KỲ HỌp thứ TÁM, quốc hội khóa XIII (20/10/2014 – 28/11/2014)



tải về 7.28 Mb.
trang10/101
Chuyển đổi dữ liệu19.07.2016
Kích7.28 Mb.
#2002
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   101

Trả lời: Tại công văn số 3803/BTP-VP ngày 06/9/2014

Triển khai thực hiện Nghị quyết số 67/2013/QH13 của Quốc hội, Bộ Tư pháp tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 73/QĐ-TTg ngày 13/01/2014 về Kế hoạch triển khai Nghị quyết; chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Nội vụ tổ chức Hội nghị triển khai công tác pháp chế năm 2014 để phổ biến, quán triệt Nghị quyết số 67/2013/QH13 và Quyết định số 73/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; tổ chức Đoàn công tác liên ngành kiểm tra tình hình triển khai thực hiện Quyết định số 73/QĐ-TTg tại một số Bộ, ngành; định kỳ hàng tháng, quý, 6 tháng, 01 năm báo cáo Chính phủ về tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết và công bố công khai trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ và Bộ Tư pháp... Các Bộ, ngành cũng đã ban hành kế hoạch để triển khai thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội để tổ chức triển khai thực hiện; tổ chức phổ biến, quán triệt Nghị quyết số 67/2013/QH13...

Qua theo theo dõi, Bộ Tư pháp nhận thấy, việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 67/2013/QH13 đã có kết quả thiết thực, việc ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã có nhiều chuyển biến tốt.

Tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIII, Quốc hội đã chất vấn Bộ trưởng Bộ Tư pháp về một số nhiệm vụ công tác của Bộ, ngành, trong đó có nội dung về việc triển khai Nghị quyết số 67/2013/QH13 của Quốc hội. Ngay sau phiên chất vấn, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 75/2014/QH13 ngày 24/6/2014 của Quốc hội về chất vấn và trả lời chất vấn, trong đó có nội dung “tăng cường vai trò, trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong việc đôn đốc việc xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh, giảm số văn bản nợ đọng”. Bộ Tư pháp cũng đã tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1246/QĐ-TTg ngày 24/7/2014 ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 75/2014/QH13 và đang tiếp tục phối hợp với Văn phòng Chính phủ, các Bộ, ngành tích cực triển khai thực hiện, dự kiến sẽ có Báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ 8 tới đây.

14. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Cử tri đánh giá cao sự nỗ lực của Chính phủ, các ngành, các cấp, cộng đồng doanh nghiệp và của toàn dân, trong điều kiện tình hình kinh tế trong nước và trên thế giới còn gặp nhiều khó khăn đã nỗ lực phấn đấu thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong năm 2013. Tuy nhiên, cử tri mong muốn trong thời gian tới Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương tăng cường thực hiện các biện pháp quyết liệt nhằm điều hành nền kinh tế hiệu quả hơn, bảo đảm thực hiện tốt các chính sách về an sinh xã hội để góp phần bình ổn và bảo đảm chất lượng cuộc sống của người dân, nhất là đại bộ phận nông dân và người lao động hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

Trả lời: Tại công văn số 5765/BKHĐT-TH ngày 31/8/2014

1. Đánh giá tình hình kinh tế xã hội 9 tháng đầu năm 2014

Dưới sự chỉ đạo tập trung, quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và toàn dân trong việc triển khai thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ và giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 02/01/2014 và Nghị quyết các phiên họp thường kỳ của Chính phủ, tình hình kinh tế - xã hội trong 9 tháng đầu năm 2014 tiếp tục đà phục hồi, có nhiều chuyển biến và đạt được những kết quả tích cực. Tăng trưởng của hầu hết các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế đều có cải thiện. Tăng trưởng GDP 9 tháng đầu năm đạt 5,54%. Sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục phục hồi với tốc độ cao hơn so với cùng kỳ năm trước. Sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản có phát triển tốt. Lĩnh vực dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng khá cao. Xuất khẩu tiếp tục duy trì đà tăng trưởng và có xuất siêu. Lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, giá cả, thị trường khá ổn định, cung - cầu hàng hóa được đảm bảo; thu ngân sách nhà nước đạt khá so với dự toán. Lãi suất huy động và cho vay tiếp tục được điều chỉnh giảm, cơ cấu tín dụng có chuyển biến. Tỷ giá, thị trường ngoại tệ ổn định, dự trữ ngoại tệ tăng cao. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tăng; giải ngân ODA đạt cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm trước. Tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế mà trọng tâm là tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu các ngân hàng thương mại và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước đã đạt được kết quả bước đầu tích cực. An sinh xã hội được đảm bảo; đời sống của người dân, nhất là các đối tượng chính sách, người có công, người dân tộc thiểu số, hộ nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng chịu ảnh hưởng của thiên tai được đặc biệt quan tâm. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Công tác bảo đảm an toàn và trật tự giao thông được tăng cường; số vụ tai nạn và số người thương vong giảm mạnh so với năm trước. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân được chú trọng hơn. Cải cách hành chính và đấu tranh phòng chống tham nhũng được đẩy mạnh; công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt được nhiều kết quả.

Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế vĩ mô chưa thực sự ổn định vững chắc. Tổng cầu tăng chậm, tăng trưởng tín dụng thấp, khả năng tiếp cận vốn tín dụng của các doanh nghiệp còn khó khăn; xử lý nợ xấu còn chậm so với yêu cầu; thị trường bất động sản phục hồi chậm. Tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thoái vốn đầu tư ngoài ngành chưa đạt yêu cầu. Việc làm, thu nhập và đời sống của một bộ phận dân cư nhất là hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn khó khăn. Một số dịch bệnh ở trẻ em diễn ra trên diện rộng. Công tác bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm còn nhiều hạn chế. Các tệ nạn xã hội, tội phạm ở một số nơi còn diễn biến phức tạp.

2. Một số giải pháp chủ yếu cần tập trung thực hiện trong những tháng cuối năm 2014

Điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và thận trọng phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với chính sách tài khóa, kiểm soát lạm phát ở mức khoảng 5%.

Tăng cường quản lý ngân sách nhà nước. Tập trung các giải pháp chống thất thu, nợ đọng thuế. Kiểm soát chặt chẽ chi ngân sách nhà nước.

Đẩy nhanh tiến độ thi công và giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản, nhất là các nguồn vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ, ODA; điều chuyển vốn của các dự án, công trình chậm tiến độ cho các công trình quan trọng, cấp bách, hoàn thành trong năm 2014, tạo điều kiện tăng năng lực sản xuất, góp phần tăng tổng cầu cho nền kinh tế.

Triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trong Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18/03/2014 về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh.

Thực hiện các giải pháp thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp; chuyển đổi phương thức tổ chức sản xuất quy mô lớn gắn với đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật; đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, khuyến nông, chủ động đối phó với dịch bệnh, thiên tai, nhất là vào mùa mưa bão. Phát triển mạnh kinh tế biển, có chính sách tín dụng ưu đãi và bảo hiểm phù hợp đối với ngư dân.

Về lĩnh vực công nghiệp, xây dựng: Tiếp tục triển khai có hiệu quả các giải pháp phát triển sản xuất, tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ, khuyến khích tiêu dùng, đẩy nhanh việc tiêu thụ hàng tồn kho. Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp nhằm giảm tỷ trọng ngành gia công, chế biến sử dụng đầu vào nhập khẩu, yêu cầu đầu tư lớn nhưng giá trị tăng thêm thấp.

Về lĩnh vực dịch vụ: Tiếp tục thực hiện các giải pháp phát triển thị trường trong nước; tích cực triển khai Cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam". Thực hiện có hiệu quả các giải pháp khuyến khích, đẩy mạnh xuất khẩu; tăng cường xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, thúc đẩy đàm phán và sớm ký kết các hiệp định kinh tế, thương mại để đa dạng hóa thị trường, giảm bớt sự phụ thuộc vào một thị trường.

Tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả các cơ chế chính sách về an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, nhất là việc hỗ trợ kịp thời nhu yếu phẩm cho các hộ dân bị mất nhà cửa do mưa lũ. Thực hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, phấn đấu đạt mục tiêu giảm nghèo của kế hoạch năm 2014.

Củng cố và nâng cao hiệu quả mạng lưới y tế dự phòng, chủ động phòng, chống dịch bệnh, không để dịch lớn xảy ra. Triển khai có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống HIV/AIDS. Thực hiện hiệu quả các cơ chế, chính sách và lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân, giảm quá tải bệnh viện. Có cơ chế phù hợp quản lý hiệu quả giá thuốc chữa bệnh. Tăng cường thanh tra, kiểm tra chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm.

Triển khai thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020, Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011-2020 và Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh việc thực hiện xã hội học tập. Nâng cao chất lượng giáo dục đại học, nhất là đại học ngoài công lập.

Triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (Khóa XI) và Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ; Chương trình quốc gia về đổi mới công nghệ, phát triển công nghệ cao; Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia; Chương trình nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp.

Triển khai Nghị quyết Trung ương 7 (Khóa XI) về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, Nghị quyết của Chính phủ về một số vấn đề cấp bách trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Chiến lược phát triển bền vững, Chiến lược tăng trưởng xanh. Làm tốt công tác bảo vệ và phát triển rừng. Nâng cao khả năng phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm, cứu nạn.

Hoàn thành việc hướng dẫn và triển khai Hiến pháp mới. Nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm tính phù hợp, khả thi và phát huy hiệu quả khi triển khai thực hiện.

Khẩn trương hoàn chỉnh việc sửa đổi Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp (dự kiến trình Quốc hội tháng 10 năm 2014) nhằm tiếp tục tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như cam kết của Việt Nam trong các điều ước quốc tế về đầu tư.

Tiếp tục thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính. Tập trung đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức trong các cơ quan, tổ chức từ Trung ương đến địa phương. Kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan chuyên trách về phòng, chống tham nhũng.

Tiếp tục triển khai thực hiện tốt chỉ đạo của Chính phủ về các giải pháp liên quan bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông. Nỗ lực giải quyết tình hình phức tạp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS) và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC).

Tích cực đàm phán Hiệp định Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và các Hiệp định thương mại tự do khác. Triển khai lộ trình nâng cấp quan hệ với một số đối tác; đưa các mối quan hệ đã thiết lập đi vào chiều sâu, hiệu quả. Nâng cao vai trò, bảo đảm lợi ích quốc gia tại các tổ chức, cơ chế, diễn đàn quốc tế và khu vực. Đóng góp tích cực, trách nhiệm vào việc xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015.

Tăng cường công tác thực hiện tuyên truyền. Các cấp, các ngành phải thường xuyên cung cấp thông tin cho các phương tiện thông tin đại chúng, trước hết là các cơ chế, chính sách, pháp luật của nhà nước, các thông tin chính thức và kịp thời về tình hình kinh tế - xã hội, để tạo sự đồng thuận trong nhân dân.

15. Cử tri tỉnh Cà Mau kiến nghị: Cử tri phản ánh, thời gian gần đây việc phong hàm tướng bị lạm dụng, bước ra ngõ là gặp tướng, gặp đại tá, đề nghị Chính phủ xem lại vị trí nào, đơn vị hành chính nào, cơ quan nào của Quân đội và Công an cần có tướng thì mới xem xét phong hàm tướng.

Trả lời: Tại công văn số 6567/BQP-CT ngày 13/8/2014

Việc đề nghị thăng quân hàm cấp tướng cho sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam phải căn cứ vào Luật Sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam sửa đổi bổ sung một số điều năm 2008; Nghị định số 36/2010/NĐ-CP ngày 07/4/2010 của Chính phủ quy định hệ thống nhóm chức vụ và cấp bậc quân hàm cao nhất của Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam và Quyết định số 64/2011/QĐ-TTg ngày 29/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức vụ tương đương có cấp bậc quân hàm cao nhất là cấp tướng của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam; tiêu chuẩn cán bộ, nhu cầu công tác của sĩ quan và các văn bản của Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng.

Quân uỷ Trung ương xem xét, lựa chọn và đề xuất cấp có thẩm quyền quyết định việc phong, thăng quân hàm cấp tướng theo quy trình chặt chẽ, dân chủ, công khai từ cấp uỷ đơn vị cơ sở đến Thường vụ Quân ủy Trung ương; quá trình xem xét luôn coi tong chất lượng không chạy theo số lượng, không phải cứ có trần quân hàm cấp tướng là được xét đề bạt.

Tỷ lệ sĩ quan cấp tướng theo quy định hiện hành mới đạt hơn 80% so vói nhu cầu chức danh có trần quân hàm cấp tướng và 0,31 % so với tổng số đội ngũ sĩ quan, còn gần 20% sĩ quan tuy có nhu cầu, đủ tiêu chuẩn đã giữ cấp từ 04 năm trở lên nhưng chưa được xét thăng quân hàm cấp tướng theo quy định đối với chức vụ đang đảm nhiệm.

Thực tiễn việc phong, thăng quân hàm sĩ quan cấp tướng trong những năm qua khẳng định Thường vụ Quân ủy Trung ương và cấp ủy các cấp đã quán triệt và thực hiện nghiêm túc Luật Sĩ quan, các quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Chính phủ phù hợp với thực tiễn xây dựng Quân đội.

Thực hiện Luật Sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam sửa đổi bổ sung một số điều năm 2008. Năm 2013, 2014 Bộ Quốc phòng đã cơ bản hoàn thành việc ban hành thông tư quy định tên gọi, nhóm chức vụ, cấp bậc quân hàm cao nhất của sĩ quan trong quân đội làm cơ sở để Thường vụ Đảng uỷ các cấp xem xét đề nghị thăng quân hàm cấp Đại tá trở xuống.

Đối với cấp tướng thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Thông báo số 111- TB/TW ngày 08/11/2012 và Thông báo số 147-TB/TW ngày 21/10/2013, Chính phủ đang trình Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, trong đó dự thảo Luật quy định cụ thể các chức vụ của sĩ quan có cấp bậc quân hàm cao nhất là cấp tướng

16. Cử tri TP Cần Thơ kiến nghị: Kiến nghị Chính phủ sớm xem xét, ban hành Nghị quyết quy định về lĩnh vực, tỷ lệ hỗ trợ đầu tư đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cho lĩnh vực quốc phòng, an ninh.

Trả lời: Tại công văn số 5767/BKHĐT-TH ngày 31/8/2014

Bộ Kế hoạch và Đầu tư ghi nhận những kiến nghị của cử tri thành phố Cần Thơ liên quan đến những quy định hỗ trợ tại Quyết định số 60/2010/QĐ- TTg ngày 30/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ. Việc sửa đổi, bổ sung các quy định nêu trên sẽ được nghiên cứu trong quá17. Cử tri TP Đà Nẵng kiến nghị: Vừa qua, có một số bộ, ngành thuộc Chính phủ báo cáo ra Ủy ban thường vụ Quốc hội, các Ủy ban của Quốc hội một số vấn đề, đề án lớn nhưng không báo cáo ra Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để cho ý kiến trước, dẫn đến mâu thuẫn, sai lệch, không phù hợp với hoàn cảnh thực tế gây bức xúc trong dư luận (ví dụ: Việc đăng cai ASIAD 18; Đề án cải cách sách giáo khoa). Cử tri đề nghị, Chính phủ cần quán triệt, thực hiện đúng nguyên tắc, quy chế làm việc của mình để không lặp lại tình trạng trên trong thời gian tới.



Trả lời: Tại công văn số 6750a/VPCP-TH ngày 03/9/2014

Quán triệt, thực hiện đúng nguyên tắc, Quy chế làm việc của Chính phủ là việc làm thường xuyên của Chính phủ trong xử lý mọi công việc. Hàng tháng, trong các phiên họp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đều nhắc nhở việc này. Định kỳ 6 tháng, Chính phủ đều tổ chức kiểm điểm, trong đó đánh giá ưu điểm, khuyết điểm, đồng thời đề ra các biện pháp khắc phục tồn tại, hạn chế trong chỉ đạo, điều hành, thực hiện Quy chế làm việc của Chính phủ. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định, Chính phủ, các thành viên Chính phủ luôn giải quyết công việc theo đúng trình tự, thủ tục của Quy chế làm việc của Chính phủ, đặc biệt là đối với các vấn đề quan trọng, các báo cáo, đề án, dự án lớn thuộc thẩm quyền của Chính phủ hoặc Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, từng thành viên Chính phủ khi được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phân công hoặc ủy quyền đều chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của Quốc hội, thực hiện đầy đủ nhiệm vụ theo các quy chế và quy định có liên quan, chịu trách nhiệm về nội dung và tiến độ trình các đề án, dự án do cơ quan mình chủ trì chuẩn bị.



  1. Quán triệt, thực hiện đúng nguyên tắc, Quy chế làm việc của Chính phủ là việc làm thường xuyên của Chính phủ trong xử lý mọi công việc. Hàng tháng, trong các phiên họp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đều nhắc nhở việc này. Định kỳ 6 tháng, Chính phủ đều tổ chức kiểm điểm, trong đó đánh giá ưu điểm, khuyết điểm, đồng thời đề ra các biện pháp khắc phục tồn tại, hạn chế trong chỉ đạo, điều hành, thực hiện Quy chế làm việc của Chính phủ. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định, Chính phủ, các thành viên Chính phủ luôn giải quyết công việc theo đúng trình tự, thủ tục của Quy chế làm việc của Chính phủ, đặc biệt là đối với các vấn đề quan trọng, các báo cáo, đề án, dự án lớn thuộc thẩm quyền của Chính phủ hoặc Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, từng thành viên Chính phủ khi được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phân công hoặc ủy quyền đều chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của Quốc hội, thực hiện đầy đủ nhiệm vụ theo các quy chế và quy định có liên quan, chịu trách nhiệm về nội dung và tiến độ trình các đề án, dự án do cơ quan mình chủ trì chuẩn bị Việc đăng cai ASIAD 18 và Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông đã được các phương tiện thông tin đại chúng đê cập rất nhiều, Văn phòng Chính phủ xin báo cáo tóm tắt diễn biến như sau:

  • Việc đăng cai ASIAD 18 đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chuẩn bị, triển khai trên cơ sở đã có chủ trương của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Chính phủ về việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đăng cai tổ chức các sự kiện thế thao khu vực và quốc tế, trong đó có ASIAD vào thời điểm thích hợp nhằm góp phần phát triển thể dục, thể thao và kinh tế - xã hội của đất nước. Đề án tổng thể chuẩn bị, tổ chức ASIAD 18 được ghi vào Chương trình công tác của Chính phủ từ đầu năm 2013 và đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xây dựng, gửi xin ý kiến 08 Bộ, 03 địa phương liên quan để trình Thủ tướng Chính phủ theo đúng Quy chế làm việc của Chính phủ. Sau khi tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã trình Thủ tướng Chính phủ Đe án tổng thể chuẩn bị và tổ chức ASIAD 18. Theo yêu cầu của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng, được sự ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, ngày 18/3/2014, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch báo cáo giải trình trước Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội về việc thực hiện chính sách, pháp luật trong lĩnh vực thể thao thành tích cao, trong đó có nội dung báo cáo về công tác chuẩn bị cho ASIAD. Tại thời điểm trên, Đề án tổng thể chuẩn bị và tổ chức ASIAD 18 vẫn đang trong quá trình hoàn thiện và chưa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam và ý kiến của các cơ quan về dự toán tổng kinh phí tổ chức ASIAD 18 tại Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã hoàn thiện Đề án tổng thể chuẩn bị và tổ chức ASIAD 18 và báo cáo Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp ngày 17/4/2014 với các Bộ: Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Ngoại giao, Ủy ban Olympic quốc gia, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội về việc đăng cai tổ chức ASIAD 18. Sau khi cân nhắc các mặt, nhất là trong bối cảnh chịu ảnh hưởng nặng nề của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, tình hình kinh tế - xã hội của nước ta còn có nhiều khó khăn, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, làm việc với Hội đồng Olympic châu Á (OCA) và các đối tác liên quan để rút đăng cai, không tổ chức ASIAD 18 tại Hà Nội.

- Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phố thông sau năm 2015 đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành Trung ương (khóa XI) về đối mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và cũng thuộc Chương trình công tác của Chính phủ năm 2014. Thủ tướng Chính phủ đã ủy quyền Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo thay mặt Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến về Đề án này trước khi trình Quốc hội ban hành Nghị quyết mới về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trình Ủy ban thường vụ Quốc hội dự thảo Đề án, trong Đề án đó chưa nêu nội dung kinh phí thực hiện. Sau khi có ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo khẩn trương xây dựng Đề án, bao gồm cả nội dung dự kiến kinh phí và lộ trình thực hiện.

Việc xây dựng và thẩm định Đề án theo ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội cần phải có thêm thời gian, do đó, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo có văn bản báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc xin chuyển Đeề án này từ chương trình kỳ họp thứ 7 sang kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khóa XIII. Hiện nay, Chính phủ đang khẩn trương hoàn thiện Đề án này để trình Quốc hội.

Như vậy, các đề án trên đều được các Bộ chủ trì bám sát chủ trương của Đảng, Chính phủ và báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước khi trình ủy ban thường vụ Quốc hội và Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội theo đúng Quy chế làm việc của Chính phủ. Tuy nhiên, khi báo cáo trước các cơ quan của Quốc hội, đại diện của 02 Bộ chủ trì chưa báo cáo rõ về một số nội dung mới chỉ là đề xuất của Bộ, chưa trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thông qua.



  1. Để xảy ra tình trạng không đáng có trên là một thiếu sót, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời rút kinh nghiệm với các thành viên Chính phủ để tránh không lặp lại tình trạng trên trong thời gian tới. Tiếp thu ý kiến cử tri nêu, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, cơ quan nghiêm túc thực hiện đúng quy trình giải quyết công việc quy định tại Quy chế làm việc của Chính phủ.

18. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Tài chính chưa có sự thông nhất trong việc hướng dẫn thực hiện hỗ trợ tiền ăn trưa cho trẻ em mẫu giáo 3, 4, 5 tuổi ở các phường, thị trấn vùng cao của tỉnh Gia Lai theo Quyết định sổ 60/QĐ-TTg ngày 26/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ quy định một số chính sách phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2011-2015 (Công văn số 8874/BGDĐT-KHTC ngày 11/12/2013 của Bộ Giáo dục và Đào tạo trả lời cho tỉnh Gia Lai: “Các cháu mẫu giáo 3, 4, 5 tuốì mà cha, mẹ có hộ khẩu thường trú tại các phường, thị trấn vùng cao của tỉnh Gia Lai được hỗ trợ tiền ăn trưa”. Tại công văn số 18108/BTC-HCSN ngày 30/12/2013 của Bộ Tài chính gửi Bộ Giáo dục và Đào tạo trả lời: Trẻ em mu giáo đang học tại các sở giáo dục mầm non có cha, mẹ thường trú tại các phường, thị trấn vùng cao không thuộc đối tượng hưởng chế độ hỗ trợ tiền ăn trưa. Việc trả lời của hai Bộ chưa thống nhất như đã nêu trên dẫn đến địa phương không thể thực hiện được, phải chờ nên chậm trễ thực hiện chế độ, chính sách. Đề nghị Thủ tướng Chính phủ quan tâm chỉ đạo, giải quyết vân đề nêu trên.

Trả lời: Tại công văn số 4278/BGDĐT-VP ngày 12/8/2014

Khi các địa phương hỏi về cách hiểu thế nào cho đúng trong xác định đối tượng hưởng chính sách ở “các phường, thị trân vùng cao”, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Công văn số 3791/BGDĐT-KHTC ngày 06/6/2013 hỏi ý kiến của Ủy ban Dân tộc. Tại Công văn số 586/UBDT-CSDT ngày 04/7/2013, Ủy ban Dân tộc trả lời là trong danh sách “các xã miền núi, vùng cao” theo quy định tại Quyết định 21/UB-QĐ ngày 20/01/1993 và Quyết định 42/UB-QĐ ngày 23/5/1997 của Ủy ban Dân tộc và Miền núi bao gồm cả các phường, thị trấn; do đó, các cháu mẫu giáo trong độ tuổi 3-5 tuổi mà cha, mẹ thường trú tại các phường, thị trấn nằm trong Quyết định 21/UB-QĐ và Quyết định 42/UB-QĐ cũng được hưởng chế độ.

Như vậy, trong Quyết định 60/QĐ-TTg naày 26/10/2011 và Quyết định 239/QĐ-TTg ngày 09/02/2010, khi trích dẫn Quyết định 21/UB-QĐ và Quyết định 42/UB-QĐ, từ “xã” được hiểu theo nghĩa là “cấp xã” và cũng không có quy định nào loại trừ các phường, thị trấn. Vì vậy, đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Gia Lai có ý kiến trao đối với Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai chỉ đạo thực hiện theo ý kiến của Ủy ban dân tộc (đã nêu lại tại Công văn số 8874/BGDĐT-KHTC ngày 11/12/2013 của Bộ Giáo dục và Đào tạo).

19. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Hiện nay, mỗi đơn vị hành chính cấp huyện có 01 trung tâm giáo dục thường xuyên, 01 trung tâm dạy nghề, 01 trung tâm bồi dưỡng chính trị nên phân tán nguồn lực dẫn đến hiệu quả hoạt động thấp. Đề nghị nghiên cứu và chỉ đạo sáp nhập nhằm tinh gọn tổ chức, tập trung nguồn lực để nâng cao hiệu quả hoạt động.



tải về 7.28 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   101




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương