LỜi giới thiệu suy tư ban đẦu về MẦu nhiệm giêSU


Tác giả: Joseph Ratzinger (ĐGH Bênêđictô XVI)



tải về 1.5 Mb.
trang2/19
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích1.5 Mb.
#13722
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   19

Tác giả: Joseph Ratzinger (ĐGH Bênêđictô XVI)
CHƯƠNG I : ĐỨC GIÊSU NHẬN PHÉP RỬA
Chương một

ĐỨC GIÊSU NHẬN PHÉP RỬA

Hoạt động công khai của Đức Giêsu bắt đầu với việc Ngài nhận Phép Rửa từ Gioan Tẩy giả tại sông Giođan. Trong khi Mátthêu chỉ đưa ra biểu thị mang tính công thức về ngày tháng của biến cố này, “hồi ấy”, Luca cực kỳ thận trọng đặt biến cố này vào trong bối cảnh bao quát hơn trong lịch sử trần thế, nhờ đó, cho phép chúng ta ấn định một thời điểm chính xác cho biến cố này. Như thế, Mátthêu cung cấp một loại ngày tháng, trong ngày tháng này, Mátthêu đặt cây gia tộc của Đức Giêsu vào ngay khi bắt đầu Tin Mừng của thánh nhân. Gia phả này sắp xếp để cho thấy trực hệ từ Apraham đến Đavít và trình bày Đức Giêsu như người thừa kế cho cả lời hứa cho Ápraham và sự đảm bảo Thiên Chúa dành cho Đavít, cho những ai Chúa đã hứa nước trời vĩnh cửu, vượt qua mọi tội lỗi của Israel và tất cả mọi trừng phạt của Thiên Chúa. Khi cây gia tộc trình bày điểm này, lịch sử được chia thành ba giai đoạn và mỗi giai đoạn gồm mười bốn đời. Con số mười bốn có giá trị toán học thuộc về tên của Đavít. Lịch sử mà cây gia tộc ghi lại, được phân chia từ thời Ápraham đến Đavít, thời kỳ từ Đavít đến thời lưu đày Babylon, và một thời kỳ mười bốn đời thêm vào sau. Chính sự kiện còn có mười bốn thế hệ khác nữa đã trôi qua cho thấy rằng, thời gian của vị vua Đavít cuối cùng, thời gian của đổi mới vương quốc Đavít là sự thiết lập Triều đại Thiên Chúa, giờ đây đã đến.

Trong khi người ta mong chờ từ tác giả Phúc Âm Mátthêu gốc Do thái Kitô, cây gia tộc này cũng là gia phả của lịch sử cứu độ Do thái, hầu đưa ra một quan điểm gián tiếp về lịch sử thế gian, như vương quốc Đavít cuối cùng, trở thành Vương quốc Thiên Chúa, đương nhiên, liên quan đến thế giới như một tổng thể. Chính vì thế, thời điểm thật vẫn còn mơ hồ. Dĩ nhiên, điều này cũng liên quan đến sự kiện cho rằng những thế hệ này ít lệ thuộc vào bất cứ sơ đồ lịch sử nào hơn là vào ba giai đoạn của lời hứa và như thế, không có ý định triển khai một niên đại cách chính xác.

Ở đây, chúng ta hãy quan sát điểm bắt đầu vì Luca đã không đặt gia phả của Đức Giêsu ngay tại phần đầu Tin Mừng, nhưng lại nối kết gia phả này với câu chuyện Đức Giêsu nhận Phép Rửa, qua đó, làm thành một kết luận. Luca kể lại cho chúng ta rằng vào thời điểm này, Đức Giêsu khoảng ba mươi tuổi, nghĩa là, Ngài đã tới tuổi có quyền để hoạt động công khai. Ngược lại với Mátthêu, Luca dùng gia phả của mình để đi từ Đức Giêsu trở về lại trong lịch sử quá khứ. Ápraham và Đavít xuất hiện, nhưng không có điểm nhấn đặc biệt nào cả. Cây gia tộc trở về lại Ađam, và vì thế, về lại sáng tạo, vì có một lần Luca đi đến tên Ađam, Luca thêm vào “của Thiên Chúa”. Đây là cách thức nhấn mạnh đến tầm mức phổ quát trong sứ vụ rao giảng của Đức Giêsu. Ngài là con của Ađam, con cái loài người. Vì Ngài là con người, tất cả chúng ta thuộc về Ngài và Ngài thuộc về chúng ta. Trong Ngài, nhân loại bắt đầu lại và đạt tới cùng đích của mình.

Chúng ta hãy trở lại với Gioan Tẩy giả. Luca đã cung cấp hai quy chiếu thời gian quan trọng trong trình thuật thời thơ ấu. Tính lại thời điểm bắt đầu cuộc đời của vị Tẩy giả, Luca kể cho chúng ta rằng việc ấy đã xảy ra vào “thời vua Hêrôđê, cai trị miền Giuđê” (Lc 1:5). Vì thế, quy chiếu thời gian trong trường hợp của vị Tẩy giả vẫn nằm trong phạm vi lịch sử Do thái. Ngược lại, câu chuyện thời thơ ấu của Đức Giêsu bắt đầu với câu “thời ấy, hoàng đế Augúttô ra chiếu chỉ” (Lc 2:1). Đại diện bởi Đế quốc Roma, lịch sử thế giới bao quát hơn làm thành hậu cảnh.

Luca dùng lại mạch văn này khi Luca giới thiệu câu chuyện vị Tẩy giả, đánh dấu thời điểm Đức Giêsu bắt đầu hoạt động cách công khai. Ngay tại điểm này, Luca kể lại cho chúng ta cách trân trọng và chính xác là vào “năm thứ mười lăm dưới thời hoàng đế Tibêriô, thời Phongxiô Philatô, làm tổng trấn miền Galilê, người em là Philípphê làm tiểu vương miền Iturê và Trakhônít, Lyxania làm tiểu vương miền Abilên, Khana và Caipha làm thượng tế” (Lc 3:1-2). Một lần nữa, việc nhắc lại hoàng đế Roma được dùng để chỉ đến vị trí niên đại của Đức Giêsu trong lịch sử thế giới. Chúng ta không có ý muốn nói về hoạt động của Đức Giêsu như đang xảy ra trong thể loại “bất cứ lúc nào” mang tính thần thoại, có thể nghĩa là, luôn luôn hay không bao giờ. Đây là biến cố lịch sử có ngày tháng chính xác tầm quan trọng trọn vẹn mà những gì xảy ra trong lịch sử thật đều có. Cũng như những gì xảy ra trong lịch sử, biến cố này chỉ xảy ra một lần. Biến cố này cùng thời với mọi thời, nhưng không theo cách thức là một thần thoại phi thời gian.

Nhưng điểm nhấn không chỉ về thời gian: Vị hoàng đế và Đức Giêsu đại diện cho hai trật tự khác nhau của thực tại. Cả hai không loại trừ nhau, nhưng cuộc hội ngộ của cả hai có khả năng làm nổ tung sự mâu thuẫn có liên hệ mật thiết đến những vấn nạn cơ bản về nhân loại và về hiện hữu con người. Về sau, Đức Giêsu nói “của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mc 12:17), là cách thức diễn đạt tính tương hợp nền tảng của cả hai lãnh vực. Nhưng khi hoàng đế tự giải thích quyền thế của mình như của một vị chúa, ví dụ như khi Augúttô tuyên bố là người đem lại hoà bình cho thế giới và cứu độ nhân loại, như thế, người Kitô hữu phải “vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5:29). Kể đó, việc những người Kitô hữu trở thành “tử đạo” để làm chứng cho Đức Kitô, vì chính Ngài là “nhân chứng trung thành” đã chết trên Thập giá dưới thời quan Phongxiô Philatô (Kh 1:5). Luca đề cập đến Phongxiô Philatô cho thấy hình bóng của Thập giá ngay từ lúc Đức Giêsu bắt đầu cuộc đời hoạt động công khai. Những tên tuổi như Hêrôđê, Anna, Caipha cũng tiên báo trước Thập giá.

Nhưng một điểm khác sáng tỏ qua sự kiện Luca liệt kê bên cạnh hoàng đế và các quận vương là việc Đất thánh bị phân chia. Tất cả những ông hoàng này lệ thuộc vào Roma ngoại giáo. Vương quốc Đavít tan rát ra từng mảnh, “lều” của Đavít hư hại (x. Am 9:11 tt). Miêu duệ Đavít, người cha hợp pháp của Đức Giêsu, là một bác thợ mộc trong một tỉnh lỵ có nửa ngoại giáo thuộc Galilê. Một lần nữa, Israel đang sống trong bóng tối vì thiếu vắng sự hiện diện của Chúa. Thiên Chúa im lặng, dường như quên đi những lời hứa với Ápraham và Đavít. Lời than khóc ngày xưa được nghe lại một lần nữa: Chúng tôi chẳng còn có ngôn sứ nào cả, dường như Thiên Chúa đã bỏ dân Người. Vì chính lý do này, miền đất tràn ngập sự lo âu.

Những phong trào đối lập, những niềm hy vọng và mong chờ đã định hình xu hướng chính trị và tôn giáo. Vào khoảng thời gian Đức Giêsu sinh ra, Giuđê người Galilê đã kêu gọi cuộc nổi dậy, nhưng bị người Roma đập tan với cuộc thảm sát đẫm máu. Giuđê để lại một đảng phái, nhóm Zealot. Nhóm này đã sửa soạn tổ chức lại để khủng bố và dùng bạo lực phục hồi tự do cho Israel. Có khả năng một hay hai môn đệ trong nhóm Mười Hai Tông đồ của Đức Giêsu, Simon Nhiệt thành và có lẽ Giuđa Ítcariốt, đã từng là thành viên của phong trào này. Người Pharisêu mà chúng ta thường gặp trong các Tin Mừng, đã nỗ lực sống theo những hướng dẫn của luật Torah cách cực kỳ chính xác nhất. Họ cũng chối từ tuân theo sự lãnh đạo của nền văn hoá Hy lạp-La mã, cách tự nhiên đã tự áp đặt trong khắp đế quốc La mã, và giờ đây, nền văn hoá này đang gây áp lực buộc Israel đồng hoá với cách sống của dân ngoại. Đa số nhóm Sađốc thuộc về tầng lớp quí tộc và giới thượng tế, đã cố gắng thực hành Do Thái giáo, thức thời với hoàn cảnh này, và cũng thỏa hiệp với thống trị La mã. Sau khi Giêrusalem bị tàn phá (A.D. 70), nhóm Sađốc biến mất, trong khi đó, mô hình cuộc sống mà nhóm Pharisêu thực hành lại tìm ra hình thức vững bền theo cách thức của Do Thái giáo do Mishnah và Talmud định hình. Mặc dầu chúng ta quan sát thấy sự đối lập giữa Đức Giêsu và người Pharisêu trong các Tin Mừng, và cho dù cái chết của Ngài trên Thập giá cực kỳ phản kháng với chủ trương của nhóm Zealot, chúng ta nên nhớ rằng dân chúng đến với Đức Kitô thuộc đủ mọi thành phần và cộng đoàn Kitô tiên khởi bao gồm một số thượng tế và cựu Pharisêu.

Sau Thế chiến Thứ hai, một khám phá tình cờ dẫn đến những cuộc khai quật tại Qum-ran, đưa các bản văn ra ánh sáng mà một số học giả cho là liên quan đến một phong trào khác, cho đến nay chỉ được biết đến qua những tham khảo văn chương: Được gọi là nhóm Essenes. Nhóm này chống lại đền thờ Hêrôđê và phụng tự đền thờ để rút lui vào trong hoang địa Giuđê. Ở đây, họ thành lập những cộng đoàn theo kiểu đan tu, nhưng cũng có một đời sống chung cho những gia đình có động lực tôn giáo. Họ cũng thành lập một trung tâm văn chương phong phú và lập nên những nghi thức khác biệt, bao gồm cả nghi thức tẩy rửa và những lời nguyện chung. Lòng mộ đạo sốt sắng trong các bản văn Qum-ran đang chuyển động. Điều này tho thấy, không chỉ Gioan Tẩy giả, nhưng có thể cả Đức Giêsu và gia đình của Ngài, rất gần gũi với cộng đoàn Qum-ran. Dù sao đi nữa, trong các bản văn Qum-ran có khá nhiều điểm tiếp cận với sứ điệp Kitô. Một giả thuyết hợp lý cho rằng Gioan Tẩy giả đã sống trong cộng đoàn này một thời gian và đã nhận được một phần huấn luyện tôn giáo của mình trong cộng đoàn này.

Thế nhưng việc xuất hiện của vị Tẩy giả trong cảnh này là điều hoàn toàn mới mẻ. Phép Rửa mà ông thi hành hoàn toàn khác với sự tẩy rửa tôn giáo thông thường. Phép Rửa này không thể lập lại và có nghĩa là một sắc lệnh cụ thể về việc hoán cải ban ra một hướng đi mới muôn đời cho toàn thể cuộc đời. Phép Rửa này nối kết với lời mời gọi mãnh liệt, dẫn đến cách thức suy nghĩ và hành động mới, nhưng trên hết tất cả, với lời công bố về sự phán xét của Thiên Chúa và với lời tuyên bố về một Đấng lớn hơn Gioan sẽ đến. Tin Mừng thứ tư cho chúng ta biết rằng Vị Tẩy giả “không biết” nhân vật lớn hơn này (x. Ga 1:30-31) mà ông đang dọn đường. Nhưng vị Tẩy giả biết vai trò của mình là dọn đường cho Đấng khác bí nhiệm, mà toàn thể sứ mạng của ông đều hướng về Ngài.

Cả bốn Tin Mừng diễn tả sứ mạng này trong việc dùng đoạn văn của Isaiah “Có tiếng hô: ‘Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta” (Is 40:23). Máccô thêm vào tài liệu của Malakhi 3:1 và Xuất hành 23:20. Tư liệu này được lặp lại ở một chỗ khác nhau trong Mátthêu (Mt 11:10), và cũng như trong Luca (Lc 1:76 và 7:27). “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con” (Mc 1:2). Tất cả những bản văn Cựu Ước này nhìn thấy trước sự can thiệp cứu độ của Thiên Chúa, Đấng hiện đến từ nơi ẩn mình để phán xét và để cứu độ. Để cho vị Chúa này mà cánh cửa đã mở ra và con đường sẵn sàng. Những lời hy vọng thuở xưa được đem vào trong hiện tại với lời rao giảng của vị Tẩy giả: Những việc vĩ đại sẽ được mở ra.

Chúng ta có thể tưởng tượng ra ấn tượng khác thường mà nhân vật và sứ điệp của Gioan Tẩy giả đã tạo ra trong bầu khí cao điểm tại Giêrusalem vào thời điểm lịch sử đặc biệt đó. Cuối cùng, lại có một một ngôn sứ và cuộc đời của ông đánh dấu như thế. Rốt cuộc, bàn tay Thiên Chúa đang hành động cách rõ rệt một lần nữa. Gioan rửa bằng nước, nhưng Đấng cao trọng hơn sẽ rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa. Đấng ấy đã đứng trước cửa rồi. Qua tất cả những điều này, tuyệt đối không có lý do gì để giả định rằng Máccô cường điệu lên khi tường trình rằng “mọi người từ khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem kéo đến với ông. Họ thú tội và ông làm phép rửa cho họ” (Mc 1:5). Phép Rửa của Gioan bao gồm việc xưng thú tội lỗi. Do Thái giáo thời đó quen thuộc với cả hai, lời xưng thú tội lỗi mang tính công thức chung hơn và việc thực hành xưng thú mang tính cá nhân cao, trong đó kỳ vọng đến việc liệt kê ra những hành vi tội lỗi cá nhân (Gnilka, Matthäusevangelium I, tr. 68). Mục đích thật sự là từ bỏ cuộc sống tội lỗi mà cá nhân đã sống đến bây giờ và bắt đầu một hành trình hướng đến một cuộc sống mới và thay đổi.

Nghi thức thực sự của Phép Rửa biểu tượng điều này. Một mặt, việc nhận chìm vào trong nước là biểu tượng sự chết, gợi nhớ lại biểu tượng chết chóc thuộc về quyền năng tiêu huỷ và tàn phá của lũ lụt đại dương. Lý trí thời xưa quan niệm đại dương như sự đe doạ thường xuyên tới vũ trụ, tới trái đất. Trận lụt thời nguyên thủy đã nhấn chìm tất cả sự sống. Dòng sông (Giođan) cũng có thể nhận lấy giá trị biểu tượng này cho những ai được nhận chìm trong đó. Nhưng trên hết tất cả, dòng chảy của con sống là một biểu tượng sự sống. Những dòng sông lớn như Nile, Euphrates và Tigris, là những người ban phát sự sống cách vĩ đại. Cả đến ngày nay, dòng sông Giođan cũng là nguồn sự sống cho các miền phụ cận. Nhận chìm vào trong nước nói lên sự thanh tẩy, sự giải thoát khỏi dơ bẩn của quá khứ đã đè nặng và bóp méo cuộc sống. Nhận chìm vào nói về sự bắt đầu lần nữa, có nghĩa là về chết đi và sống lại, về bắt đầu lại cuộc sống lần nữa. Như thế, chúng ta có thể nói rằng đây là sự tái sinh. Tất cả việc này phải chờ đợi đến nền thần học phép rửa của Kitô được khai triển cách rõ ràng, nhưng hành động đi xuống sông Giođan và đi lên ra khỏi nước đã hàm chứa những triển khai sau.

Như chúng ta vừa nghe, toàn thể Giuđê và Giêrusalem đã lũ lượt kéo đến để chịu phép rửa. Nhưng giờ đây, một điều mới xảy ra. “Hồi ấy, Đức Giêsu từ Nadarét miền Galilê đến, và được ông Gioan làm phép rửa dưới sông Giođan” (Mc 1:9). Đến bây giờ chưa nói gì về những khách hành hương đến từ Galilê. Hình như hành động này chỉ giới hạn tại vùng Giuđê. Nhưng sự khác biệt thật sự ở đây không phải là sự kiện Đức Giêsu xuất thân từ địa dư khác, như thế từ một miền đất xa xôi. Sự khác biệt thật là sự kiện Đức Giêsu muốn nhận phép rửa để Ngài hoà nhập với đám đông tội nhân đang chờ trên bờ sông Giođan. Chúng ta vừa nghe thấy việc xưng thú tội lỗi là một yếu tố của Phép Rửa. Chính Phép Rửa là lời xưng thú tội lỗi và là nỗ lực từ bỏ đời sống hư hỏng cũ và nhận lấy đời sống mới. Đức Giêsu có thể làm những điều này hay không? Làm sao Ngài có thể xưng thú tội lỗi? Làm thế nào Ngài có thể tách chính Ngài ra khỏi cuộc sống trước đó, để có thể bắt đầu một cuộc sống mới? Người Kitô hữu không thể tránh né câu hỏi này. Mátthêu ghi lại cuộc tranh luận giữa vị Tẩy giả và Đức Giêsu cho chúng ta, cũng để diễn đạt về câu hỏi riêng của các Kitô hữu tiên khởi cho Đức Giêsu. “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” (Mt 3:14). Mátthêu tiếp tục tường thuật lại cho chúng ta rằng “Đức Giêsu trả lời: ‘Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính’. Bấy giờ ông Gioan mới chiều theo ý Người” (Mt 3:15).

Không dễ gì giải mã ý nghĩa của câu trả lời nghe như lời ẩn này. Dù sao chăng nữa, từ ngữ Hy lạp “bây giờ, ártis” hàm chứa một số hạn chế: Đây là hoàn cảnh tạm thời và đặc biệt đòi hỏi cách thức hành động đặc biệt. Chìa khóa để giải thích câu trả lời của Đức Giêsu là chúng ta hiểu từ công chính, righteousness như thế nào: Toàn thể sự công chính phải được hoàn tất. Trong thế giới của Đức Giêsu, công chính là câu trả lời của con người đối với luật Torah, hoàn toàn chấp nhận ý Thiên Chúa, mang lấy “ách của Nước Thiên Chúa”, như một công thức đưa ra. Không có sự chuẩn bị cho Phép Rửa của Gioan trong luật Torah, nhưng câu trả lời này của Đức Giêsu là con đường Ngài thừa nhận Phép Rửa như một diễn đạt về tiếng Xin Vâng vô hạn tới ý của Thiên Chúa, như sự chấp nhận vâng phục ách của Người.

Hành động đi xuống vào trong nước của Phép Rửa này hàm chứa lời xưng thú lỗi lầm và khẩn xin sự tha thứ để thực hiện một bắt đầu mới. Như thế, trong một thế giới đóng ấn bởi tội lỗi, lời Xin Vâng tới toàn thể ý của Thiên Chúa cũng diễn tả sự liên đới với con người đã phạm tội nhưng khao khát sự công chính. Ý nghĩa của biến cố này không nổi bật cách trọn vẹn, cho đến khi được nhìn dưới ánh sáng của Thập giá và Sống lại. Đang khi bước xuống nước, các dự tòng cho Phép Rửa xưng thú tội lỗi của họ và tìm cách loại bỏ gánh nặng tội lỗi của họ. Đức Giêsu đã làm gì trong cùng trường hợp như thế? Xuyên suốt Tin Mừng của mình, Luca đã chú trọng đến việc cầu nguyện của Đức Giêsu và mô tả Ngài cầu nguyện nhiều lần, trong đối thoại với Chúa Cha. Luca kể cho chúng ta rằng đang khi cầu nguyện, Đức Giêsu đã nhận Phép Rửa (x. Lc 3:21). Nhìn các biến cố này trong ánh sáng Thập giá và Sống lại, người Kitô hữu nhận ra những gì đã xảy ra: Đức Giêsu đã gánh lấy mọi tội lỗi của con người trên vai mình. Ngài đã mang những tội lỗi này xuống vào trong sâu thẳm của Giođan. Ngài đã khai mạc hoạt động công khai của mình, bằng cách bước vào trong chỗ đứng của tội nhân. Cung cách khai mở của Ngài là sự tiên báo về Thập giá. Ngài là Giôna thật đã nói với các thủy thủ trên tàu “Hãy đem tôi ném xuống biển” (Gn 1:12). Toàn thể ý nghĩa của việc Đức Giêsu nhận Phép Rửa, chi tiết Ngài mang “tất cả sự công chính”, trước tiên đến từ ánh sáng của Thập giá. Phép Rửa là sự chấp nhận cái chết vì tội lỗi nhân loại, và có tiếng phán ra rằng “Đây là Con Ta yêu dấu” trên nước rửa là lời ám chỉ tiên báo đến sự Sống lại. Điều này cũng giải thích tại sao trong chính những diễn từ của riêng Ngài, Đức Giêsu lại dùng từ phép rửa để nói về cái chết của Ngài (x. Mc 10:38; Lc 12:50).

Chỉ từ điểm xuất phát này, chúng ta mới có thể hiểu Phép Rửa Kitô. Phép Rửa của Đức Giêsu tiên báo trước cái chết của Ngài trên Thập giá, và tiếng nói từ trời tiên báo về sự Sống lại. Giờ đây, những lời tiên báo này đã trở thành thực tại. Phép Rửa bằng nước của Gioan đã nhận được ý nghĩa trọn vẹn qua Phép Rửa của chính cuộc đời và cái chết của riêng Đức Giêsu. Giờ đây, việc chấp nhận lời mời gọi chịu phép rửa có nghĩa là đi đến nơi Đức Giêsu chịu Phép Rửa. Đó là đi đến nơi nào Ngài đồng nhất chính Ngài với chúng ta và từ chỗ đó, chúng ta nhận lãnh căn tính của chúng ta với Ngài. Tiếp điểm nơi Ngài tiên báo trước cái chết của Ngài, giờ đây trở thành tiếp điểm nơi chúng ta tiên báo tái sinh lại với Ngài. Phaolô triển khai nối kết nội tại này trong nền thần học Phép Rửa của ngài (x. Rm 6), cho dù không nhắc đến Phép Rửa của Đức Giêsu tại Giođan cách rõ ràng.

Giáo Hội Đông phương khai triển rộng hơn và đi sâu vào trong tư duy này về Phép Rửa của Đức Giêsu trong nền phụng vụ và trong nền thần học icon của mình. Giáo Hội Đông phương nhận ra nối kết sâu xa giữa nội dung lễ Hiển linh (tiếng nói từ trời tuyên bố Đức Giêsu là Con Thiên Chúa: Vì đối với Đông phương, lễ Hiển linh là ngày của Phép Rửa) với Phục sinh. Đông phương nhận ra nhận xét của Đức Giêsu về Gioan rằng “Vì chúng ta nên làm như vậy để giúp trọn đức công chính” (Mt 3:15) như việc tiên báo về lời nguyện của Ngài với Chúa Cha trong vườn Ghếtsêmani: “Lạy Cha, … xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26:39). Những thánh thi trong phụng vụ của ngày mồng 3 tháng Giêng phù hợp với những thánh thi của ngày thứ Tư Tuần thánh. Những thánh thi của ngày mồng 4 tháng Giêng tương ứng với các thánh thi trong ngày thứ Năm Tuần thánh. Các thánh thi của ngày mồng 5 tháng Giêng phù hợp với các thánh thi ngày thứ Sau và thứ Bảy Tuần thánh.

Truyền thống hình tượng chọn những tương ứng này. Icon về Phép Rửa của Đức Giêsu miêu tả nước như ngôi mộ thuộc tinh thể lòng có hình dáng một hang động tối tăm. Hang động này là dấu chỉ hình tượng âm phủ, thế giới bên dưới hay hoả ngục. Đức Giêsu đi xuống trong ngôi mộ nước này, vào trong địa ngục này gói Ngài lại từ mọi góc cạnh, vì thế, là sự tiên báo trước hành động của Ngài đi vào trong thế giới âm ti. Thánh Cyril thành Giêrusalem nói rằng “Khi Ngài đã vào trong nước, Ngài đã bỏ lại con người mạnh mẽ” (x. Lc 11:22). Thánh Gioan Chrysostom viết “Đi xuống nước và lại trở lên là hình ảnh việc đi vào trong hoả ngục và Sống lại”. Thánh thi ngắn trong nền Phụng vụ Byzantine đã thêm vào một nối kết biểu tượng khác. “Áo choàng của Elisha đã quay lưng lại Giođan và nước bị phân rẽ để lại một con đường khô ráo. Đây là hình ảnh thật của Phép Rửa, nhờ đó, chúng ta vượt qua cuộc sống” (Evdokimov, The Art of the Icon, tr. 296).

Kế đến, Phép Rửa của Đức Giêsu được nhấn mạnh như sự lặp lại toàn thể lịch sử, vừa tóm tắt quá khứ và vừa tiên báo tương lai. Việc Ngài đi vào trong tội lỗi của người khác là việc đi xuống “âm phủ”. Nhưng Ngài không đi xuống trong vai trò một khán giả, như trong Âm Phủ của Dante. Đúng hơn, Ngài đi xuống trong vai trò của Đấng chịu đau khổ với người khác. Việc đi xuống là đau khổ đang được biến đổi và quay thế giới bên dưới trở lại, phá đổ và đẩy tung cửa địa ngục. Phép Rửa của Ngài là việc đi xuống để vào trong căn nhà của ma quỷ, chiến đấu với “người mạnh thế”. Nó bị đánh bại và trói buộc bởi Đấng mạnh hơn, vì Đấng này ngang hàng với Thiên Chúa, Đấng này có thể nhận lấy mọi tội lỗi của thế gian và kế đến, chịu đau khổ với tội lỗi cho đến cùng, không bỏ sót điều gì trên con đường đi xuống để đồng nhất với con người sa ngã. Cuộc chiến đấu này là sự “hoán cải” hữu thể để đem nó vào trong một điều kiện mới, để sửa soạn một trời mới và đất mới. Nhìn từ góc độ này, bí tích Phép Rửa tỏ hiện như ân huệ tham dự vào trong cuộc chiến đấu-đang biến đổi-thế giới của Đức Giêsu, vào trong việc hoán cảnh đời sống đã xảy ra trong việc Ngài đi xuống và đi lên.

Cách giải thích mang tính giáo hội và việc đọc lại biến cố Phép Rửa của Đức Giêsu có đem chúng ta đi quá xa khỏi Sách thánh hay không? Thật hữu ích khi lắng nghe Tin Mừng thứ bốn trong bối cảnh này. Theo Gioan, khi vị Tẩy giả vừa thấy Đức Giêsu, ông nói “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian” (Ga 1:29). Những lời này được nói lên trước việc phân phát Thánh thể trong Phụng vụ Roma, đã trở nên cơ hội cho khá nhiều thắc mắc. “Chiên Thiên Chúa” có ý nghĩa gì? Tại sao Đức Giêsu được gọi là Con Chiên? Tại sao Con Chiên này gánh lấy tội trần gian, làm biến mất mọi tội lỗi như cướp chúng khỏi bất cứ bản thể hay thực tại nào?

Chúng ta tri ân công việc của Joachim Jeremias, nhờ đó, chúng ta có chìa khoá để hiểu những lời này cách chính xác và xem những lời này, cả từ quan điểm lịch sử, như những lời đích thực của chính vị Tẩy giả. Trước hết, những lời này bao gồm hai ám chỉ đồng nhất từ Cựu Ước. Bài ca về Người Tôi Tớ Đau khổ trong Isaiah so sánh Người Tôi Tớ Đau khổ của Thiên Chúa với Con Chiên bị dẫn đi sát tế. “Như cừu câm nín khi bị xén lông, Người chẳng hề mở miệng” (Is 53:7). Quan trọng hơn thế nữa, Đức Giêsu chịu đóng đinh trong ngày lễ Vượt qua, và từ lúc đó trở đi, Đức Giêsu xuất hiện như Con Chiên Vượt qua đích thật, trong Con Chiên này đã hoàn tất ý nghĩa về con chiên Vượt qua trong thời Xuất hành khỏi Ai cập: Sự giải thoát khỏi quyền thống trị của sự chết tại Ai cập và mở ra cho cuộc Xuất hành, cho hành trình vào trong tự do của lời hứa. Trong ánh sáng Phục sinh, biểu tượng con chiên này nhận lấy tầm quan trọng nền tảng để hiểu Đức Kitô. Chúng ta tìm thấy ý nghĩa này trong Phaolô (x. 1Cor 5:7), trong Gioan (x. Ga 19:36), trong thư thứ nhất của Phêrô (x. 1Pr 1:19), trong sách Khải huyền (ví dụ Kh 5:6).

Jeremias đưa ra một nhận xét khác cho rằng từ talia trong Do thái vừa có nghĩa “con chiên” và vừa có nghĩa “con trai” hay “tôi tớ” (TDNT, I, tr. 339). Như thế, trong ví dụ đầu tiên, có thể vị Tẩy giả muốn ám chỉ đến Tôi Tớ của Chúa mang lấy tội lỗi của thế gian qua việc đền tội đã được uỷ nhiệm. Nhưng ám chỉ này cũng xác nhận Ngài là Con Chiên Vượt qua đích thật đã chuộc đền và xoá đi tội lỗi trần gian. “Đấng Cứu Thế đang chết trên Thập giá, đã đi vào cái chết được uỷ nhiệm cách kiên nhẫn như con chiên sát tế. Nhờ vào sức mạnh chuộc đền trong cái chết vô tội của Ngài, Ngài đã tẩy sạch… tội lỗi của toàn thể nhân loại” (TDNT, I, tr. 340). Nếu ngay giờ tột cùng khi dân Do thái chịu áp bức bên Ai cập, máu của Con Chiên Vượt qua đã trở thành chìa khóa để giải thoát dân Do thái, giờ đây, người Con đã trở thành một người tôi tớ, người chăn chiên đã trở thành con chiên, không còn chỉ thay thế cho Israel nữa, nhưng cho sự giải thoát thế gian, cho toàn thể nhân loại.

Điều này đưa chúng ta đến chủ đề quan trọng về sứ mạng phổ quát của Đức Giêsu. Israel không hiện hữu cho chính mình. Nhưng việc chọn Israel là con đường Thiên Chúa dự định để đến với tất cả mọi người. Ý tưởng phổ quát sẽ trở lại nhiều lần như hạt nhân đích thật trong sứ mạng của Đức Giêsu. Qua việc nhắc đến Con Chiên Thiên Chúa gánh tội trần gian, Tin Mừng thứ tư đặt tư tưởng này ngày từ khởi điểm trong hành trình của Đức Giêsu.

Việc nhắc đến Con Chiên Thiên Chúa giải thích Phép Rửa của Đức Giêsu, việc Ngài đi xuống để vào trong vực sâu sự chết, như là nền thần học Thập giá, nếu như chúng ta muốn diễn đạt như thế. Cả bốn Tin Mừng đều ghi lại theo cách khác nhau, khi Đức Giêsu đã đi lên từ nước, trời “xé ra” (Mc 1:10) hay “mở ra” (Mt 3:16; Lc 3:21). Thánh Thần hiện xuống trên Ngài “như chim bồ câu”. Và giữa lúc này, một tiếng nói từ trời vang lên. Theo Máccô và Luca, tiếng nói này gọi Đức Giêsu với những lời “Con là Con…” Theo Mátthêu, tiếng nói này nói về Ngài trong ngôi thứ ba, nói rằng “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3:17). Hình ảnh bồ câu có thể gợi lại trình thuật sáng tạo nói về Thần Khí bay lượn trên nước (St 1:2). Từ ngữ giống như (‘giống như bồ câu’) đề nghị một cái “mỉm cười về những gì mà cuối cùng không thể nào diễn tả được” (Gnilka, Matthäusevangelium, I, tr. 78). Cùng một tiếng nói từ trời lại vang lên một lần nữa khi Đức Giêsu biến hình, cho dù có thêm vào mệnh lệnh “Hãy nghe lời Người”. Khi chúng ta đề cập đến biến hình, chúng ta sẽ xem xét cách cẩn thận về ý nghĩa của những từ này.

Ngay lúc này, tôi chỉ muốn nhấn mạnh cách vắn tắt đến ba chiều kích của cảnh tượng này. Trước hết là hình ảnh trời mở ra: Trời mở ra trên Đức Giêsu. Sự hiệp thông ý của Ngài với Chúa Cha, sự hoàn tất của Ngài cho “tất cả công chính”, mở trời ra. Trời là nơi mà ý Thiên Chúa được hoàn tất cách tuyệt đối. Khía cạnh kế tiếp là lời tuyên bố của Thiên Chúa, của Cha về sứ mạng của Đức Giêsu. Lời tuyên bố này không giải thích về những việc Đức Giêsu làm, nhưng về Ngài là ai: Ngàingười Con yêu dấu, trong Ngài, niềm vui thiện hảo của Thiên Chúa ngừng lại. Cuối cùng, tôi muốn cho thấy rằng, trong cảnh tượng này, cùng với người Con, chúng ta hội ngộ với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi bắt đầu tỏ lộ, cho dù chiều sâu của mầu nhiệm này chỉ được mạc khải cách trọn vẹn khi hành trình của Đức Giêsu kết thúc. Vì lý do này, cho dù, có một hình cung nối liền điểm bắt đầu hành trình của Đức Giêsu với những lời khi Ngài sai các môn đệ vào trong thế gian sau khi Sống lại : “Vậy anh em hãy đi và làm cho môn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28:19). Phép Rửa mà các môn đệ của Đức Giêsu thi hành từ khi Ngài nói những lời này, là cánh cửa đi vào trong Phép Rửa của riêng Thầy, vào trong thực tại mà Ngài đã tiên báo qua phương cách của nó. Đây là con đường trở nên một người Kitô hữu.

Dư luận tổng quát của nhóm học giả tự do đã giải thích Phép Rửa của Đức Giêsu như một kinh nghiệm nghề nghiệp. Sau khi sống một cuộc sống hoàn toàn bình thường tại tỉnh lẻ Galilê, khi nhận Phép Rửa, Ngài đã có một kinh nghiệm kinh thiên động địa. Kế đó, chúng ta được nghe rằng Ngài trở nên ý thức về tương quan đặc biệt của Ngài với Thiên Chúa và sứ mạng tôn giáo của Ngài. Hơn thế nữa, sứ mạng này giả định xuất phát từ động cơ kỳ vọng đang nổi cộm trong Israel, do Gioan tái tạo lại cách sáng tạo, và từ một biến cố tình cảm mà biến cố Phép Rửa được đem vào cuộc đời của Đức Giêsu. Nhưng những tư tưởng này không có mặt trong bản văn. Tuy nhiên, nhiều kiwns thức uyên bác đã đi vào trong việc trình bày cách đọc này. Cách đọc này có bà con với “tiểu thuyết Giêsu” hơn là với cách chú giải đích thực của những bản văn. Những bản văn không mở ra cho chúng ta cửa sổ nào vào trong cuộc đời nội tâm của Đức Giêsu. Đức Giêsu đứng trên tâm lý hoá của chúng ta (Guardini, Das Wesen des Christentums). Nhưng các bản văn giúp cho chúng ta biết chắc làm thế nào Đức Giêsu nối kết với “Môsê và các Ngôn sứ”. Các bản văn giúp cho chúng ta nhận ra sự hiệp nhất nội tại trong quy trình kéo dài từ lúc đầu tiên trong cuộc đời của Ngài cho đến Thập giá và Sống lại. Đức Giêsu không xuất hiện trong vai trò của một chủ thể thiên tài dẫn đến những biến động mang tính xúc cảm, có khi thất bại và có khi thành công. Nếu đúng như thế, Ngài vẫn duy trì chỉ là một cá nhân đã sống thời xa xưa, và như thế, Ngài tách biệt với chúng ta cách triệt để bởi hố sâu ngăn cách không thể nối lại được. Thay vào đó, Ngài đứng trước chúng ta như là “người Con yêu dấu”. Một mặt, Ngài là Đấng Khác hoàn toàn, cũng như thế, Ngài cũng có thể trở thành đồng thời với tất cả chúng ta, “gần gũi” mỗi cá nhân chúng ta “hơn chúng ta gần gũi với chính chúng ta” (Thánh Augustinô, Tự Thú, III, 6, I).


Каталог: wp-content -> uploads -> downloads -> 2011
2011 -> CÔng đỒng vatican II qua bốn thập niêN
2011 -> TÒa giám mục xã ĐOÀi chỉ nam giáo phận vinh lưỢC ĐỒ TỔng quáT
2011 -> 1. phép lạ thánh thể ĐẦu tiên khoảng năm 700 Tại làng Lanciano, nước Ý (italy)
2011 -> Thiên chúa giáo và tam giáO Đường Thi Trương Kỷ
2011 -> Tác giả Võ Long Tê chưƠng I bối cảnh lịch sử
2011 -> LỊch sử truyền giáo tại việt nam quyển II lm. Nguyễn hồng chưƠng I: MỘt cha dòng têN Ở việt nam tới rôMA
2011 -> Các mẫu thức MẠc khải lm. Lê Công Đức
2011 -> Một lời nói đầu không phải là nơi nhiều chỗđể tóm lược lập luận của một cuốn sách cũng như định vị hoặc phát biểu về sựquan trọng của nó. Đây quả thực là một cuốn sách rất quan trọng
2011 -> Tu luật thánh biểN ĐỨc ngày 1 tháng 1

tải về 1.5 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương