HÀ NỘI, 2015 BỘ giáo dục và ĐÀo tạo ngân hàng nhà NƯỚc việt nam


Hạn chế trong điều hành CSTT



tải về 1.63 Mb.
trang6/17
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích1.63 Mb.
#15427
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17

Hạn chế trong điều hành CSTT


Thứ nhất, chưa xác định rõ và nhất quán mục tiêu ngắn hạn và dài hạn của CSTT

Bắt đầu được quy định từ Luật NHNN 1997, CSTT ở Việt Nam được xác định là “một bộ phận chính sách kinh tế - tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh và nâng cao đời sống người dân”. Theo đó, CSTT của Việt Nam được hướng tới đa mục tiêu, vừa ổn định giá trị đồng tiền, đồng thời góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Đến Luật NHNN 2010, đã có sự thay đổi trong việc xác định khuôn khổ CSTT, theo đó, “CSTT quốc gia là quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thầm quyền bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra”. Như vậy theo Luật NHNN 2010, đã không còn quy định mục tiêu của CSTT, mà chỉ đề cập đến 2 cấu phần của CSTT bao gồm: quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền (được thể hiện thông qua chỉ tiêu lạm phát hàng năm do Quốc hội quyết định) và quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra. Luật NHNN 2010 đã có sự đổi mới rõ rệt so với với Luật 1997 trong việc quy định xác định khuôn khổ CSTT, thể hiện qua việc chỉ đề cập đến một mục tiêu duy nhất là ổn định giá trị đồng tiền bằng chỉ tiêu lạm phát. Các công cụ và biện pháp thực hiện cũng được khẳng định là chỉ để thực hiện mục tiêu đề ra. Song vấn đề này lại không được đề cập ở khía cạnh mục tiêu, mà được đề cập như một cấu phần hành động CSTT- hành động quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền được thực thi bởi Quốc hội. Bởi vì định nghĩa về ổn định giá trị đồng tiền không được quy định một cách rõ ràng trong Luật NHNN 2010, và việc quyết định mục tiêu lạm phát được tiến hành hàng năm, nằm trong khuôn khổ các mục tiêu về phát triển kinh tế xã hội, do vậy, mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền được quyết định theo cách thức như vậy khó có thể đảm bảo tính nhất quán trong dài hạn.

Có thể thấy khuôn khổ CSTT của Việt Nam đã bước đầu được chuyển đổi từ đa mục tiêu sang đơn mục tiêu, nhưng mới dừng ở việc hướng tới mục tiêu duy nhất là mục tiêu về giá trị đồng tiền (do Quốc hội quyết định) mà không phải là mục tiêu duy trì giá trị đồng tiền ở mức thấp và ổn định như thường thấy theo kinh nghiệm ở các nước. Điều này khiến cho khuôn khổ CSTT phụ thuộc rất nhiều vào việc quyết định định hướng phát triển kinh tế xã hội hàng năm của Quốc hội và điều hành chính sách kinh tế xã hội hàng năm của Chính phủ, điều này chưa giải quyết được các vấn đề về tính độc lập tương đối của CSTT và mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền trong dài hạn.



Thứ hai, mục tiêu điều hành CSTT đã đạt được trong một giai đoạn ngắn gần đây, song còn chưa bền vững, hiệu quả, hiệu lực của các công cụ CSTT còn chưa cao đặc biệt khi vai trò của từng công cụ và hệ thống mục tiêu điều hành chưa được xác định rõ ràng, khả năng kiểm soát và mối liên hệ giữa các biến còn chưa chặt chẽ, độ trễ chính sách còn dài.

Trên cơ sở phân tích phương thức điều hành CSTT cho thấy, mặc dù đã có những kết quả đáng ghi nhận đối với công tác kiểm soát lạm phát trong 3 năm trở lại đây, song nếu xét cho cả giai đoạn nghiên cứu thì vẫn còn có những tồn tại và hạn chế nhất định. Từ năm 2000 - 2010, hàng năm NHNN phấn đấu kiểm soát lạm phát ở mức cụ thể được Quốc hội phê chuẩn dựa trên mục tiêu đã đặt ra trong kỳ chiến lược 2000 – 2010, nhưng trên thực tế thì phần lớn là không đạt được (2004 - 2008). Kết quả điều hành, đặc biệt kể từ năm 2004 đến nay là một minh chứng cụ thể khi mục tiêu chính là lạm phát lại không thực hiện được. Mặc dù vậy, những hạn chế này đã không xuất hiện trở lại trong những năm gần đây, công tác điều hành CSTT để kiểm soát NHNN đã đạt được những kết quả nhất định, lạm phát năm 2012 và 2013 và 2014 đều thấp hơn mục tiêu đặt ra. Tuy nhiên, diễn biến hiện tại của lạm phát chưa có đủ cơ sở để khẳng định là bền vững và kết quả điều hành mới chỉ được thể hiện trong 3 năm nên về cơ bản khi xét đến kết quả điều hành của một giai đoạn thì công tác điều hành CSTT của NHNN để đạt được mục tiêu kiềm chế, kiểm soát lạm phát vẫn còn tiếp tục phải cố gắng. Có thể xem xét cụ thể thông qua việc đánh giá chi tiết phương thức điều hành và sử dụng công cụ CSTT giai đoạn này như sau:



+ Mục tiêu hoạt động , mục tiêu trung gian và mục tiêu cuối cùng chưa thực sự được đảm bảo tính thống nhất

NHNN lựa chọn MB làm mục tiêu hoạt động và M2, tăng trưởng tín dụng làm mục tiêu trung gian của CSTT. Tuy nhiên, có thể thấy rõ ràng là tác động của M2 đến các biến số vĩ mô của nền kinh tế còn lỏng lẻo và việc điều chỉnh quá mạnh M2 có thể gây những cú sốc tiêu cực đối với nền kinh tế. Điều này được thể hiện khi xem xét mối quan hệ giữa cung tiền M2 với lạm phát và tăng trưởng kinh tế.


Biểu đồ 2.7: Tổng phương tiện thanh toán và lạm phát giai đoạn 2006-2014



Nguồn: Vụ Chính sách tiền tệ -Ngân hàng Nhà nước, Tổng cục Thống kê
Như vậy có thể thấy, mặc dù chính sách tiền tệ có tác động nhất định đến lạm phát tại Việt Nam, nhưng độ trễ chính sách ở đây là khá dài và đang có xu hướng tăng theo thời gian, nghiên cứu của Nguyễn Phi Lân (2012) cũng chỉ ra độ trễ chính sách khoảng 6 – 9 tháng. Chính điều này đã tạo những cản trở nhất định trong việc điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt của NHNN, và theo đó bộc lộ sự không phù hợp nhất định trong việc lựa chọn cung tiền làm mục tiêu của chính sách tiền tệ.

+Việc kiểm soát cung tiền của NHNN bộc lộ những hạn chế



Trước hết, Ngân hàng Nhà nước chưa thực sự kiểm soát hết các nhân tố tác động đến M2, đặc biệt là nhân tố cho vay Chính phủ ròng và tín dụng cho nền kinh tế.

Khoản mục cho vay Chính phủ ròng bao gồm các nguồn thu, chi của Chính phủ. NHNN dự báo cho vay Chính phủ ròng được thực hiện trên cơ sở số liệu dự toán ngân sách về kế hoạch thu, chi ngân sách hàng năm. Để có thể dự báo chính xác sự biến động của khoản mục này, NHNN cần được cung cấp đầy đủ, kịp thông các thông tin về các diễn biến thực tế về thu, chi ngân sách cũng như kế hoạch thu, chi ngân sách, kế hoạch giải ngân tối thiểu theo định kỳ hàng tháng. Tuy nhiên, hiện nay sự phối hợp giữa Bộ Tài chính và NHNN trong việc cung cấp thông tin này còn hạn chế, phần lớn các số liệu thu chi ngân sách hàng tháng đều là số liệu ước tính, dự báo, không kịp thời về thời gian. Bên cạnh đó, chênh lệch giữa kế hoạch ngân sách và thực tế ở Việt Nam là khá lớn (ở các nước phát triển, số liệu về kế hoạch và thực hiện thường ít chênh lệch), đặc biệt là chênh lệch về kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản với giải ngân, dẫn tới kết quả dự báo khoản mục này có nhiều sai lệch.

Cung tiền với tư cách là mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ Việt Nam, được xem là động lực để kích thích tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, một thực trạng trong những năm qua cũng cho thấy cung tiền tăng trưởng nhiều, nhưng sản lượng đầu ra, tốc độ tăng trưởng GDP không được nâng cao, thậm chí giảm xuống trong những năm gần đây(5,03% năm 2013). Điều này cho thấy vai trò kích thích tăng trưởng của tiền tệ nói chung, hay cụ thể hơn là vốn đang ngày càng giảm dần. Điều này được được.thể hiện rõ qua xu hướng tăng của hệ số ICOR tại Việt Nam trong những năm qua.

Biểu đồ 2.8: Tỷ trọng đóng góp các yếu tố vào tăng trưởng Việt Nam BQ giai đoạn 2006-2014



Biểu đồ 2.8: Tỷ trọng đóng góp các yếu tố vào tăng trưởng Việt Nam BQ giai đoạn 2006-2014





Nguồn Tổng Cục thống kê

Biểu đồ 2.9: Hệ số ICOR của Việt Nam giai đoạn 2006-2014





Biểu đồ 2.9: Hệ số ICOR của Việt Nam giai đoạn 2006-2014



















Nguồn: Tổng cục Thống kê

Biểu đồ 2.10: Cơ cấu dư nợ tín dụng theo lĩnh vực giai đoạn 2011 - 2014





Nguồn: Vụ Tín dụng các ngành kinh tế - Ngân hàng Nhà nước
Tóm lại, mối quan hệ giữa cung tiền với các biến số vĩ mô cơ bản bao gồm lạm phát và tăng trưởng kinh tế cũng ngày càng thiếu khăng khít, đặc biệt là đối với tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, yêu cầu một sự lựa chọn mới về biến số làm mục tiêu trung gian trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam sẽ phù hợp hơn.

+Khả năng chi phối của MB đối với tổng phương tiện thanh toán trong ngắn hạn là rất hạn chế.

Tổng khối lượng tiền cơ bản MB được coi là mục tiêu hoạt động bởi NHNN muốn tạo ra sự kết nối trực tiếp tác động tới tổng khối lượng tiền cung ứng M2 và tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế là các mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ Việt Nam. Tuy nhiên, quan sát diễn biến MB và tổng phương tiện thanh toán M2 giai đoạn 2006-2013 cho thấy M2 chịu ảnh hưởng mạnh của sự biến động hệ số nhân tiền hơn là MB.

Biểu đồ 2.11: Lượng tiền cơ sở và mức tăng trưởng cung tiền từ 2006-2014





Nguồn: Vụ Chính sách tiền tệ - NHNN Việt Nam

Giai đoạn 2006-2008 mức cung tiền M2 tăng chủ yếu do lượng cung tiền cơ sở MB (tăng 59.4%) bởi hệ số nhân tiền khá ổn định từ 2,44 – 3,72 [15]. Lượng tiền cơ sở tăng mạnh là do NHNN đã bơm ra môt lượng tiền mặt lớn để trung hòa lượng lớn ngoại tệ đổ vào Việt Nam năm 2007. Tuy nhiên, giai đoạn 2009-2010 mức cung tiền M2 tăng lại do tác động chủ yếu từ hệ số nhân tiền tăng từ 2,94 lên 5,21, mặc dù lượng tiền cơ sở MB cũng tăng ở mức vừa phải từ kết quả của chính sách kích cầu chống suy giảm kinh tế của Chính phủ. Lý do khiến hệ số nhân tiền tăng mạnh như vậy vì tỷ lệ tiền ngoài hệ thống ngân hàng có xu hướng giảm dần ( Tỷ lệ tiền ngoài hệ thống ngân hàng đã giảm từ mức trên 50% năm 1996-1997 xuống 25-30% vào năm 2005-2006 và chỉ còn 14-18% năm 2010) Ngoài ra, tỷ lệ dự trữ bắt buộc giảm cũng làm cho hệ số tạo tiền gia tăng.( Kể từ cuối năm 2008 NHNN điều hành chính sách tiền tệ nới lỏng nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu xảy ra, theo đó tỷ lệ dự trữ bắt buộc điều chỉnh từ 10% (tháng 11/2008) xuống 5% (tháng 1/2009) và xuống 3% (tháng 2/2009) và duy trì tỷ lệ này cho đến nay)

+ NHNN cũng chưa kiểm soát hết toàn bộ các nhân tố làm thay đổi MB hay nói cách khác là NHNN chưa chủ động kiểm soát được các kênh cung ứng tiền cơ sở.

Năm 1992, Quốc hội thông qua quyết định chấm dứt sử dụng việc in tiền để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của NSNN. Tuy nhiên, thực tế tình trạng phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách vẫn diễn ra trong thực tiễn một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Tiền tệ hóa trực tiếp các khoản nợ Chính phủ còn được thực hiện qua hoạt động cho vay chỉ định qua kênh tái cấp vốn. Thực chất qua kênh này NHNN cấp vốn thay cho NSNN thông qua kênh tín dụng để hỗ trợ vốn cho các đối tượng theo quy định của NHNN, điển hình là các gói kích cầu, hỗ trợ lãi suất với 17.000 tỷ năm 2009 và thời gian gần đây là gói hỗ trợ 30.000 tỷ cho nhà ở xã hội vào 5/2013. Đây là khoản tín dụng trực tiếp làm tăng mức cung tiền cơ sở MB của NHTW.

Việc tiền tệ hóa các khoản nợ Chính phủ còn được thực hiện một cách gián tiếp theo cách thức như sau: Bội chi ngân sách được tài trợ phần lớn bởi phát hànhT PCP. Trong giai đoạn 2006-2012, khối lượng trái phiếu Chính phủ đã phát hành đạt trên 450 nghìn tỷ đồng, chiếm 39% tổng huy động vốn vay của Chính phủ trong giai đoạn này, bình quân khoảng 65 nghìn tỷ đồng/năm. TPCP và TPCP bảo lãnh chủ yếu được bán cho các NHTM lớn. Lượng trái phiếu này sau đó được các NHTM bán lại cho NHNN để lấy tiền mặt thông qua nghiệp vụ thị trường mở hoặc cầm cố vay vốn tại NHNN qua việc tái cấp vốn do chênh lệch giữa lãi suất TPCP và lãi suất OMO, lãi suất tái chiết khấu lớn (3-4%). Như vậy bội chi ngân sách tài trợ qua phát hành trái phiếu cũng đã gián tiếp dẫn đến sự gia tăng mạnh của cung ứng tiền. Theo số liệu thống kê của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX), năm 2011, tổng lượng TPCP và TPCP bảo lãnh đang lưu hành có giá trị vào khoảng 336 nghìn tỉ đồng, tương đương với hơn 13% GDP danh nghĩa và gần 12% cung tiền M2 trong năm này.

Như vậy, sự biến động thường xuyên số dư tiền gửi của NSNN tại hệ thống NHTM đã làm giảm khả năng dự báo chính xác mức cung tiền M2 của NHNN. Việc tiền tệ hóa các khoản nợ của chính phủ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, việc điều chỉnh tỷ giá theo mục tiêu khiến NHNN không độc lập trong việc chi phối các kênh cung ứng tiền cơ sở MB. Khác biệt lớn giữa M2, tăng trưởng tín dụng theo kế hoạch với M2, tăng trưởng tín dụng thực hiện càng cho thấy sự không chắc chắn của việc lựa chọn mục tiêu này.



Bảng 2.4: Diễn biến cung tiền và tăng trưởng tín dụng 2004-2013

Chỉ tiêu

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

M2


Mục tiêu

22

22

23-25

20-23

32

18-20

25

15-16

14-16

14-16

16-18

Thực hiện

30,4

29,6

33,6

46,1

20,3

29

33,3

12,4

22,4

18,5

18.1

Tín dụng

Mục tiêu

25

25

18-20

17-21

30

21-23

25

20

15-17

12

12-14

Thực hiện

41,6

31,1

25,4

53,9

25,4

37,5

31,2

14,4

8,9

12,5

14.16

Nguồn: Vụ Chính sách tiền tệ - NHNN

Nguyên nhân của hạn chế

- Tính độc lập của NHNN với vai trò là NHTW còn hạn chế

Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là chức năng, thẩm quyền của Ngân hàng Nhà nước trong hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia còn thấp. Không chỉ có Quốc hội, Chính phủ mà còn có nhiều cơ quan Nhà nước khác cũng tham gia chỉ đạo, giám sát xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ. Có thể nói, sự chi phối quá sâu của Chính phủ đã làm giảm tính độc lập, chủ động của NHNN trong việc điều hành chính sách tiền tệ.

Bên cạnh đó, do bị giới hạn bởi chỉ tiêu lượng tiền cung ứng đã được xác định và phê duyệt hàng quý, hàng năm nên NHNN thường mất đi tính linh hoạt, chủ động trong việc điều tiết thị trường, đặc biệt khi thị trường biến động mạnh. Cụ thể, theo quy định của Luật NHNN, Chính phủ quyết định lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông từng năm. Dựa trên cơ sở các chỉ tiêu kinh tế xã hội của Chính phủ như tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát và các chỉ số kinh tế vĩ mô khác, NHNN sẽ tính toán lượng tiền cung ứng tăng thêm hàng năm để trình Chính phủ phê duyệt. Hàng quý, NHNN tính toán lượng tiền cung ứng tăng thêm cho từng mục tiêu như mua ngoại tệ, cho vay tái cấp vốn (OMO, chiết khấu, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, hoán đổi ngoại tệ ...) trong phạm vi cung tiền đã được duyệt cho cả năm. Trong trường hợp thị trường gặp phải những bất lợi như thanh khoản của hệ thống ngân hàng thấp, nhưng NHNN không thể cung ứng khả năng thanh toán cho ngân hàng vì bị giới hạn lượng tiền cung ứng đã phê duyệt sẽ dẫn tới căng thẳng thanh khoản trên thị trường liên ngân hàng, theo đó lãi suất liên ngân hàng sẽ tăng, gây bất ổn cho thị trường tiền tệ.

- Thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển, cơ chế truyền tải CSTT chưa hoàn thiện dẫn đến việc NHNN phải sử dụng nhiều biện pháp quản lý mang tính hành chính để điều hành CSTT

Trong thời gian qua, NHNN đã phối hợp các công cụ một cách linh hoạt, tuy nhiên nhiều biện pháp can thiệp hành chính được sử dụng.

Từ tháng 6/2002, NHNN Việt Nam đã áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận, xóa bỏ biên độ khống chế lãi suất cho vay, cho phép các TCTD và khách hàng tự thỏa thuận lãi suất cho vay. Tuy nhiên trong thời điểm thị trường biến động mạnh, để kiểm soát được mức lãi suất tăng cao thì NHNN đã áp dụng các biện pháp kiểm soát mang tính hành chính như trần lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay tối đa đối với các lĩnh vực ưu tiên….Mặc dù các công cụ trực tiếp này đã phát huy tác dụng như kiểm soát lạm phát và sau đó là hỗ trợ các doanh nghiệp vay vốn, nhưng hệ quả để lại cũng không hề nhỏ.Việc quy định mức lãi suất như nhau cho các ngân hàng khác nhau về mức rủi ro khiến các NHTMCP nhỏ gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn trên thị trường. Khó khăn trong hoạt động huy động vốn kết hợp với CSTT thắt chặt của NHNN khiến nhiều NHTM này phải sử dụng nguồn vốn trên TTLNH không chỉ cho mục đích về thanh khoản mà còn như một nguồn vốn huy động để cho vay trung, dài hạn đối với khách hàng. Điều này đã gây ra rủi ro lớn cho các NHTM có quy mô nhỏ, nhưng đồng thời lại có những ngân hàng lớn sử dụng các hoạt động kinh doanh trên TTLNH để kiếm lợi và điều chỉnh hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR) một cách hình thức. (Với thủ thuật cho vay chéo, các NHTM đã làm tăng hệ số an toàn vốn tối thiểu của mình mà không vi phạm quy định của NHNN.)

Các hành động như vậy một mặt đẩy lãi suất TTLNH tăng lên cao và do đó, lãi suất đi vay tăng mạnh, mặt khác làm méo mó vai trò vốn có của thị trường TTLNH. Thêm vào đó, trần lãi suất không bảo đảm mức lãi suất thực dương và thấp hơn mức lãi suất cân bằng đã khiến nhiều TCTD thực hiện các biện pháp trái với quy định và cạnh tranh thiếu lành mạnh về lãi suất.



- Khả năng phân tích, dự báo của NHNN để hoạch định chính sách và điều hành thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng, nhất là trong trung và dài hạn vẫn còn hạn chế.

Trong thời gian gần đây, mặc dù công tác phân tích, dự báo của NHNN đã có nhiều đổi mới, song nếu xét trong cả giai đoạn nghiên cứu thì vẫn còn nhiều bất cập. Hiện tại NHNN chưa xác định được mô hình kinh tế lượng hoàn chỉnh dự báo cầu tiền, mô hình đo lường mức độ tác động của những thay đổi lãi suất, tỷ giá đến tăng trưởng, lạm phát,... Do vậy đã hạn chế tính chủ động và hiệu quả trong việc điều hành CSTT;



-Tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế đã được đẩy lùi một bước, nhưng chưa triệt để, chưa bền vững; nguồn ngoại tệ trôi nổi ngoài hệ thống ngân hàng còn lớn; việc sử dụng ngoại tệ, thanh toán bằng ngoại tệ trong nước vẫn tồn tại.

- Hệ thống các TCTD tuy đã được củng cố một bước thông qua tái cơ cấu, nhưng phát triển chưa bền vững, dễ bị tổn thương và rủi ro hệ thống còn lớn, năng suất lao động sức cạnh tranh còn thấp so với hệ thống ngân hàng các nước trong khu vực và thế giới

+ Nợ xấu tuy đã được giải quyết bằng nhiều giải pháp, nhưng kết quả xử lý còn chậm và tiềm ẩn gia tăng do sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn, chậm phục hồi. Rủi ro phát sinh nợ xấu từ nhóm khách hàng nhạy cảm nếu không có giải pháp và lộ trình xử lý hợp lý.

+ Năng lực quản lý, quản trị điều hành, quản trị rủi ro của nhiều TCTD còn nhiều hạn chế; nhiều sai phạm, tiêu cực chậm được phát hiện, chất lượng nhân lực chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển và hội nhập của ngành ngân hàng;

+ Công nghệ ngân hàng vẫn chưa theo kịp nhu cầu phát triển nhanh và hội nhập quốc tế; hạ tầng công nghệ giữa các TCTD còn nhiều chênh lệch và chưa có sự gắn kết, hiệu quả khai thác cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong ngành chưa cao.



+ Cấu trúc mạng lưới còn chưa hợp lý, khả năng tiếp cận và chất lượng dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế chưa cao

Mạng lưới giao dịch, sản phẩm dịch vụ ngân hàng của các TCTD ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa chưa phát triển, chưa đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn tín dụng và các dịch vụ ngân hàng của khách hàng ở các khu vực này (Năm 2013, có tới 71% số lượng chi nhánh, phòng giao dịch ngân hàng tập trung tại 15 tình, thành phố lớn. Riêng Hà Nội, TP Hồ Chí Minh có tới 3570 chi nhánh, phòng giao dịch, chiếm tới 40% so với toàn quốc)

Một số TCTD chưa có đủ điều kiện đầu tư công nghệ hiện đại, chất lượng dịch vụ thanh toán và các tiện ích ngân hàng khác chưa cao, chưa thuận lợi cho người sử dụng (Hiện các ngân hàng nước ngoài và một số NHTM lớn của Việt Nam đã chủ động triển khai các hệ thống sản phẩm công nghệ điện tử; trong khi đó nhiều ngân hàng TMCP nhỏ vẫn còn tiếp tục thuê tư vấn, lựa chọn các giải pháp đầu tư và nâng cấp hệ thống công nghệ).

+ Năng lực giám sát an toàn đối với hệ thống ngân hàng còn hạn chế, đặc biệt là khả năng giám sát vĩ mô. Năng lực kinh doanh, quản trị điều hành, quản trị rủi ro của nhiều TCTD còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Một số các TCTD thiếu tầm nhìn tổng thể, dài hạn, nặng về chạy theo lợi nhuận, lợi ích trước mắt, thiếu quản lý kiểm soát chặt chẽ dẫn đến gia tăng rủi ro.

+ Kỷ cương, kỷ luật, đạo đức trong hoạt động kinh doanh ngân hàng chưa được chú trọng đúng mức. Các hành vi lạm dụng, cấu kết với khách hàng, vi phạm pháp luật về ngân hàng, cạnh tranh không lành mạnh chưa được phát hiện và xử lý kịp thời.

- Cơ sở hạ tầng tài chính chưa hoàn chỉnh.

Tốc độ phát triển và ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại nói chung, công nghệ thông tin nói riêng còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện hoạt động ngân hàng, yêu cầu về hội nhập với khu vực và quốc tế; Trình độ ứng dụng công nghệ thông tin giữa các TCTD chưa đồng đều là yếu tố cản trở việc ứng dụng các nghiệp vụ mới, hiện đại để phát triển và cung ứng các dịch vụ tiện lợi, an toàn, chất lượng cao cho xã hội.



- Sự phối hợp chưa chặt chẽ giữa CSTT với các chính sách kinh tế vĩ mô chưa thực sự hiệu quả

Việc phối hợp giữa các Bộ ngành quản lý mặc dù gần đây đã có những bước đổi mới thể hiện: (i) Đã có hệ thống văn bản pháp lý quy định chặt chẽ về công tác phối hợp giữa các Bộ, ngành địa phương trong việc điều hành kinh tế vĩ mô; (ii) Chính phủ, NHNN, các Bộ ngành đã thực hiện đúng các chức năng nhiệm vụ trong chỉ đạo điều hành, thể hiện tính chủ động và trách nhiệm trong hoạch định và thực thi CSTT,Quy chế phối hợp trong quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô số 9078/BKHĐT-BTC-BCT-NHNN ngày 02/12/2014 đã được NHNN, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Công thương thống nhất ban hành nhằm góp phần thực hiện tốt Quy chế làm việc của Chính phủ; tăng cường tính thống nhất, hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế vĩ mô; ứng phó kịp thời, hiệu quả với các biến động kinh tế - xã hội trong và ngoài nước trong từng thời kỳ; Tuy nhiên hiệu quả phối hợp vẫn dừng ở bước đầu, còn phải cải thiện khá nhiều mới có thể đáp ứng như kỳ vọng của Chính phủ và nhân dân thể hiện: Thứ nhất, việc phối hợp mới chỉ hướng tới giải quyết từng mục tiêu vĩ mô ưu tiên trong từng thời điểm chứ chưa thực sự có sự phối hợp để giải quyết đồng bộ tất cả các mục tiêu vĩ mô, đây cũng là một trong những lý do khiến nhiều ý kiến cho rằng điều hành kinh tế ”giật cục”, chỉ tập trung giải quyết từng mục tiêu vĩ mô mà chưa xem xét tổng thể tới các mục tiêu vĩ mô khác. Thứ hai là sự phối hợp để giữa quyết mối quan hệ giữa các mục tiêu chính sách dài hạn và ngắn hạn chưa có sự thống nhất, xuyên suốt. Các mục tiêu ngắn hạn của chính sách chưa gắn kết với các mục tiêu dài hạn dẫn đến có sự mâu thuẫn, khắc chế lẫn nhau; các mục tiêu dài hạn của quốc gia chưa thực sự được cụ thể hóa bằng các mục tiêu ngắn hạn. Thứ ba là sự phối hợp trong nhiều trường hợp chưa thật nhịp nhàng về liều lượng, chưa kịp thời và đồng bộ về thời gian và không gian (đặc biệt là phối hợp giữa chính sách tài chính và CSTT; giữa chính sách tài chính, tiền tệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác, giữa tài chính – tiền tệ và sản xuất. Sự hạn chế này sẽ ảnh hưởng nhất định đến tính nhất quán giữa CSTT và các chính sách kinh tế vĩ mô, qua đó làm giảm hiệu quả điều hành CSTT.


2.1.3. Sự cần thiết đổi mới phương thức điều hành chính sách tiền tệ sang khuôn khổ Chính sách lạm phát mục tiêu


Đứng trước những hạn chế của khuôn khổ điều hành CSTT của Việt Nam hiện nay có thể thấy một số vấn đề cơ bản đặt ra là:

- Cần có một mục tiêu duy trì lạm phát ở mức thấp và ổn định được đặt ra một cách mạnh mẽ trong dài hạn đối với CSTT để có thể đảm bảo được tính bền vững của kiểm soát lạm phát. Mục tiêu này không chỉ được thể hiện trong định hướng điều hành chính sách kinh tế - xã hội trong từng năm mà đòi hỏi phải có sự cam kết trong dài hạn để đảm bảo được duy trì xuyên suốt, kéo dài, như là mục tiêu quan trọng nhất của NHTƯ.

Thực tế cho thấy sức ép đối với NHNN trong điều hành CSTT để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế vẫn còn lớn, ngay cả khi CSTT đang phải thực hiện nhiệm vụ kiểm soát lạm phát. Việc thực thi CSTT nhằm kiểm soát lạm phát thường chỉ nhận được sự ủng hộ trong những giai đoạn mà lạm phát đang tăng cao, khi đó CSTT buộc phải thắt chặt để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế. Đây là điều hiển nhiên mà ai cũng nhìn thấy rõ, tuy nhiên sau khi lạm phát có xu hướng tăng chậm lại thì lập tức xuất hiện áp lực đối với CSTT trong việc tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay còn thiên về lượng, chứ chưa phải về chất, nghĩa là phụ thuộc vào vốn vay từ hệ thống ngân hàng, không phải từ viêc nâng cao chất lượng, hiệu quả sử dụng vốn. Đây cũng là điều tạo nên áp lực lớn cho CSTT khi phải cung ứng vốn cho nền kinh tế ngay cả khi đang thực hiện các biện pháp thắt chặt kiểm soát lạm phát.

- Trong bối cảnh mà các biến trung gian có mối quan hệ không thực sự mạnh và ổn định đối với biến mục tiêu cuối cùng là lạm phát như ở Việt Nam hiện nay thì khó có thể lựa chọn một khuôn khổ CSTT truyền thống nào lấy khối lượng tiền, lãi suất hay tỷ giá làm biến trung gian để điều hành CSTT. Do vậy, CSLPMT là khuôn khổ CSTT nên được ưu tiên nghĩ đến, với việc tập trung thẳng vào mục tiêu lạm phát của nền kinh tế.

- Kỳ vọng lạm phát là một nhân tố quan trọng quyết định đến sự biến động lạm phát. Ở Việt Nam, mức lạm phát cao biến động mạnh trong lịch sử đã tạo những ấn tượng khiến cho kỳ vọng lạm phát rất dễ thay đổi. Do đó, kiểm soát kỳ vọng lạm phát sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành CSTT và đạt được các mục tiêu kiểm soát kỳ vọng lạm. Thực tiễn về áp dụng khuôn khổ LPMT tại các quốc gia đã cho thấy sự thành công của CSLPMT trong việc kiểm soát được mức kỳ vọng lạm phát.

- Bối cảnh kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong giai đoạn kinh tế mới sẽ có nhiều thay đổi, trong đó chắc chắn phải kể đến sự phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính, của hệ thống ngân hàng,... Đồng thời hệ thống mục tiêu điều hành của NHNN cũng đã được xác định rõ ràng hơn. Hiện tại, quán triệt tinh thần các Nghị quyết chỉ đạo của Chính phủ, NHNN đã có sự điều chỉnh linh hoạt thứ tự ưu tiên các mục tiêu trong công tác điều hành CSTT, theo đó kiểm soát lạm phát được xem là mục tiêu xuyên suốt trong trung và dài hạn. Trong ngắn hạn, CSTT vẫn có thể phục vụ thực hiện các giải pháp để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, song vẫn phải đảm bảo mục tiêu trung và dài hạn. Với sự ra đời của Luật NHNN năm 2010 và sự quyết tâm của Chính phủ trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô theo tinh thần Nghị quyết số 11/NQ – CP ngày 24/2/2011, CSTT từ năm 2011 đến nay đã có sự chuyển biến đáng kể, đóng góp vào mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý và ổn định thị trường tiền tệ cũng như đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD.

Đồng thời, trong tương lai gần, cùng với những kết quả đạt được từ công cuộc tái cơ cấu hệ thống TCTD 2011-2015, thị trường tiền tệ sẽ có bước phát triển mạnh mẽ hơn, các NHTM sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh, mức độ hội nhập sâu hơn, khả năng ứng xử của các thành viên thị trường sẽ có sự thay đổi theo tư duy thị trường, khi đó lãi suất sẽ nhạy cảm với lạm phát và tăng trưởng kinh tế thì việc lựa chọn mục tiêu trung gian là lãi suất phù hợp hơn mục tiêu lượng tiền. Việc điều hành CSTT trở nên phức tạp và đòi hỏi sự linh hoạt và phản ứng nhanh nhạy hơn với sự biến động khôn lường của thị trường. Vì vậy, cần thiết phải từng bước chuyển sang một khuôn khổ điều hành phù hợp với giai đoạn phát triển mới.

Trước những yếu cầu của thực tiễn, việc thay đổi khuôn khổ điều hành CSTT ở Việt Nam là một yêu cầu bức thiết để có thể đảm bảo được hiệu quả của CSTT trong mục tiêu kiểm soát lạm phát, đáp ứng các yêu cầu của nền kinh tế, đặc biệt là mục tiêu về ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng bền vững. Trong các phiên bản khác nhau của khuôn khổ CSLPMT thì chính sách mục tiêu giá cả linh hoạt là khuôn khổ nên được lựa chọn hơn cả, do các nguyên nhân sau:

- Tính chất linh hoạt khuôn khổ CSTT này đảm bảo có thể cân bằng các mục tiêu trong ngắn hạn và dài hạn, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế của Việt Nam vừa đòi hỏi kiểm soát được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, nhưng vẫn cần hướng tới mục tiêu tăng trưởng để đạt được các bước phát triển đất nước.

- Chính sách mục tiêu giá cả linh hoạt không đòi hỏi thiết lập các phương trình dự báo quá phức tạp, do vậy, phù hợp trong bối cảnh của Việt Nam khi mà chất lượng hệ thống dữ liệu thống kê còn yếu, mối quan hệ giữa các biến trong nền kinh tế (như đã phân tích ở trên) là không thực sự chặt chẽ và ổn định.

- Việc cho phép mức lạm phát hàng năm biến động trong một khuôn khổ nhất định khiến cho uy tín của NHNN có thể được duy trì và gia tăng một cách tốt hơn, nhất là trong bối cảnh mà chất lượng kiểm soát lạm phát ở Việt Nam chưa thật bền vững.

Do đó, trong giai đoạn trước mắt, khuôn khổ CSLPMT theo chính sách mục tiêu giá cả linh hoạt sẽ là lựa chọn tốt đối với Việt Nam. Tuy nhiên, điều này mới chỉ đáp ứng được các yếu tố “cần”, trong khi đó, việc hoàn thiện các khả năng áp dụng khuôn khổ này ở Việt Nam mới đáp ứng được các yếu tố “đủ”. Vì vậy, chỉ khi nào cả 2 yếu tố này đều được đáp ứng thì mới có thể áp dụng khuôn khổ CSTT này một cách phù hợp với Việt Nam.



Каталог: upload -> 4989
upload -> 1. Most doctors and nurses have to work on a once or twice a week at the hospital
upload -> TrầnTrang EnglishTheory Phonetics
upload -> BỘ khoa học và CÔng nghệ TÀi liệu hưỚng dẫN
upload -> TÀi liệu hưỚng dẫn sử DỤng dịch vụ HỘi nghị truyền hình trực tuyếN
upload -> BỘ thông tin truyềN thông thuyết minh đỀ TÀi xây dựng quy chuẩn kỹ thuật thiết bị giải mã truyền hình số MẶT ĐẤt set – top box (stb)
upload -> CHỦ TỊch nưỚC
upload -> CHỦ TỊch nưỚC
upload -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
upload -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
4989 -> Số: 1648/QĐ-hvnh-sđH

tải về 1.63 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương