*Về cấu trúc
Cấu trúc của hệ thống ngân hàng có thể ảnh hưởng nhiều đến khả năng cung ứng các dịch vụ của hệ thống để đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế. Để phân tích cấu trúc của hệ thống ngân hàng, người ta xem xét một số chỉ số như: số lượng ngân hàng, cơ cấu sở hữu (giữa khu vực chính phủ và khu vực tư nhân, giữa khu vực ngân hàng trong nước và nước ngoài), mức độ tập trung và cạnh tranh ngân hàng.
Thống kê về số lượng NHTM tại các châu Á và Đông Nam Á cho thấy Việt Nam có khá nhiều NHTM, đặc biệt là NHTM nhà nước (Bảng 2.6)
Bảng 2.6: Số lượng NHTM tại các nước
Tên nước
|
Năm
|
Nhà nước
|
Tư nhân
|
Tổng
|
Tên nước
|
Năm
|
Nhà nước
|
Tư nhân
|
Tổng
|
Bulgaria
|
2011
|
1
|
30
|
31
|
India
|
2013
|
21
|
20
|
41
|
Czech Republic
|
2010
|
2
|
32
|
34
|
Malaysia
|
2012
|
0
|
41
|
41
|
China
|
2009
|
4
|
12
|
16
|
Indonesia
|
2012
|
4
|
107
|
111
|
Japan
|
2010
|
0
|
117
|
117
|
Philippines
|
2010
|
2
|
18
|
20
|
Korea, Rep.
|
2012
|
1
|
35
|
36
|
Vietnam
|
2013
|
5
|
43
|
48
|
Nguồn: Institutional Coverage of FSIs for Deposit - Takers and OFCs – IMF
(* Bảng thống kê chỉ bao hàm các NHTM được tính trong nhóm các tổ chức nhận tiền gửi được thống kê, theo thống kê của IMF, không bao gồm các ngân hàng đầu tư, các tổ chức nhận tiền gửi như hợp tác xã, các ngân hàng khu vực (ngân hàng đô thị và ngân hàng nông thôn), không tính đến các chi nhánh ngân hàng nước ngoài).
Biểu đồ 2.4 mô tả mức độ tập trung trong hệ thống ngân hàng của các nước thông qua tỷ lệ tài sản của 3 NHTM lớn nhất/ tổng tài sản của hệ thống ngân hàng. Tính đến cuối năm 2011 thì mức độ tập trung trong hệ thống ngân hàng Việt Nam đã thấp hơn 3 nước có nền kinh tế chuyển đổi, thấp hơn hầu hết các nước trong khu vực Đông Nam Á ngoại trừ Thái Lan và chỉ cao hơn Ấn Độ và Nhật Bản ở khu vực Châu Á .
*Về khả năng tiếp cận dịch vụ
Khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng là thước đo quan trọng để phát huy được yếu tố quy mô hệ thống ngân hàng tác động lên sự phát triển của nền kinh tế. Báo cáo nghiên cứu của Viện Chiến lược NH- NHNN đã sử dụng 2 chỉ số để đo khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng của doanh nghiệp, bao gồm: tỷ lệ doanh nghiệp có khoản vay hoặc hạn mức tín dụng tại ngân hàng, và tỷ lệ doanh nghiệp cho rằng khó khăn trong việc tiếp cận các tài chính là hạn chế lớn. Hai chỉ số này được tính toán dựa trên các cuộc khảo sát được WB tiến hành tại từng quốc gia trong các năm khác nhau. Số liệu thống kê năm 2009 cho thấy gần 50% doanh nghiệp tại Việt Nam đã sử dụng dịch vụ tín dụng ngân hàng. Tỷ lệ này chỉ thấp hơn Malaysia và Thái Lan ở khu vực Đông Nam Á và cao hơn mức trung bình toàn thế giới. Tỷ lệ doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiếp cận tài chính được đo bằng tỷ lệ doanh nghiệp cho rằng việc tiếp cận tài chính ngân hàng hoặc chi phí để sử dụng các dịch vụ tài chính ngân hàng là quá khó khăn hoặc quá lớn. Chỉ số này của Việt Nam khá thấp với 15% vào năm 2009 so với mức trung bình ở các nước đang phát triển khu vực Châu Á Thái Bình Dương là 16,1% và mức trung bình toàn thế giới là 27,9%.
Số lượng chi nhánh ngân hàng cũng được xem là một trong những thước đo đối với khả năng tiếp cận các dịch vụ ngân hàng của dân cư. Số liệu về số chi nhánh ngân hàng/100.000 dân của IMF cho thấy, trung bình có 3,2 chi nhánh ngân hàng/100.000 dân tại Việt Nam, và tỷ lệ này có xu hướng giảm nhẹ từ 2008 đến nay và thấp hơn nhiều so với các nước khác. Trung bình có tới gần 34 chi nhánh ngân hàng trên 100.000 dân ở Nhật Bản, 18,4 chi nhánh ngân hàng/100.000 dân ở Hàn Quốc. Con số này ở Malaysia là 19,9, ở Thái Lan là 11,2, ở Indonesia là 9,5 và ở Trung Quốc là 7,7 . Các số liệu thống kê về số lượng chi nhánh phân theo không gian (số chi nhánh/1000km2) cũng cho thấy một hiện trạng tương tự, phản ánh mạng lưới chi nhánh ngân hàng của Việt Nam hiện nay là khá nhỏ bé.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |