vị thương tế loại trừ Con Người (x. Mc 8:31), trộn lẫn với đoạn văn của Thánh vịnh 118:32 liên quan đến viên đá người thợ xây loại bỏ đã trở nên tảng đá góc tường. Điều này cũng triển khai một nối kết với dụ ngôn về những người làm vườn nho bất trung, mà Chúa đã nêu ra những lời này để tiên báo về sự loại trừ Ngài, sự Sống lại của Ngài và sự hiệp nhất mới sẽ theo sau. Nối kết này với dụ ngôn cũng làm sáng tỏ căn tính giữa “Con Người” và “người Con yêu dấu” (Mc 12:1-12). Cuối cùng, Văn chương Khôn ngoan cung cấp nhiều luồng khác hiện diện chỗ này. Chương thứ hai của sách Khôn ngoan miêu tả sự thù hằn của “kẻ vô đạo” chống lại người công chính: “Nó huênh hoang vì có Thiên Chúa là Cha. … Nếu tên công chính là con Thiên Chúa, … Nào ta kết án cho nó chết nhục nhã” (Kn 2:16-20). V. Hampel cho rằng những lời của Đức Giêsu về “sự chuộc đền cho nhiều người” không xuất phát từ Isaiah 53:10-12, nhưng đến từ Châm ngôn 21:18 và Isaiah 43:3 (Schnackenburg trích dẫn trong Đức Giêsu trong các Tin Mừng, tr. 59). Theo tôi, điều này không chắc lắm. Điểm quy chiếu thật sự là và vẫn là Isaiah 53. Những bản văn khác chỉ cho thấy rằng quan điểm nền tảng có thể nối kết với một lãnh vực bao quát về nhiều quy chiếu.

Đức Giêsu đã sống bằng toàn thể Lề luật và các Ngôn sứ, như Ngài luôn luôn nói với các môn đệ của Ngài. Ngài xem hữu thể và hoạt động riêng của Ngài như sự thống nhất và giải thích về cái “toàn thể” này. Sau này, Gioan diễn tả điểm này trong lời mở đầu của mình, nơi đó, thánh nhân viết rằng chính Đức Giêsu là “Ngôi Lời”. Cách Phaolô sắp xếp điều này là “Đức Giêsu là ‘Lời Xin Vâng’ với tất cả những gì Thiên Chúa đã hứa” (x. 2Cor 1:20). Thuật ngữ bí ẩn “Con Người” trình bày cho chúng ta trong hình thức tập trung với tất cả những gì nguyên thủy và đặc thù nhất về nhân vật Giêsu, sứ mạng và hữu thể của Ngài. Ngài đến từ Thiên Chúa và Ngài là Thiên Chúa. Nhưng cách chính xác, đó là những gì làm cho Ngài, đã nhận lấy bản chất con người, người mang lại bản chất đích thực của loài người.

Dựa theo thư gởi cho Do thái, Ngài nói với Cha Ngài rằng: “Chúa … đã tạo cho con một thân thể” (Dt 10:5). Trong lời nói này, Ngài biến đổi một trích dẫn từ Thánh vịnh nói rằng: “Chúa …đã mở tai con” (Tv 40:6). Trong bối cảnh của Thánh vịnh, điều này có nghĩa là sự vâng phục đem lại sự sống, nói lời Xin Vâng cùng Lời Chúa, không cần lễ vật toàn thiêu và lễ vật đền tội. Giờ đây, chính Đấng là Ngôi Lời nhận lấy xác thể, Ngài đến từ Thiên Chúa như một con người, và đem toàn thể hữu thể người đến cùng chính Ngài, mang hữu thể này vào trong Lời Chúa, làm cho hữu thể người thành “đôi tai” cho Thiên Chúa và vì thế, “vâng phục”, hòa giải giữa Chúa và người (2Cor 5:18-20). Vì Ngài hoàn toàn tự hiến cho vâng phục và tình yêu, yêu cho đến chết (x. Ga 13:10), chính Ngài trở nên “lễ vật” đích thực. Ngài đến từ Thiên Chúa và vì thế, thành lập một hình thức đích thực cho hữu thể người. Như Phaolô nói, trong khi con người đầu tiên đã là và là đất, Ngài là con người thứ nhì và cuối cùng (tuyệt đối), con người “trên trời”, “thần khí ban-sự sống” (1Cor 15:45-49). Ngài đến, và đồng thời, Ngài là “Vương quốc” mới. Ngài không chỉ là một cá nhân, nhưng Ngài còn làm cho tất cả chúng ta thành “một con người duy nhất” (Gl 3:28) với chính Ngài, một nhân loại mới.

Những gì Đaniel thoáng thấy từ xa như một tập thể (“như một Con Người”), giờ đây, trở thành một con người, nhưng con người này, hiện diện như người là cho “nhiều người”, siêu việt những giới hạn của cá nhân và nhận lấy “nhiều người”, trở nên “một thân thể và là một tinh thần” (x. 1Cor 6:17) với nhiều người. Đây là cuộc đời làm môn đệ mà Ngài mời gọi chúng ta: Chúng ta nên để cho chính chúng ta được đem vào trong con người mới của Ngài và từ đó, vào trong hiệp thông với Thiên Chúa. Một lần nữa, chúng ta hãy nghe những gì Phaolô đã nói về điều này: “Những kẻ (con người đầu tiên, Ađam) thuộc về đất, thì giống như kẻ bởi đất mà ra; còn những kẻ thuộc về trời, thì giống như Đấng từ trời mà đến” (x. 1Cor 15:48).

Danh xưng “Con Người” tiếp tục được áp dụng riêng cho Đức Giêsu, nhưng cái nhìn mới về sự duy nhất giữa Thiên Chúa và con người mà danh xưng này diễn đạt, được tìm thấy trong toàn bộ Tân Ước và tạo hình cho danh xưng này. Nhân loại mới đến từ Thiên Chúa, là những gì mà một môn đệ của Đức Giêsu phải trở nên.


Каталог: wp-content -> uploads -> downloads -> 2011
2011 -> CÔng đỒng vatican II qua bốn thập niêN
2011 -> TÒa giám mục xã ĐOÀi chỉ nam giáo phận vinh lưỢC ĐỒ TỔng quáT
2011 -> 1. phép lạ thánh thể ĐẦu tiên khoảng năm 700 Tại làng Lanciano, nước Ý (italy)
2011 -> Thiên chúa giáo và tam giáO Đường Thi Trương Kỷ
2011 -> Tác giả Võ Long Tê chưƠng I bối cảnh lịch sử
2011 -> LỊch sử truyền giáo tại việt nam quyển II lm. Nguyễn hồng chưƠng I: MỘt cha dòng têN Ở việt nam tới rôMA
2011 -> Các mẫu thức MẠc khải lm. Lê Công Đức
2011 -> Một lời nói đầu không phải là nơi nhiều chỗđể tóm lược lập luận của một cuốn sách cũng như định vị hoặc phát biểu về sựquan trọng của nó. Đây quả thực là một cuốn sách rất quan trọng
2011 -> Tu luật thánh biểN ĐỨc ngày 1 tháng 1

tải về 1.5 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương