HÀ NỘI, 2015 BỘ giáo dục và ĐÀo tạo ngân hàng nhà NƯỚc việt nam


Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của Việt nam giai đoạn 2005 - 2014 và khả năng áp dụng khuôn khổ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ theo lạm phát mục tiêu



tải về 1.63 Mb.
trang5/17
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích1.63 Mb.
#15427
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17

2.1. Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của Việt nam giai đoạn 2005 - 2014 và khả năng áp dụng khuôn khổ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ theo lạm phát mục tiêu

2.1.1. Khái quát bối cảnh kinh tế Việt Nam giai đoạn 2005 – 2014


Có thể lấy hai chỉ số là tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) và tỷ lệ lạm phát (CPI) để mô tả kết quả hoạt động của kinh tế Việt Nam giai đoạn từ 2005 đến nay. Đây là hai biến có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với CSTT. Sự biến động của tỷ lệ lạm phát được đo lường bằng biến động của chỉ số CPI sẽ cho thấy kết quả thực hiện nhiệm vụ ổn định giá cả của CSTT tiền tệ trong từng năm. Cùng với đó, sự biến động về tốc độ tăng trưởng GDP sẽ là sự phân tích bổ sung để lý giải cho những quyết định điều hành CSTT, sự đánh đổi giữa mục tiêu ổn định giá cả và tăng trưởng kinh tế.

Sau giai đoạn lạm phát được duy trì ở mức thấp (-0,6% vào năm 2000, tăng lên 4% vào năm 2002 và giảm xuống 3% vào năm 2003), tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam đã tăng mạnh trong năm 2004 (9,4% so với mức mục tiêu đặt ra chỉ là 5%). Quan sát diễn biến lạm phát ở Việt Nam từ năm 2005 đến nay cho thấy có thể chia thành 2 giai đoạn chính. Từ 2005 đến 2010, tỷ lệ lạm phát diễn biến theo chu kỳ 3 năm một, trong đó cứ 1 năm lạm phát thấp (lạm phát đạt trong mức mục tiêu) thì đến 2 năm lạm phát cao (lạm phát cao hơn mục tiêu). (Việc xác lập mục tiêu về lạm phát cần căn cứ trên các điều kiện cụ thể về phát triển kinh tế của quốc gia. Do vậy, xác định thế nào là một mức lạm phát cao và thế nào là một mức lạm phát thấp dường như là khó có thể đi đến sự thống nhất trên diện rộng. Trong khuôn khổ phân tích của luận án, NCS lấy mức mục tiêu về lạm phát hàng năm để làm căn cứ phân tích mức lạm phát cao hay thấp. Giả định rằng các mứcLP như vậy đã được xác định dựa trên những căn cứ xác đáng và phù hợp với các yêu cầu về phát triển kinh tế của Việt Nam. Do đó, lạm phát thực tế tăng lên trên mức mục tiêu thì được coi là lạm phát cao, và lạm phát thực tế giảm xuống dưới mức mục tiêu thì được coi là lạm phát thấp, trong một tương quan mang ý nghĩa tương đối, nhằm mục đích chủ yếu là đánh giá hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ (có đạt được mục tiêu về ổn định giá cả hay không?)

Trong suốt giai đoạn 6 năm (2005 – 2010), chỉ có 2 năm tỷ lệ lạm phát thực hiện đạt được ở mức mục tiêu là năm 2006 và năm 2009. Các năm còn lại đều có tỷ lệ lạm phát cao hơn mục tiêu, trong đó năm 2007, 2008, 2010 tốc độ tăng lạm phát đã lên đến 2 con số. Trong 2 năm 2008 và 2010, mức chênh giữa tỷ lệ lạm phát thực hiện và tỷ lệ CSLPMT còn tăng lên rất cao. Năm 2008 tỷ lệ LPMT là 7%, tỷ lệ lạm phát thực hiện là 22,97%, cao hơn mức mục tiêu đến 15,97%. Năm 2010, tỷ lệ LPMT là 7%, tỷ lệ lạm phát thực hiện là 11,75%, cũng cao hơn mức mục tiêu đến 4,75%. Tuy nhiên, từ năm 2011 đến nay, tỷ lệ lạm phát đã dần đi vào ổn định (ngoại trừ năm 2011 ở mức 18,13%), trong đó, năm 2012 tỷ lệ lạm phát đã hạ xuống 6,81% (so với mục tiêu là 10%), năm 2013 tỷ lệ lạm phát đạt xấp xỉ mức mục tiêu là 6,6% và năm 2014, tỷ lệ lạm phát đã giảm thấp xuống 1,84%.

Đối với vấn đề tăng trưởng kinh tế, cũng có thể phân chia thành 2 giai đoạn chính từ năm 2005 đến 2010 và từ 2011 đến nay. Trong giai đoạn 2005 – 2010, Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao, với tốc độ tăng trưởng GDP luôn đạt trên 7%/năm. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 8,4%, xấp xỉ so với chỉ tiêu là 8,5%. Đến hai năm 2006 và 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế thực hiện luôn đạt cao hơn so với tốc độ tăng trưởng kinh tế mục tiêu, đạt 8,17% vào năm 2006 (so với mục tiêu là 8%) và đạt 8,48% vào năm 2007 (so với mức mục tiêu là 8,2). Tuy nhiên bước sang năm 2008 trở đi, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt nam đã giảm sút rõ rệt và chỉ đạt ở mức 6,42% vào cuối năm 2010. Trong giai đoạn 2011-2014, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đều chỉ đạt dưới 6,5%, trong đó cũng chỉ có 1 năm là năm 2011 là đạt trên 6%, còn lại các năm khác đều có tốc độ tăng trưởng dưới 6%.


2.1.2. Đặc điểm điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn 2005 đến nay


Định hướng điều hành hàng năm của Chính phủ và Quốc hội là những căn cứ quan trọng để NHNN đưa ra mục tiêu trong hoạch định CSTT. Xem xét các quyết định và định hướng của Chính phủ giai đoạn 2005 đến nay có thể thấy, bắt đầu từ năm 2011 mục tiêu kiềm chế lạm phát đã được Quốc hội đề ra và nhấn mạnh trong mục tiêu phát triển kinh tế xã hội (bảng 2.1). Đây cũng là giai đoạn mà công tác điều hành CSTT đã có tính thống nhất cao và đạt được mục tiêu đề ra về kiểm soát lạm phát. Chính trong giai đoạn này khi lạm phát được duy trì ở mức thấp và tương đối ổn định thì các điều kiện thực hiện LPMT mới dần được định hình một cách rõ nét hơn so với giai đoạn những năm 2005-2010. Mặc dù theo khuyến cáo của IMF, từ những năm 2006 thì Việt Nam đã nằm trong số 43 quốc gia có thể thực hiện CSLPMT, nhưng rõ ràng giai đoạn 2005-2010 các điều kiện để thực hiện chuyển đổi sang CSLPMT là khá mờ nhạt, mục tiêu kiềm chế lạm phát không được ưu tiên, nhường chỗ cho mục tiêu phát triển kinh tế.

Bảng 2.1: Mục tiêu điều hành CSTT của Việt Nam qua các năm (2011 – 2015)



Năm

Mục tiêu chung

Mục tiêu điều hành Chính sách tiền tệ

2011

Tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu kinh tế

Thực hiện CSTT chặt chẽ, thận trọng, phối hợp hài hòa giữa CSTT và CSTK để kiềm chế lạm phát; điều hành và kiểm soát để bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán khoảng 15 – 16%; tập trung ưu tiên vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa; giảm tốc độ và tỷ trọng vốn vay tín dụng của khu vực phi sản xuất, nhất là lĩnh vực bất động sản, chứng khoán; Điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ, nhất là các loại lãi suất và lượng tiền cung ứng để bảo đảm kiềm chế lạm phát; Điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường; Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng.

2012

Ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh…

Điều hành CSTT chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt, phối hợp hài hòa giữa CSTT và CSTK để kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra. Điều hành chủ động và linh hoạt các công cụ CSTT, nhất là chính sách lãi suất, cho vay tái cấp vốn và nghiệp vụ thị trường mở, kiểm soát mức tăng trưởng tín dụng cả năm 2012 khoảng 15 – 17%, tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 14-16%, bảo đảm thanh khoản của các TCTD, giảm mặt bằng lãi suất ở mức hợp lý phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô; Thực hiện các giải pháp khuyến khích và hỗ trợ các TCTD ưu tiên vốn tín dụng phục vụ các lĩnh vực ưu tiên; kiểm soát tỷ trọng dư nợ cho vay các lĩnh vực không khuyến khích ở mức hợp lý; tiếp tục thực hiện các biện pháp kiểm soát chặt chẽ cho vay bằng ngoại tệ để đảm bảo tăng trưởng tín dụng ngoại tệ phù hợp khả năng huy động và chủ trương hạn chế tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế; Điều hành tỷ giá, thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường và tình hình cung cầu ngoại tệ; Thực hiện các biện pháp đồng bộ, hiệu quả để kiểm soát thị trường ngoại tệ và thị trường vàng.

2013

Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô; lạm phát thấp hơn, tăng trưởng cao hơn năm 2012…

Điều hành CSTT thận trọng, hiệu quả; sử dụng linh hoạt, hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ; gắn kết chặt chẽ, đồng bộ với CSTK nhằm bảo đảm thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, tăng cường ổn định vĩ mô và bảo đảm tăng trưởng hợp lý; Điều hành lãi suất và tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, mục tiêu kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế; đảm bảo an toàn thanh khoản và hoạt động của hệ thống tổ chức tín dụng và của nền kinh tế; Điều hành tỷ giá theo tín hiệu thị trường, bảo đảm giá trị đồng tiền Việt Nam; khẩn trương hoàn thiện cơ chế quản lý, ổn định thị trường vàng, bảo đảm giá vàng trong nước sát với giá vàng quốc tế...

2014

Tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; tăng trưởng hợp lý và nâng cao chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh của nền kinh tế…

Điều hành chủ động, linh hoạt các công cụ CSTT, phối hỏi chặt chẽ với CSTK nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng hợp lý; bảo đảm thanh khoản cho các TCTD và của nền kinh tế; Điều hành lãi suất, tỷ giá phù hợp với diễn biến vĩ mô, lạm phát, thị trường tiền tệ, bảo đảm giá trị đồng tiền Việt Nam; tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế… Thực hiện các giải pháp mở rộng tín dụng gắn với kiểm soát, nâng cao chất lượng tín dụng…

2015

Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, tập trung tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh…

Điều hành CSTT chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với CSTK để chủ động kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng và hỗ trợ phát triển thị trường tài chính, chứng khoán, để tăng khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển; Điều hành lãi suất, tỷ giá phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lmaj phát, thị trường tiền tệ; Tăng dư nợ tín dụng phù hợp gắn với việc kiểm soát và nâng cao chất lượng tín dụng; chủ động thực hiện các giải pháp quản lý hiệu quả thị trường ngoại tệ, thị trường vàng, tiếp tục khắc phục tình trạng đô la hóa, vàng hóa trong nền kinh tế, tăng dự trữ ngoại hối…

Xuất phát từ ý tưởng nghiên cứu theo mức độ hình thành các điều kiện thực hiện CSLPMT, Luận án đã phân chia thành hai giai đoạn để phân tích, đánh giá quá trình điều hành CSTT của Việt Nam từ 2005 -2014 qua đó nhìn nhận được những thành quả và những hạn chế trong từng thời kỳ, tìm ra được nguyên nhân hạn chế để có đề xuất phù hợp, cụ thể như sau:

- Giai đoạn từ 2005 đến 2010: Thời kỳ đầu, tỷ lệ lạm phát cao, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Điều này gợi ý rằng có thể đã có sự đánh đổi nhất định trong điều hành CSTT, hy sinh mục tiêu lạm phát để đạt được mục tiêu về tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên năm 2008-2010, tỷ lệ lạm phát vẫn cao nhưng tốc độ tăng trưởng lại giảm. Đây có phải là do hiệu quả của những biện pháp thực thi CSTT chưa đạt được hay là do ảnh hưởng mạnh mẽ của các nhân tố tác động xấu tới tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam?

- Giai đoạn từ 2011 đến nay: Đây là giai đoạn mà tỷ lệ lạm phát đã được kéo xuống thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế mặc dù còn thấp song đã cho thấy xu hướng hồi phục. Phải chăng đã có sự thay đổi về chất trong công tác điều hành CSTT khi mà mục tiêu về lạm phát đã liên tục được đảm bảo, duy trì mức lạm phát thấp và hướng tới kiểm soát được lạm phát ở mức thấp và ổn định?


2.1.2.1. Đặc điểm điều hành CSTT ở Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010


Giai đoạn 2005-2010 là giai đoạn có nhiều biến động, và diễn biến phức tạp. Để làm rõ những biến động kinh tế vĩ mô và công tác điều hành CSTT qua các năm, Luận án sẽ chia giai đoạn này thành 02 thời kỳ, thời kỳ từ năm 2005 đến 2007 và thời kỳ từ 2008 đến 2010.

Thời kỳ từ năm 2005 đến năm 2007

Đây là thời kỳ Việt Nam có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất trong vòng 10 năm đầu thế kỷ thứ 20 ( 8,4%, 8,2% và 8,5% lần lượt cho 3 năm). Song hành cùng với đó là tỷ lệ lạm phát cũng gia tăng nhanh chóng (9,5% năm 2004; 8,4% năm 2005, 6,6% năm 2006 và 12,63% năm 2007).

Nguyên nhân là do sự biến động của giá dầu và các mặt hàng thiết yếu trên thế giới cùng với việc dòng vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh đã làm tăng áp lực lạm phát cho nền kinh tế.

Mục tiêu CSTT

Trước những diễn biến chung của nền kinh tế như vậy, mục tiêu CSTT đặt ra trong 2 năm 2005, 2006 là “ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, nhưng không làm ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế”[3]. Trong năm 2007, NHNN định hướng “điều hành CSTT linh hoạt đảm bảo ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; triển khai đồng bộ các giải pháp điều hành tiền tệ nhằm kiểm soát mức tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng tín dụng, đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế”[12].



Điều hành công cụ CSTT

+ Đối với các công cụ lãi suất điều hành: Trong năm 2005, NHNN đã có 3 lần điều chỉnh tăng lãi suất tái chiết khấu (từ 3% lên 4,5%) và lãi suất tái cấp vốn (từ 4% lên 6,5%). Lãi suất cơ bản cũng được điều chỉnh tăng 2 lần vào tháng 2 (từ 7,5% lên 7,8%) và tháng 12 (từ 7,8% lên 8,25%). Các mức lãi suất này tiếp tục được duy trì trong năm 2006 và năm 2007.

+ Đối với nghiệp vụ thị trường mở: Giai đoạn này NHNN đã sử dụng nghiệp vụ thị trường mở như một công cụ chủ yếu trong điều hành CSTT. Trong 2 năm 2006, 2007, NHNN đã thực hiện hút ròng trên thị trường mở nhằm hút bớt tiền ra khỏi lưu thông..

+ Đối với công cụ dự trữ bắt buộc, trong năm 2005, 2006, NHNN giữ nguyên mức dữ trữ bắt buộc 5% đối với VNĐ có kỳ hạn dưới 12 tháng, và 2% đối với VNĐ có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên. Chỉ đến tháng 6 năm 2007, NHNN mới tiến hành điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhưng với mức điều chỉnh khá lớn, tăng lên 10% đối với VNĐ kỳ hạn dưới 12 tháng, và 4% đối với VNĐ kỳ hạn từ 12 tháng trở lên.

+ Về tăng trưởng tín dụng: Trong năm 2005, 2006, tốc độ tăng trưởng tín dụng đã chậm lại so với năm 2004. Tuy nhiên, đến năm 2007, tốc độ tăng trưởng tín dụng đã tăng đột biến lên tới 53%. Từ tháng 3 năm 2007, NHNN đã phải ban hành chỉ thị yêu cầu các TCTD thực hiện giải pháp kiểm soát tín dụng, khống chế dư nợ cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán ở mức dưới 3%, tăng cường thanh tra giám sát hoạt động cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán. Sự tăng trưởng về tín dụng đã có tác động lớn đối với lượng vốn trong nền kinh tế, thông qua đó tác động đến mức tăng lạm phát.

+ Về chính sách tỷ giá: Trong cả 3 năm, Việt Nam đều thực hiện chính sách ổn định tỷ giá với cam kết biến động tỷ giá ở mức khoảng 1%/năm..



  • Thời kỳ từ năm 2008 đến năm 2010

Trong thời kỳ từ 2008 đến 2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã giảm từ mức trên 8% của 3 năm trước, xuống chỉ còn trung bình 6,5%/năm, bối cảnh kinh tế có nhiều yếu tố khó khăn cả trong nước và trên thị trường thế giới. Diễn biến lạm phát trong giai đoạn 2008 – 2010 diễn ra rất phức tạp với nguy cơ lạm phát tăng cao luôn thường trực, tỷ lệ lạm phát đã tăng lên tới 22,97% vào năm 2008, giảm xuống 6,88% năm 2009, nhưng sau đó đã tăng lên mức 2 con số là 11,75% năm 2010.

Mục tiêu CSTT

Sự suy giảm về kinh tế gắn liền với những rủi ro về lạm phát đã khiến cho việc chọn lựa định hướng chính sách tiền tệ của Việt Nam trong giai đoạn này trở nên rất khó khăn. Xem xét những định hướng của Chính phủ đối với CSTT trong giai đoạn này cũng có thể thấy sự chuyển hướng khá nhiều với các mục tiêu khác nhau được chuyển đổi liên tiếp trong một khoảng thời gian ngắn. Ví dụ như những tháng đầu năm 2008, trước bối cảnh lạm phát và nhập siêu tăng mạnh, Chính phủ chủ trương triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Tuy nhiên, giai đoạn cuối năm, khi lạm phát và nhập siêu có xu hướng giảm, Chính phủ đã chỉ đạo tiếp tục điều hành CSTT thắt chặt nhưng linh hoạt trong điều hành và nới lỏng để tăng trưởng kinh tế. Năm 2009, các giải pháp điều hành CSTT nhằm hướng tới mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô. Với đà hồi phục kinh tế từ cuối năm 2009, CSTT lại chuyển sang hướng thắt chặt, và lấy trọng tâm là ổn định giá. Từ tháng 4 đến tháng 10/2010 nhiệm vụ đặt ra đối với điều hành CSTT là giảm dần mặt bằng lãi suất thị trường, góp phần tăng trưởng kinh tế. CSTT nới lỏng như vậy tiếp tục thực hiện cho đến quý 3/2010. Sau đó, trước tình hình lạm phát tăng cao từ quý 4, Chính phủ nêu nhiệm vụ trọng tâm của NHNN là điều hành CSTT theo tín hiệu thị trường để tăng cường kiểm soát tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng và tổng phương tiện thanh toán, góp phần kiểm soát lạm phát.



Điều hành công cụ CSTT

Để thực hiện được những mục tiêu như vậy thì các công cụ của CSTT đã phải liên tục được vận dụng linh hoạt, thể hiện như sau:

- Mục tiêu được Chính phủ đưa ra là ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, theo đó những tháng đầu năm 2008 NHNN đã sử dụng các công cụ CSTT theo hướng thắt chặt như: tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên thêm 1% (lên 11% vào tháng 2/2008) và tiến hành trả lãi cho phần dự trữ bắt buộc, đồng thời mở rộng diện tiền gửi phải dự trữ bắt buộc ở tất cả các kỳ hạn; Phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc của NHNN và quy định các tín phiếu NHNN không được sử dụng để vay tái cấp vốn tại NHNN: Lãi suất cơ bản được điều chỉnh lên mức 12%/năm rồi 14%/năm; Hệ thống lãi suất điều hành gồm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu cũng được điều chỉnh tăng. Sang năm 2009 với mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. CSTT lại được nới lỏng một cách thận trọng với mục tiêu tăng trưởng tín dụng, tăng trưởng cung tiền

- Năm 2010, Nghị quyết số 18/NQ – CP của Chính phủ đã xác định cả hai mục tiêu cho năm 2010 là: kiềm chế lạm phát khoảng 7% và theo đuổi mục tiêu tăng trưởng khoảng 6,5%.Vào thời điểm này, hệ thống ngân hàng bị rơi vào tình trạng căng thẳng thanh khoản hệ thống, các ngân hàng thiếu nguồn nội tệ cho nhu cầu vay, khiến các ngân hàng phải đẩy mạnh huy động vốn từ cả thị trường 2, đặc biệt là các ngân hàng nhỏ. Tốc độ tăng trưởng tín dụng thấp và lãi suất tăng cao. Các nhà hoạch định và thực thi chính sách bị chỉ trích là CSTT quá thắt chặt. CSTT trong tình huống này bị đặt trong tình thế lựa chọn: tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ thận trọng từ đầu năm (lựa chọn này phù hợp với yêu cầu kiểm soát lạm phát và có thể giúp kiểm soát được thanh khoản trong hệ thống) hay là quay lại duy trì tốc độ tăng trưởng, nới rộng tín dụng, hạ lãi suất và rơi vào vòng xoáy của rủi ro thanh khoản. Trong thực tế CSTT đã rơi vào điểm “bẫy vĩ mô” khi vừa chống đỡ tình trạng thiếu vốn vừa phải khống chế lãi suất huy động vốn nhằm giảm lãi suất cho vay vì mục tiêu tăng trưởng và chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp [16]

- Lạm phát đã tăng trở lại mạnh mẽ từ tháng 9 năm 2010. Tốc độ tăng CPI trong 4 tháng cuối năm 2010 lần lượt là 1,31%, 1,05%, 1,86% và 1,98% so tốc độ tăng trung bình từ tháng 3 đến tháng 8 chỉ là 0,27%. Mức tăng này tiếp tục kéo dài sang các tháng đầu năm 2011 cho đến tháng 7, trong đó các tháng 2, tháng 3, tháng 4 và tháng 5 có mức tăng CPI lên tới trên 2%, tháng 4 thậm chí tăng trên 3%.

Đánh giá kết quả điều hành CSTT giai đoạn 2005-2010

Thời kỳ từ 2005 đến 2007, NHNN đã điều hành CSTT kiểm soát khối lượng tiền cung ứng, tỷ giá được xem là mục tiêu hoạt động, mục tiêu cuối cùng được điều chỉnh phù hợp với sự thay đổi của bối cảnh kinh tế vĩ mô. Việc CSTT hướng tới nhiều mục tiêu cũng phù hợp với quy định trong Luật. Đã có những giai đoạn CSTT chú trọng tới mục tiêu kiểm soát lạm phát, tuy nhiên, mục tiêu này không được thực hiện một cách nhất quán và luôn được đặt song song với mục tiêu về tăng trưởng kinh tế. Lý thuyết về bộ ba bất khả thi đã chỉ ra, trong bối cảnh mở cửa nền kinh tế, các nước chỉ có thể lựa chọn một trong hai yếu tố là CSTT hoặc là ổn định tỷ giá. Trong khi tỷ giá được duy trì hầu như ổn định trong năm 2007, rõ ràng, hiệu lực điều hành CSTT của Việt Nam trong năm này đã không đạt được như mong muốn trong mục tiêu kiểm soát tổng phương tiện thanh toán, cũng như mục tiêu cuối cùng là ổn định giá cả. Bên cạnh đó, trong khi tỷ giá được duy trì ổn định, thì lạm phát tiếp tục tăng lên trong 3 năm, sẽ gây ra những áp lực đối với tỷ giá, cũng như có khả năng làm giảm lợi thế cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Thời kỳ này NHNN đã không chú trọng đến việc khống chế tăng trưởng tín dụng, sự tăng trưởng về tín dụng đã có tác động lớn đối với lượng vốn của nền kinh tế thông qua đó tác động đến mức tăng lạm phát.

Bướt sang thời kỳ 2008 – 2010 có thể thấy CSTT đã phản ứng kịp thời với cuộc khủng hoảng và suy thoái toàn cầu giúp cho Việt Nam giữ được các mức tăng trưởng tốt so với các nước trong khu vực. Trong giai đoạn này, các công cụ CSTT đã được vận dụng một cách linh hoạt để đạt được mục tiêu (mặc dù các mục tiêu đã liên tục chuyển hướng trong ngắn hạn khiến cho nhiều công cụ CSTT còn chưa kịp phát huy tác dụng thì mục tiêu điều hành đã thay đổi). Đặc biệt là việc sử dụng nghiệp vụ thị trường mở để điều chỉnh vốn khả dụng cũng như thanh khoản của hệ thống. Từ việc chú trọng kiểm soát khối lượng tiền trong giai đoạn trước thì đến giai đoạn này, NHNN đã chú trọng hơn đến việc sử dụng lãi suất như là mục tiêu trung gian. Bên cạnh đó, việc kiểm soát tín dụng cũng được đề cao và kiểm soát chặt chẽ hơn, thay vì chỉ tập trung vào tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán. Sự ưu tiên đối với chính sách ổn định tỷ giá đã được giảm bớt, từ đó có thể tăng cường hiệu lực của CSTT theo như lý thuyết bộ ba bất khả thi cho một nền kinh tế mở cửa. Những tiến bộ này có thể tạo nên những tiền đề tốt hơn cho việc điều hành CSTT trong giai đoạn tiếp theo.

Tuy nhiên, việc liên tục chuyển hướng trong ngắn hạn để phù hợp với những biến động bất thường của diễn biến kinh tế khi ”nóng”, khi ”lạnh ” đã làm cho việc điều hành CSTT của NHNN gặp rất nhiều khó khăn. Sử dụng những bước điều chỉnh mạnh, can thiệp bằng nhiều biện pháp hành chính là những biện pháp NHNN buộc phải sử dụng ( tăng dự trữ bắt buộc lên tới 11%, tăng giảm các mức lãi suất điều hành nhiều lần trong một năm và biên độ điều chỉnh lớn; áp dụng trần lãi suất đối với tiền gửi; giới hạn và kiểm soát tăng trưởng tín dụng...). Mặc dù vậy, kết quả mang lại không được như mong muốn, thanh khoản của các NHTM biến động mạnh và rủi ro cao, nhiều cuộc đua lãi suất đã xảy ra đặc biệt trong năm 2008; mục tiêu tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán, tín dụng thường xuyên không đạt. Giai đoạn này nhiều chuyên gia và các nhà kinh tế đánh giá việc điều hành CSTT là thiếu tính thị trường, “điều hành giật cục”.


Nguyên nhân

+ CSTT cùng một lúc hướng đến nhiều mục tiêu bao gồm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát, ổn định tỷ giá, ổn định thị trường tiền tệ... trong khi các mục tiêu này có những thời điểm xảy ra xung đột gây khó khăn trong điều hành CSTT. Mặc dù mục tiêu cũng được NHNN đặt ra trong một số thời điểm tuy nhiên các mục tiêu này nhanh chóng thay đổi theo điều kiện kinh tế vĩ mô nên chính sách cũng phải liên tục ”chạy theo” mục tiêu đó.

+ Khuôn khổ CSTT bộc lộ những hạn chế, việc xác định lượng cung tiền, tín dụng là mục tiêu trung gian không còn phù hợp trong điều kiện các biến khác liên tục biến động dẫn đến việc NHNN khó chủ động điều hành, kiểm soát lạm phát. Bên cạnh đó khả năng phân tích, dự báo của CSTT Việt Nam chưa thích ứng trước những diễn biến khó lường của kinh tế thế giới nên điều hành chính sách thời gian này liên tục bị động và ”chạy theo thị trường”.

+ Thị trường tiền tệ, thị trường trái phiếu phát triển ở mức độ thấp, thiếu linh hoạt, chưa phản ánh được cung, cầu vốn; các công cụ thị trường còn rất ít và sử dụng không hiệu quả (khuôn khổ pháp lý điều tiết, thói quen sử dụng,...) nên đã hạn chế khả năng điều tiết tiền tệ, cụ thể là điều chỉnh M2 của NHNN. Đồng thời lãi suất trên thị trường tiền tệ và thị trường trái phiếu chưa thể sử dụng làm lãi suất tham khảo để định giá các tài sản tài chính khác;

+ Năng lực của các NHTM VN còn hạn chế, đang trong quá trình tái cơ cấu và triển khai hiện đại hóa thanh toán

Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn này còn nhiều hạn chế về khả năng quản trị rủi ro, quản lý tài sản có - tài sản nợ. Các TCTD đang trong giai đoạn cơ cấu lại, chất lượng tài sản, năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh; khả năng thích ứng với sự biến động của thị trường còn yếu, đã làm hạn chế hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ. Công tác quản lý thanh khoản chưa được các TCTD quan tâm đúng mức, việc sở hữu các giấy tờ có giá làm dự trữ thanh khoản chưa phổ biến, hiện tượng sử dụng vốn ngắn hạn thậm chí vay vốn trên thị trường liên ngân hàng để cho vay nền kinh tế diễn ra thường xuyên. Vì vậy, khi thị trường có biến động, các TCTD này dễ gặp khó khăn về thanh khoản. Trong điều kiện thị trường tiền tệ chưa có sự luân chuyển vốn thông suốt, thực trạng trên cũng làm hạn chế nhất định đến khả năng điều tiết tiền tệ của NHNN thông qua công cụ CSTT..


2.1.2.2. Đặc điểm điều hành CSTT ở Việt Nam giai đoạn 2011 -2014


Trong giai đoạn 2011 đến 2014, kinh tế trong nước chịu tác động của bối cảnh kinh tế thế giới nhìn chung còn nhiều khó khăn, phức tạp, tốc độ phục hồi chậm. Cùng với đó là những khó khăn từ những vấn đề chưa được giải quyết triệt để của nền kinh tế trong nước như áp lực về khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế chưa cao; sức ép nợ xấu còn nặng nề; hàng hóa trong nước tiêu thụ chậm; năng lực quản lý và cạnh tranh của doanh nghiệp thấp… Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong 4 năm đều đạt ở mức thấp, nhưng có xu hướng tăng dần, trong đó tốc độ tăng trưởng năm 2011 là 6,24%, năm 2012 là 5,03%, năm 2013 là 5,42% và năm 2014 là 5,98%. Doanh nghiệp hoạt động khó khăn, quy mô hàng tồn kho lớn, tuy nhiên xu hướng thanh lọc diễn ra mạnh mẽ đã phát huy hiệu quả để sàng lọc những doanh nghiệp thực sự có chất lượng, không chỉ linh hoạt để tồn tại qua giai đoạn khó khăn nhất mà còn tìm kiếm cơ hội kinh doanh mới để mở rộng quy mô hoạt động[18]. Sự ổn định trong mục tiêu điều hành kinh tế vĩ mô, cùng với sự tăng trưởng chậm từ phía cầu mặc dù có thể tạo ra những khó khăn cho tăng trưởng kinh tế, song đã tạo cho CSTT sự thuận lợi nhất định trong việc thực hiện các biện pháp để đạt được mục tiêu giảm tỷ lệ lạm phát và ổn định giá cả.

Mục tiêu điều hành CSTT

Trước những bối cảnh kinh tế vĩ mô như vậy, bước sang năm 2011, Chính phủ đã thay đổi định hướng, khẳng định mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô bằng tinh thần của Nghị quyết số 11/NQ-CP/2011 tháng 2 năm 2011. Đây dường như là lần đầu tiên có sự thống nhất trong tư tưởng chỉ đạo của Chính phủ cũng như những phản ứng của NHNN trước diễn biến của thị trường, thể hiện sự nhất quán cao của mục tiêu kiểm soát lạm phát. Bên cạnh đó, Chính phủ còn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phối hợp chặt chẽ giữa các chính sách vĩ mô, đặc biệt là giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa trong “cuộc chiến” chống lạm phát. Theo đó, Chính phủ xác định kiểm soát lạm phát nằm ở vị trí số 1 trong nhóm giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, cần điều hành CSTT chủ động, linh hoạt và thận trọng, chính sách tài khóa thắt chặt, kết hợp hài hòa giữa CSTT và chính sách tài khóa để kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán tín dụng, đảm bảo lãi suất ở mức hợp lý và đảm bảo thanh khoản cho nền kinh tế. Tuy nhiên, điều quan trọng là các chính sách cần thực hiện đồng bộ, hiệu quả đạt được các mục tiêu đề ra và đem lại niềm tin cho nhà đầu tư và dân chúng[3]. Cứ như vậy, mục tiêu điều hành của CSTT trong 4 năm cũng đã được duy trì tương đối ổn định, tập trung vào nhiệm vụ kiểm soát lạm phát. Sự thống nhất trong mục tiêu điều hành được kéo dài trong một khoảng thời gian 4 năm là một thuận lợi đối với CSTT để có thể phát huy tác dụng của các công cụ điều hành, hướng đến mục tiêu ổn định giá cả trong trung hạn từ đó củng cố lại niềm tin đối với CSTT.



Điều hành công cụ CSTT

Bảng 2.2: Mục tiêu và thực hiện CSTT 2005 - 2014



Năm

Chỉ tiêu

Tăng trưởng

Lạm phát

M2

Tín dụng

2005

Mục tiêu

8,5

<6,5

22

25




Thực hiện

8,44

8,4

29,65

31,1

2006

Mục tiêu

8

<8

23 – 25

18 – 20




Thực hiện

8,23

6,6

33,59

25,44

2007

Mục tiêu

8,2 – 8,5

<8

20 – 23

17 – 21




Thực hiện

8,46

12,6

46,12

53,89

2008

Mục tiêu

8,5 – 9

<10

32

30




Thực hiện

6,31

19,9

20,31

25,43

2009

Mục tiêu

5

<15

18 – 20

21 – 23




Thực hiện

5,32

6,5

28,99

37,53

2010

Mục tiêu

6,5

7 – 8

25

25




Thực hiện

6,78

11,8

33,3

31,19

2011

Mục tiêu

7

7










Thực hiện

5,9

18,52







2012

Mục tiêu

6 – 6,5

<10

14 – 16

15 – 17




Thực hiện

5,03

6,81

22,4

8,91

2013

Mục tiêu

5,5

6,5

14 – 16

12




Thực hiện

5,42

6,6

14,64




2014

Mục tiêu

5,8

7

16 – 18

12 – 14




Thực hiện

5,89

1,84

15,65




Nguồn: Vụ Chính sách tiền tệ - NHNN
Bắt đầu từ năm 2012, NHNN có xu hướng lấy lãi suất làm mục tiêu trung gian được lựa chọn trong điều hành CSTT. NHNN đã đưa ra mục tiêu giảm lãi suất từ đầu năm và thực hiện giảm lãi suất gần như đúng lộ trình với kết quả là mặt bằng lãi suất cho vay đã giảm từ khoảng 20%/năm cuối năm 2011, xuống còn trên dưới 10%. Mặc dù lãi suất danh nghĩa giảm, nhưng lãi suất thực vẫn tăng nên không gây áp lực lạm phát. Trong khi đó, nếu so với chỉ tiêu tăng M2 ban đầu là 14 – 16%, thì mức tăng cung tiền cuối năm đã vượt chỉ tiêu 6% (22,4%). Ngược lại chỉ tiêu tăng dư nợ tín dụng đưa ra đầu năm là 15 – 17%, sau đó được điều chỉnh giảm xuống còn 8 – 10%, thực tế cuối năm chỉ đạt 8,91%, thấp hơn so với chỉ tiêu ban đầu khoảng 8%. Việc hướng vào mục tiêu lãi suất thay cho mục tiêu mức cung ứng tiền và tín dụng là phù hợp khi nhìn vào mối quan hệ giữa mức cung tiền, dư nợ tín dụng và lạm phát trong những năm gần đây. Lạm phát cao là hệ quả của việc lạm dụng tín dụng và tăng mức cung tiền trong quá khứ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo Chu Khánh Lân và Lê Thị Tuấn Nghĩa (2012) việc giảm tốc độ tăng mức cung tiền không ngay lập tức cải thiện tình hình lạm phát và thường có độ trễ 6 tháng[19]

Để thực hiện được mục tiêu giảm lãi suất NHNN đã sử dụng cả các công cụ điều hành gián tiếp cũng như các biện pháp mang tính hành chính. Các mức lãi suất điều hành đã được điều chỉnh giảm tới 6 lần trong năm 2012, trong đó, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 15%/năm xuống còn 9%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 13%/năm xuống 7%/năm, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng từ 16% giảm xuống 10%. Công cụ trần lãi suất bắt đầu được áp dụng từ giữa năm 2011 tiếp tục được kiểm soát gắt gao trong năm 2012. Trần lãi suất huy động được điều chỉnh giảm 5 lần trong năm 2012, trong đó trần lãi suất tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng giảm từ 6% xuống còn 2%/năm; tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 12 tháng từ 14%/năm giảm xuống 8%/năm và cho phép các TCTD tự ấn định lãi suất tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên trên cơ sở cung – cầu vốn. Bên cạnh đó, lãi suất cho vay cũng được định hướng giảm dần thông qua việc quy định mức trần lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với các lĩnh vực ưu tiên là nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa và doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Mức trần lãi suất cho vay như vậy cũng được điều chỉnh giảm từ 15% xuống còn 12%, phù hợp với xu hướng giảm trần lãi suất tiền gửi[12]. Trong năm 2013, NHNN tiếp tục giảm 2%/năm đối với các mức lãi suất điều hành, giảm 3%/năm đối với lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với các lĩnh vực ưu tiên, giảm 1%/năm đối với lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi bằng VND, và từ cuối tháng 6/2013, cho phép các TCTD tự ấn định lãi suất tiền gửi VND có kỳ hạn 6 tháng trở lên. Nhờ đó mặt bằng lãi suất đén cối năm 2013, lãi suất cho vay phổ biến trong khoảng 8-11,5%/năm kỳ hạn ngắn và 11,5-13%/năm trung dài hạn. Năm 2014, mặt bằng lãi suất tiếp tục giảm 1,5% đến 2% so với cuối năm 2013, đưa mặt bằng lãi suất thấp hơn mức lãi suất của giai đoạn 2005-2006. Đến cuối năm 2014, dư nợ cho vay bằng VND có lãi suất trên 15%/năm chiếm khoảng 3,9% tổng dư nợ cho vay VND, giảm so với tỷ trọng 6,3% cuối năm 2013; dư nợ có lãi suất trên 13%/năm chiếm 10,65%, giảm so với tỷ trọng 19,72% cuối năm 2013. Đường cong lãi suất hình thành rõ nét, qua đó tạo điều kiện cho các TCTD huy động được nguồn vốn kỳ hạn dài và ổn định hơn, giảm chênh lệch kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ và giúp cho việc phân bổ vốn hiệu quả trong nền kinh tế[20]

Đối với ổn định tỷ giá, NHNN đã chọn cách thức công bố mục tiêu ổn định tỷ giá ngay từ đầu các năm với mức cam kết biến động tỷ giá không quá 2 – 3% trong năm 2012, 2013, và không quá 1 – 2% năm 2014 để tạo niềm tin và định hướng thị trường. Cùng với đó, NHNN đã sử dụng đồng loạt các biện pháp quản lý thị trường ngoại hối, thực hiện qui định về trạng thái ngoại tệ của TCTD, áp dụng trần lãi suất cho vay bằng USD, các hoạt động nhận gửi và cho vay ngoại tệ được chuyển sang hoạt động mua bán giúp cho hệ thống ngân hàng tăng mua được ngoại tệ từ công chúng. Tỷ giá và thị trường ngoại hối về cơ bản ổn định, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của tổ chức, cá nhân đều được đáp ứng đầy đủ, kịp thời, niềm tin vào VND được củng cố, nhờ đó NHNN tiếp tục mua được ngoại tệ để bổ sung Dự trữ ngoại hối Nhà nước lên mức kỷ lục. Tình trạng đô la hóa tiếp tục giảm (tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/tổng phương tiện thanh toán đạt khoảng 11,6%, giảm so với mức khoảng 12,4% của cuối năm 2012-2013).

Nhờ những nỗ lực như vậy, tốc độ tăng trưởng chỉ số giá tiêu dùng đã được duy trì ổn định qua các tháng, với tốc độ tăng trưởng trung bình là 0,39%/tháng. Năm 2012 tỷ lệ lạm phát đã giảm mạnh từ mức 18,52% của năm 2011 xuống còn 6,81%. Năm 2013 tỷ lệ lạm phát duy trì ở mức 6,6%. Đến năm 2014, tỷ lệ lạm phát của cả năm chỉ là 1,84%, đạt mức thấp nhất trong vòng hơn 1 thập kỷ trở lại đây.



Đánh giá kết quả điều hành CSTT giai đoạn 2011-2014

Những thành tựu đạt được

Kinh tế vĩ mô ổn định trở lại, lạm phát đã được kiểm soát, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế

Tỷ lệ lạm phát sau khi tăng cao và biến động mạnh trong giai đoạn 2005 – 2010, trong 4 năm trở lại đây đã được kiềm chế ở mức thấp (ngoại trừ năm 2011). Chu kỳ lạm phát ba năm (hai năm tăng, một năm giảm) kéo dài trong giai đoạn trước đây dường như đã được xóa bỏ, gợi ý rằng chu kỳ lạm phát tăng cao có thể đã chấm dứt và Việt Nam có thể đi vào một thời kỳ có mức tăng lạm phát ổn định hơn.

Với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ thận trọng nhằm ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ hệ thống doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn, CSTT của NHNN giai đoạn vừa qua đã góp phần duy trì đà tăng trưởng kinh tế nhất định trong điều kiện vĩ mô nhiều bất ổn. Dù chịu áp lực mở rộng tín dụng từ nhiều phía để thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam thoát khỏi suy thoái, NHNN vẫn kiên trì định hướng tăng trưởng tín dụng thận trọng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế theo nguyên tắc bảo đảm chất lượng tín dụng, hạn chế phân bổ vốn vào khu vực không khuyến khích có nguy cơ gây ra lạm phát cao và tăng trưởng thiếu bền vững trong tương lai. Bên cạnh đó, NHNN cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng ưu tiên tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, sản xuất hàng xuất khẩu…; điều chỉnh giảm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với năm nhóm lĩnh vực ưu tiên; kiểm soát tỷ trọng dư nợ cho vay đối với các lĩnh vực không khuyến khích. Nhờ vậy, tăng trưởng kinh tế tuy không phục hồi mạnh mẽ nhưng đã được cải thiện dần qua thời gian.

Biểu đồ 2.1: Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2004 – 2014



Nguồn: Tổng cục thống kê 2014

Diễn biến CSTT và lạm phát, tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn vừa qua đã cho thấy mục tiêu tăng trưởng không phải khi nào cũng có thể đánh đổi bằng mức lạm phát cao, bằng chứng là giai đoạn 2008 – 2010, tỷ lệ lạm phát cao song tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thường xuyên không đạt mục tiêu đề ra. Ngược lại trong các năm 2013, 2014, sự ổn định giá cả do CSTT mang lại lại có tác động lớn đối với ổn định kinh tế vĩ mô, do đó, thúc đầy phục hồi kinh tế.

Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ lạm phát giai đoạn 2009 – 2014 (%)



Nguồn: Tổng cục thống kê
Tình trạng đôla hóa, vàng hóa có xu hướng giảm, tỷ giá diễn biến ổn định, dự trữ ngoại hối được cải thiện

NHNN đã từng bước điều chỉnh tỷ giá về đúng giá trị thực, thông qua đó, làm giảm áp lực tăng giá nội tệ và đảm bảo lợi thế ngoại thương của hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Điều đáng nói là đã có sự thay đổi đáng kể trong cách thức điều hành tỷ giá. Đã có sự thông báo trước biên độ và chủ động điều chỉnh trong năm để giúp neo giữ kỳ vọng tỷ giá và tạo sự ổn định trên thị trường ngoại hối. Nếu như trong giai đoạn trước, tỷ giá thường được cố gắng neo giữ, sau đó, đến khi không thể neo giữ thêm thị đồng nội tệ được phá giá với biên độ lớn. Tuy nhiên, trong 3 năm trở lại đây, tỷ giá đã được điều chỉnh linh hoạt về mức giá trị thực, với nhiều lần điều chỉnh và mỗi lần điều chỉnh chỉ diễn ra với biên độ nhỏ (bảng 2.3) Cùng với đó là nỗ lực giảm mức đô la hóa trong nền kinh tế, tuyên bố rõ ràng và thực thi có kết quả các cam kết về biến động tỷ giá của NHNN, từ đó tạo dựng niềm tin của thị trường đối với chính sách tỷ giá.

Biểu đồ 2.3: Diễn biến giá vàng và biến động tỷ giá trên thị trường tự do

giai đoạn 2007 – 2014





Nguồn:Vụ Quản lý ngoại hối - NHNN, Reuters
Tình trạng đô la hóa tiền mặt đã được kiểm soát nhờ những hoạt động kiểm tra chặt chẽ và ráo riết của NHNN phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc hạn chế, phát hiện và xử lý các trường hợp mua bán ngoại tệ trái quy định của pháp luật.Tình trạng đô la hóa bảng tổng kết tài sản của hệ thống ngân hàng cũng giảm, thể hiện qua tỷ lệ tăng trưởng huy động vốn ngoại tệ giảm mạnh (biểu đồ 2.4)

Bảng 2.3: Các bước điều chỉnh tỷ giá USD/VND qua hai giai đoạn



Giai đoạn

Số lần điều chỉnh

Số lần điều chỉnh/năm

Tổng mức điều chỉnh

Bình quân mức điều chỉnh/năm

2007-2011

6

1

28,4%

4,7%

2012-2015

5

1,25

5%

1,25%

Nguồn: Vụ quản lý ngoại hối - NHNN

Biểu đồ 2.4: Tốc độ huy động vốn ngoại tệ giai đoạn 2008-2014





Nguồn: Vụ Dự báo thống kê tiền tệ - NHNN

Nguồn: Vụ Dự báo thống kê tiền tệ - NHNN










Cùng với diễn biến tương đối ổn định của tỷ giá và xu hướng giảm của tình trạng đô la hóa, dự trữ ngoại hối của Việt Nam đạt mức cao nhất trong lịch sử, hơn 35 tỷ USD vào tháng 6/2014 (chưa kể vàng) do NHNN đã mua được lượng lớn ngoại tệ bổ sung(biểu đồ 2.5). Điều này vừa làm tăng khả năng kiểm soát tỷ giá của NHNN, đồng thời góp phần nâng cao niềm tin của công chúng đối với các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ.

Biểu đồ 2.5: Cán cân thanh toán tổng thể





Nguồn: Vụ Chính sách tiền tệ -NHNN
Lãi suất được điều hành theo hướng giảm dần nhưng vẫn đảm bảo mức chênh lệch đáng kể giữa lãi suất VND và lãi suất USD, giúp gia tăng lợi ích cho người dân nắm giữ VND.

Nhờ sự điều hành hợp lý và khéo léo của chính sách tiền tệ trong thời gian qua đã giúp Việt nam đạt được mục tiêu ổn định lạm phát và tỷ giá đồng thời cũng hỗ trợ được cho tăng trưởng GDP. Điều đáng nhấn mạnh ở đây là sự thành công trong điều hành chính sách lãi suất trong giai đoạn 2012-2014 so với giai đoạn trước đó thể hiện rõ nét ở việc lãi suất thị trường giảm nhưng chênh lệch giữa lãi suất VND và lãi suất USD cũng được thu hẹp đáng kể trong khi tỷ giá vẫn ổn định (Biểu đồ 2.6). Đây là một minh chứng cho thấy chính sách tiền tệ của NHNN một mặt vừa giúp tăng cường được vị thế của đồng Việt Nam, mặt khác thông qua việc giảm được lãi suất thị trường đã giúp cho các doanh nghiệp nâng cao hơn nữa khả năng tiếp cận vốn giúp hỗ trợ tích cực cho sự hồi phục của nền kinh tế.

Biểu đồ 2.6: Chênh lệch lãi suất huy động
VND và USD




Nguồn: Vụ Quản lý ngoại hối - NHNN

Ưu điểm trong điều hành CSTT

Giai đoạn 2012 – 2014, có thể thấy những thay đổi chủ yếu của CSTT so với giai đoạn trước thể hiện ở những điểm sau:

- Thứ nhất, mục tiêu ổn định giá cả được ưu tiên hàng đầu và có thể coi như là mục tiêu duy nhất của CSTT trong giai đoạn này. Việc duy trì mục tiêu ổn định giá cả trong cả 3 năm đảm bảo để CSTT có thể thực hiện nhất quán trong trung hạn, và do vậy, phát huy được hiệu lực chính sách cũng như bước đầu tạo dựng được niềm tin đối với công chúng.

- Thứ hai, điều hành CSTT đã chủ động định hướng, dẫn dắt thị trường thay vì chạy theo thị trường như giai đoạn trước đây. Việc điều chỉnh chính sách được NHNN thông báo trước đến dân chúng và được điều chỉnh theo lộ trình tránh gây sốc cho nền kinh tế, điều này giúp cho kỳ vọng lạm phát được kiểm soát tốt, giúp cho việc điều hành của NHNN đi đúng hướng, đạt mục tiêu đề ra.

- Thứ ba, mục tiêu trung gian của CSTT đã có xu hướng chuyển từ khối lượng tiền tệ (thể hiện qua tốc độ tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tốc độ tăng trưởng tín dụng hàng năm) sang mục tiêu lãi suất. Tuy nhiên, các biện pháp điều hành vẫn mang nhiều tính hành chính thông qua việc khống chế, ấn định mức lãi suất kinh doanh của hệ thống ngân hàng. Do vậy đòi hỏi phải có sự hoàn thiện hơn nữa các công cụ CSTT để có thể điều hành hiệu quả CSTT qua kênh lãi suất.

- Thứ tư, NHNN đã thúc đẩy mạnh mẽ công tác thông tin truyền thông, các thông điệp về CSTT được truyền đạt thường xuyên và rõ ràng với sự cam kết chắc chắn từ phía NHNN đã dần tạo dựng được niềm tin của thị trường đối với hiệu quả của CSTT. Trong đó, có thể thấy những cam kết của NHNN thể hiện rõ nét nhất ở 2 chỉ số là lãi suất và tỷ giá, với các cam kết được thể hiện bằng con số rõ ràng, lộ trình thực hiện cụ thể, từng bước thực hiện các mục tiêu ngắn hạn đúng như mức cam kết để hướng tới việc đạt được mục tiêu trong dài hạn. Đồng thời, việc truyền thông chính sách kịp thời trong giai đoạn vừa qua đã giúp cho dân chúng hiểu rõ hơn về những hành động của NHNN trong thay đổi chính sách, tạo được sự đồng thuận cao từ thị trường giúp NHNN thực hiện tốt mục tiêu của mình.

- Thứ năm, NHNN đã quan tâm đến việc đảm bảo kỷ luật thị trường, điều hành CSTT được song hành chặt chẽ với công tác thanh tra, giám sát giúp cho các chính sách của NHNN được triển khai nghiêm túc, góp phần giúp cơ chế truyền tải CSTT được vận hành tốt hơn.


Каталог: upload -> 4989
upload -> 1. Most doctors and nurses have to work on a once or twice a week at the hospital
upload -> TrầnTrang EnglishTheory Phonetics
upload -> BỘ khoa học và CÔng nghệ TÀi liệu hưỚng dẫN
upload -> TÀi liệu hưỚng dẫn sử DỤng dịch vụ HỘi nghị truyền hình trực tuyếN
upload -> BỘ thông tin truyềN thông thuyết minh đỀ TÀi xây dựng quy chuẩn kỹ thuật thiết bị giải mã truyền hình số MẶT ĐẤt set – top box (stb)
upload -> CHỦ TỊch nưỚC
upload -> CHỦ TỊch nưỚC
upload -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
upload -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
4989 -> Số: 1648/QĐ-hvnh-sđH

tải về 1.63 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương