HÀ NỘI, 2015 BỘ giáo dục và ĐÀo tạo ngân hàng nhà NƯỚc việt nam


Về năng lực của Ngân hàng Trung ương



tải về 1.63 Mb.
trang10/17
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích1.63 Mb.
#15427
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   17

2.2.3. Về năng lực của Ngân hàng Trung ương


Hạ tầng kỹ thuật cũng đóng vai trò không nhỏ trong việc đảm bảo sự hoạt động thông suốt của hệ thống tài chính, và qua đó ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách tiền tệ, đặc biệt là chính sách tiền tê theo đuổi LPMT. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn đóng vai trò thu thập dữ liệu phục vụ công tác nghiên cứu, phát hiện các mối quan hệ căn bản trong nền kinh tế nhằm phục vụ công tác điều hành. Đây là tiền đề để có những đầu vào đáng tin cậy trong phân tích chính sách và truyền thông với thị trường.

2.2.3.1. Tính đầy đủ, kịp thời và chính xác của hệ thống cơ sở dữ liệu thống kê


Số liệu thống kê được xem là vấn đề kỹ thuật nhưng lại đóng vai trò quan trọng bởi vì đây là đầu vào của mô hình, giúp xác định mức lãi suất mục tiêu và dự báo lạm phát trong điều hành CSTT, và nó càng trở nên đặc biệt quan trọng đối với khuôn khổ CSLPMT.

Các chỉ số thống kê chủ yếu là đầu vào của các mô hình dự báo trong điều hành CSTTbao gồm các chỉ số như lạm phát thực tế, tăng trưởng kinh tế thực tế, tỷ giá, các chỉ số nằm trong hệ thống ngân hàng như tăng trưởng tín dụng, thanh khoản của hệ thống v.v…. Đây là các chỉ số đòi hỏi không những đầy đủ, chính xác mà còn phải đảm bảo tính kịp thời (real-time) nhằm phản ánh thông tin hiện thời giúp các nhà điều hành chính sách đưa ra quyết định hiệu quả. Tuy nhiên, có thể thấy việc thống kê các chỉ số này hiện nay còn gặp nhiều bất cập, thể hiện ở cả tính chính xác tính tính kịp thời của dữ liệu.

Công tác thống kê ở Việt Nam nói chung và trong hệ thống ngân hàng nói riêng trong một vài năm trở lại đây đã được quan tâm và cải thiện rõ nét. Sự cải thiện thể hiện ở một số mặt như: Thứ nhất, công tác thống kê dữ liệu được quan tâm ở hầu hết các bộ ngành. Hiện hầu hết các bộ chuyên ngành hiện đã có cơ quan thống kê chuyên ngành riêng, thực hiện việc thống kê và phân tích số liệu; Thứ hai, mức độ cập nhật của thông tin thống kê ngày càng được nâng lên; Thứ ba, sự phát triển của các khoa học công nghệ hiện đại hỗ trợ tích cực để phát triển công tác thống kê.

Đối với ngành ngân hàng, xác định công tác đảm bảo thông tin, dữ liệu thống kê là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần to lớn trong việc chỉ đạo điều hành CSTT của NHNN. Thời gian qua, NHNN đã tích cực củng cố, hoàn thiện và đẩy mạnh công tác này trong ngành. Ngày 8/10/2010 Thống đốc NHNN đã ký ban hành Thông tư 21/2010/TT-NHNN quy định Báo cáo thống kê áp dụng đối với các đơn vị, các chỉ tiêu trong Thông tư 21 đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu thông tin phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành, giám sát hoạt động các TCTD của NHNN. Sau khi Thông tư 21 ra đời NHNN đã xây dựng mô hình thống kê tập trung dựa trên cơ sở nền tảng công nghệ thông tin tiên tiến với các công cụ ứng dụng công nghệ thông tin, NHNN cũng đã tích cực phối hợp với các Bộ ngành trong việc sửa đổi, bổ sung chế độ báo cáo thống kê, công tác thống kê; tăng cường củng cố và đẩy mạnh công tác ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin và truyền thông vào công tác thống kê, tăng cường nghiên cứu và ứng dụng phương pháo luận và quy trình thống kê theo tiêu chuẩn quốc tế; rà soát, cập nhật hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành ngân hàng, từng bước hoàn thiện cơ sở dữ liệu ngành ngân hàng, ứng dụng công nghệ tin học trong việc tổng hợp số liệu của ngành đáp ứng yêu cầu của NHNN và các tổ chức trong nước, quốc tế trong việc đánh giá hệ thống tài chính. Trong ngành ngân hàng,sự phát triển của hệ thống core banking tại các TCTD cho phép có thể quản lý dữ liệu tập trung, đóng vai trò quan trọng để có thể rút ngắn thời gian và tăng cường chất lượng dữ liệu báo cáo về NHNN. Việc áp dụng các mô hình để tính toán, ước lượng và dự báo các biến cần thiết trong công tác điều hành CSTT cũng được cải thiện rõ rệt và ngày càng phát huy tác dụng tích cực trong việc đưa ra những căn cứ tiền đề cần thiết cho các quyết định điều hành CSTT.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt được như trên thì cơ sở dữ liệu thống kê ngành ngân hàng còn khá nhiều hạn chế, bất cập. Bản thân các dữ liệu trong hệ thống ngân hàng cũng còn chậm cập nhật. Một số dữ liệu còn chưa được thu thập và thống kê đủ, đặc biệt là những thông tin để kiểm soát các dòng chu chuyển vốn, gây khó khăn trong việc điều hành CSTT. Ngoài các dữ liệu trong hệ thống ngân hàng, thì các chỉ số vĩ mô như tăng trưởng kinh tế, đầu tư và sản xuất lại phụ thuộc vào các đơn vị thống kê số liệu như Tổng cục Thống kê và các bộ ngành có liên quan. Các số liệu thống kê không những chưa đảm bảo được tính kịp thời, tính đầy đủ, thì tính chính xác của số liệu thống kê cũng là điều đáng quan tâm trong bối cảnh phương pháp điều tra, thống kê còn thô sơ, nhiều sai sót và không theo chuẩn mực quốc tế, đòi hỏi cần phải xem xét lại toàn diện phương pháp thu thập và tính toán số liệu thống kê.

Theo thông tin từ Vụ Dự báo thống kê của NHNN, hiện nay cơ sở dữ liệu đầu vào về kinh tế vĩ mô, tiền tệ và hoạt động ngân hàng của NHNN vẫn còn thiếu, đang trong quá trình hoàn thiện, chuỗi thời gian chưa đủ dài và chưa được cập nhật, hệ thống, đặc biệt là dữ liệu theo quý, theo tháng, điều này khiến cho công tác dự báo gặp khó khăn. Mặt khác do hệ thống thông tin đầu vào của NHNN vẫn chưa được thống nhất, tồn tại nhiều hình thức báo cáo do đó dữ liệu thống kê tiền tệ chưa được tập trung, công cụ khai thác chưa được thống nhất. NHNN cũng chưa có mô hình định lượng để có thể dự đoán các biến số vĩ mô dựa vào các kịch bản thay đổi. Các nghiên cứu định lượng thường được thực hiện ở các trường, Viện chứ chưa được các cơ quan hoạch định chính sách áp dụng phổ biến.

Ở một số nước khác trong khu vực, NHTW đã có báo cáo thường niên về ổn định tài chính do vậy số liệu các nước này cũng thường tìm thấy trong báo cáo ổn định tài chính toàn cầu (Global Financial stability Report) của IMF. Báo cáo này chưa được thực hiện ở Việt Nam, do vậy việc tìm số liệu của Việt Nam là khó khăn, ngay cả trong báo cáo ổn định tài chính toàn cầu cũng không thấy có số liệu về Việt Nam.

2.2.3.2. Mô hình dự báo


Tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), công tác dự báo tiền tệ và hoạt động ngân hàng đã được triển khai và thực hiện phân tán tại một số đơn vị chức năng. Trước năm 2008, nhiệm vụ dự báo kinh tế vĩ mô và tiền tệ chủ yếu do Vụ Chính sách tiền tệ (Vụ CSTT) và Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng thực hiện. Từ cuối năm 2008, công tác dự báo tiền tệ và hoạt động ngân hàng thực sự bắt đầu mang tính chuyên sâu khi Chính phủ ban hành Nghị định 96/2008/NĐ-CP ngày 26/8/2008 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN, trong đó có Vụ Dự báo, thống kê tiền tệ (Vụ DBTKTT). Theo đó, Thống đốc ban hành Quyết định số 2851/QĐ-NHNN ngày 25/11/2008 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Vụ DBTKTT và Quyết định số 535/QĐ-NHNN ngày 23/3/2012 về quy định lại chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Vụ DBTKTT.

Mặc dù Luật NHNN (năm 1997) không quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của NHNN trong việc dự báo kinh tế vĩ mô, tiền tệ và hoạt động ngân hàng, nhưng xuất phát từ yêu cầu thực tiễn điều hành chính sách tiền tệ (CSTT), Chính phủ đã quy định trong cơ cấu tổ chức bộ máy của NHNN có Vụ DBTKTT thực hiện chức năng, nhiệm vụ dự báo. Điều này cho thấy nhận thức của Chính phủ và NHNN về tầm quan trọng của công tác dự báo đối với điều hành CSTT và quản lý hoạt động ngân hàng trong bối cảnh mở cửa và hội nhập quốc tế cũng như tạo tiền đề cho việc triển khai khuôn khổ lạm phát mục tiêu tại Việt Nam.

- Ngày 16/6/2010, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Điều 4 Khoản 7 của Luật NHNN quy định NHNN có nhiệm vụ: “Tổ chức hệ thống thống kê, dự báo về tiền tệ và ngân hàng; công khai thông tin về tiền tệ và ngân hàng theo quy định của Pháp luật”. Điều 39 của Luật NHNN quy định: “NHNN tổ chức thống kê, thu thập thông tin về kinh tế, tiền tệ và ngân hàng trong nước và nước ngoài phục vụ việc nghiên cứu, phân tích và dự báo diễn biến tiền tệ để xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia”. Luật NHNN năm 2010 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng và vững chắc hơn để NHNN triển khai thực hiện các hoạt động dự báo, thống kê tiền tệ và ngân hàng.

- Về tổ chức bộ máy, Vụ DBTKTT là đơn vị thuộc tổ chức bộ máy của NHNN có chức năng tham mưu giúp Thống đốc thực hiện công tác dự báo kinh tế vĩ mô, tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Hiện nay, Vụ DBTKTT có 06 phòng (Phòng Phân tích và dự báo, Phòng Cán cân thanh toán quốc tế, Phòng Thống kê tiền tệ, Phòng Thống kê kinh tế, Phòng Quản lý dữ liệu và phát triển sản phẩm thống kê và Phòng Tổng hợp) và 49 cán bộ, công chức. Trong đó, Phòng Cán cân thanh toán quốc tế có nhiệm vụ lập, dự báo cán cân thanh toán quốc tế và Phòng Phân tích và dự báo có nhiệm vụ phân tích, dự báo kinh tế vĩ mô (lạm phát, tăng trưởng kinh tế...) và diễn biến tiền tệ (tổng phương tiện thanh toán, lãi suất, tỷ giá...).

Bên cạnh đó, một số đơn vị của NHNN cũng có nhiệm vụ tham mưu, giúp Thống đốc dự báo một số nội dung. Theo Quyết định số 2201/QĐ-NHNN của Thống đốc ngày 6/10/2008, Vụ CSTT “chủ trì, tổng hợp diễn biến kinh tế, tài chính- tiền tệ trong và ngoài nước, phân tích, dự báo vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, tỷ lệ lạm phát tiền tệ và các chỉ số kinh tế vĩ mô khác làm cơ sở xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ”. Theo Quyết định số 2232/QĐ-NHNN của Thống đốc ngày 6/10/2008, Vụ Quản lý ngoại hối (Vụ QLNH) “tham mưu, giúp Thống đốc tổng hợp, phân tích, dự báo và báo cáo số liệu về hoạt động ngoại hối”.

Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, lý thuyết và điều kiện thực tiễn Việt Nam, NHNN đã tiến hành xây dựng và triển khai các mô hình dự báo một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, tiền tệ và hoạt động ngân hàng phù hợp với nguồn số liệu hiện có như: Tăng trưởng GDP, lạm phát, huy động vốn, tín dụng, thâm hụt ngân sách, tỷ giá hối đoái... theo phương pháp tham số (sử dụng mô hình dự báo) kết hợp với phương pháp chuyên gia. Cụ thể:

- NHNN đã từng bước xây dựng và triển khai các phương pháp luận và công cụ dự báo bằng mô hình, đồng thời hình thành bước đầu khuôn khổ phân tích, đánh giá chính sách. Đối với phương pháp dự báo bằng mô hình, cho đến nay, NHNN đã tiến hành sử dụng các mô hình véc tơ tự hồi quy (VAR), mô hình hiệu chỉnh sai số véc tơ (VECM), mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM) trong công tác phân tích và dự báo với gần 40 phương trình, mô hình kinh tế lượng vĩ mô (Macroeconometric model). Các hệ phương trình kinh tế lượng sử dụng các cặp dữ liệu theo tháng, quý và năm bước đầu đã trở thành bộ công cụ phục vụ phân tích, đánh giá và dự báo kinh tế vĩ mô, tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Với các mô hình hiện tại, các đơn vị có thể phân tích, đo lường, đánh giá tác động của việc thay đổi chính sách đến các đối tượng quản lý và ngược lại. Nhờ đó, các tác động do thay đổi chính sách hiện hành đều có thể được lượng hóa một cách thích hợp.

- NHNN đang tích cực phối hợp với các tổ chức quốc tế triển khai xây dựng Khuôn khổ Lập trình tài chính vĩ mô nhằm hỗ trợ dự báo trung hạn và tạo lập khuôn khổ phân tích chính sách kinh tế vĩ mô dựa trên 4 khu vực của nền kinh tế. Đồng thời, NHNN tích cực nghiên cứu, tiếp cận các hệ thống cảnh báo sớm về khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng ngân hàng dựa trên các mô hình tham số và phi tham số nhằm phục vụ hiệu quả cho công tác điều hành CSTT và phân tích, giám sát, dự báo, cảnh báo sớm rủi ro về kinh tế vĩ mô, tiền tệ và hoạt động ngân hàng.

- Đối với dự báo cán cân thanh toán quốc tế, định kỳ (quý, năm) NHNN chủ trì phối hợp với các Bộ, Ngành dự báo cán cân thanh toán quốc theo quy định tại Nghị định số 164/1999/NĐ-CP. Cụ thể:

+ Bộ Công thương cung cấp kết quả dự báo cán cân thương mại;

+ Bộ Tài chính cung cấp kết quả dự báo vay, trả nợ nước ngoài của Chính phủ; luồng vốn FII, chuyển tiền một chiều của Chính phủ;

+ Bộ Kế hoạch và Đầu tư cung cấp kết quả dự báo vốn FDI, cán cân dịch vụ;

+ NHNN cung cấp kết quả dự báo các hạng mục còn lại và cán cân thanh toán quốc tế tổng thể.

- NHNN đã xây dựng và triển khai quy trình nội bộ dự báo các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, tiền tệ và hoạt động ngân hàng bao gồm 12 bước từ khâu thu thập dữ liệu, thông tin đến đánh giá và báo cáo kết quả dự báo.

- NHNN đã từng bước xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ công tác dự báo theo năm, quý và tháng trên cơ sở dữ liệu thống kê của ngành ngân hàng và dữ liệu thống kê kinh tế vĩ mô trong nước, quốc tế được công bố bởi các Bộ, ngành và tổ chức quốc tế. Việc gắn nhiệm vụ thống kê tiền tệ và cán cân thanh toán quốc tế với nhiệm vụ dự báo của Vụ DBTKTT đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo đảm thông tin đầu vào cần thiết về tiền tệ, hoạt động ngân hàng cho công tác dự báo, đặc biệt là tạo tiền đề triển khai khuôn khổ lạm phát mục tiêu tại Việt Nam.

Hiện nay, cơ sở dữ liệu phục vụ dự báo bao gồm:



  • Hệ thống cơ sở dữ liệu thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng;

- Hệ thống thông tin kinh tế vĩ mô tài chính trong nước, bao gồm: GDP, các ngành kinh tế, thương mại, đầu tư, ngân sách...được thu thập từ Tổng cục Thống kê và các Bộ, ngành liên quan;

- Hệ thống thông tin kinh tế, tài chính quốc tế được thu thập qua các tổ chức quốc tế (IMF, WB, ADB, OPEC, FAO, UNDP...) và kênh thông tin đại chúng, thị trường (Reuters, báo, tạp chí,…).

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và tính minh bạch ngày càng được nâng cao, việc thu thập thông tin kinh tế vĩ mô và thị trường tài chính trong nước và quốc tế cũng thuận lợi hơn.

2.2.3.3. Năng lực dự báo


Mặc dù công tác phân tích, dự báo kinh tế vĩ mô, tiền tệ và hoạt động ngân hàng đã trở thành một lĩnh vực hoạt động góp phần quan trọng trong công tác điều hành CSTT, lãi suất, tỷ giá, quản lý thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, năng lực phân tích, dự báo của NHNN hiện nay vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Cụ thể:

- Năng lực, chất lượng phân tích, dự báo, đặc biệt là về kinh tế vĩ mô và thị trường tài chính còn yếu so với yêu cầu điều hành chính sách và quản lý, giám sát tiền tệ, hoạt động ngân hàng một cách chủ động, linh hoạt, có hiệu quả. Kết quả dự báo chưa có độ chính xác cao. Mặc dù dự báo được xu hướng và những nhân tố tác động chính, song kết quả dự báo trung, dài hạn còn có sự chênh lệch so với thực tế.

- Phương pháp dự báo hiện nay còn đơn giản và chưa đồng bộ, mô hình dự báo chưa ổn định, chưa bao hàm đầy đủ các nhân tố tác động đến chỉ tiêu dự báo, khuôn khổ phân tích và đánh giá tác động chính sách chưa hoàn thiện. Công tác cảnh báo, dự báo các rủi ro hệ thống và diễn biến bất thường về kinh tế vĩ mô, tiền tệ và ngân hàng còn nhiều hạn chế.

- Tổ chức công tác dự báo tại NHNN vẫn còn phân tán, chưa tập trung vào một đầu mối và trùng lặp nhiệm vụ dự báo giữa các đơn vị thuộc NHNN, song trách nhiệm không rõ ràng và không có cơ chế phối hợp, trao đổi thông tin dự báo dẫn đến lãng phí nguồn lực. Bên cạnh Vụ DBTKTT thực hiện công tác dự báo kinh tế vĩ mô, tiền tệ và hoạt động ngân hàng, một số đơn vị khác của NHNN như Vụ CSTT cũng thực hiện dự báo các chỉ số kinh tế vĩ mô như tăng trưởng GDP, tỷ lệ lạm phát… Thậm chí, có đơn vị không có chức năng, nhiệm vụ dự báo cũng triển khai công tác dự báo. Trong quá trình phân tích, dự báo, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị liên quan thuộc NHNN, giữa NHNN với các cơ quan liên quan.



Nguyên nhân:

- Khuôn khổ pháp lý về công tác dự báo tiền tệ và ngân hàng chưa hoàn thiện. NHNN chưa ban hành quy định về nguyên tắc, quy trình dự báo, sử dụng kết quả dự báo, cơ chế và hình thức tổ chức trao đổi dữ liệu và liên kết, tích hợp các kết quả dự báo giữa các cơ quan, đơn vị làm công tác dự báo trong và ngoài ngành ngân hàng.

- Lực lượng cán bộ làm công tác phân tích, dự báo thiếu về số lượng và hạn chế về trình độ. Công tác phân tích, dự báo kinh tế vĩ mô, tiền tệ và hoạt động ngân hàng đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm công tác và trình độ sâu rộng về kinh tế vĩ mô, tiền tệ và hoạt động ngân hàng, đồng thời phải có kiến thức về toán học, phương pháp dự báo. Đối với Vụ DBTKTT, số lượng cán bộ phân tích, dự báo hiện chỉ có 7 cán bộ, trong đó có gần 40% cán bộ trẻ, kinh nghiệm dưới 3 năm công tác trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính hoặc thiếu kiến thức về kinh tế vĩ mô. Phần lớn cán bộ phân tích, dự báo chưa được đào tạo chuyên sâu về phương pháp luận dự báo, kỹ thuật ứng dụng các công cụ hiện đại vào công tác dự báo, chưa có nhiều kinh nghiệm về lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.

- Hệ thống thông tin, dữ liệu phục vụ công tác dự báo còn nhiều hạn chế về số lượng và chất lượng. NHNN chưa hình thành được một kho dữ liệu thống kê chung, tập trung và thống nhất để phục vụ công tác phân tích, dự báo của các đơn vị thuộc NHNN. Hệ thống thông tin kinh tế vĩ mô khó tiếp cận; chất lượng và số lượng thông tin thống kê vĩ mô còn nhiều hạn chế, thiếu đồng bộ và nhất quán. Thiếu sự phối hợp chặt chẽ và có hiệu quả giữa các Bộ, ngành trong việc trao đổi và phổ biến thông tin kinh tế vĩ mô, kết quả dự báo của các ngành, lĩnh vực dẫn đến sự trùng lặp về nội dung dự báo và kết quả dự báo không thống nhất với nhau. Số liệu thống kê kinh tế vĩ mô thiếu tính nhất quán, chuỗi thời gian của số liệu quá ngắn, trong khi các đơn vị dự báo lại thiếu phương tiện và công cụ hỗ trợ kiểm tra, xác định tính trung thực của số liệu thống kê cũng là một trong những hạn chế không nhỏ đối với công tác phân tích và dự báo. Việc thu thập thông tin về tài chính và hoạt động của khu vực doanh nghiệp, cá nhân và hộ gia đình gặp rất nhiều khó khăn, trong khi tính minh bạch, công khai trên các lĩnh vực kinh tế còn thấp.

- Mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác dự báo còn thấp, chủ yếu sử dụng các chương trình Eviews, Excel, Matlab..., một số phần mềm thống kê, dự báo được sử dụng dưới dạng không có bản quyền; Hệ thống công nghệ thông tin của NHNN chưa được cài đặt sẵn hoặc phát triển các công cụ dự báo chuyên ngành tiền tệ, ngân hàng. Mức độ đầu tư công nghệ thông tin phục vụ công tác dự báo, thống kê tiền tệ còn rất hạn chế. Hệ thống công nghệ thông tin hiện tại chưa hỗ trợ tốt cho việc xử lý dữ liệu, phân tích, đánh giá, kiểm tra tính chính xác của dữ liệu, số liệu thống kê.

2.2.3.4. Về cơ chế bảo đảm trách nhiệm giải trình và tính minh bạch của NHTW


Hiện nay, Việt Nam chưa có tuyên bố pháp lý về CSLPMT. Hàng năm Quốc hội đều họp để thông qua một loạt các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cho năm tiếp theo, trong đó có chỉ tiêu tỷ lệ lạm phát. Thực tế cho thấy mục tiêu ưu tiên hàng đầu vẫn là tốc độ tăng trưởng kinh tế ngay cả khi cần phải chống lạm phát như lúc này thì các nhà lãnh đạo hàng đầu của các bộ khác vẫn nhất quyết không hy sinh tăng trưởng: Bộ Tài chính không kiểm soát chi tiêu công ở mức phù hợp, Bộ Công thương quyết định tăng giá điện trong khi chi phí điện chưa được tính toán ở mức cạnh tranh…Một chính sách đa mục tiêu nhất là những mục tiêu đòi hỏi phải đánh đổi nhau trong ngắn hạn như tăng trường và lạm phát không đảm bảo cho việc kiềm chế lạm phát.

Và do sự đánh đổi như vậy giữa các chính sách vĩ mô, mục tiêu điều hành CSTT có thể phải hi sinh cho các mục tiêu khác. Hay nói cách khác, cam kết của NHNN đối với mục tiêu lạm phát đã bị giảm bớt trong một cơ chế điều hành đa mục tiêu. Tính minh bạch và trách nhiệm giải trình do vậy cũng không đủ để đảm bảo được những yêu cầu như dưới khuôn khổ CSTT LPMT.

Tuy nhiên, mức độ cam kết và trách nhiệm giải trình của NHNN có thể thấy là đã có sự cải thiện rõ nét trong giai đoạn gần đây. Trong thực tế điều hành kinh tế vĩ mô nói chung và CSTT ở Việt Nam có thể thấy việc công bố mục tiêu về lạm phát đã được đưa ra trong nhiều năm. Mục tiêu về lạm phát được xem là một chỉ số phát triển kinh tế xã hội từng năm cũng như trong từng giai đoạn phát triển kinh tế được thể hiện trong các kế hoạch phát triển. Tuy nhiên, việc vi phạm các mục tiêu lạm phát đã đề ra lại thường khá phổ biến.Trong giai đoạn từ 2005 đến 2011 thì có tới 5năm/7năm có tỷ lệ lạm phát thực hiện vượt quá mức mục tiêu đề ra, và chỉ có 2 năm là năm 2006 và năm 2009 là đạt được mục tiêu về lạm phát như đã đề ra từ đầu năm. Tuy nhiên, trong 3 từ 2012 đến 2014, có thể thấy mức lạm phát thực hiện hầu như đều đạt được trong mục tiêu đề ra. Bên cạnh đó, sự cam kết của NHNN cũng được đảm bảo hơn thông qua các hoạt động truyền thông ngày càng được chú trọng. Trách nhiệm giải trình cũng được cải thiện rõ rệt thông qua cơ chế báo cáo và giải trình trước quốc hội, các chỉ thị về thực thị CSTT được ban hành vào đầu năm và thông cáo báo chí về kết quả thực thị CSTT được NHNN công bố vào cuối năm. Những sự chuyển biến này đã mang lại những hiệu ứng tích cực nhất định trong kết quả điều hành CSTT trong những năm gần đây cũng như tạo tiền đề cho việc nâng cao hiệu quả thực thi CSTT trong thời gian tới.

2.2.3.5. Tính tín nhiệm của chính sách tiền tệ


Rất khó để có thể đo lường được niêm tin và sự hiểu biết của công chúng đối với CSTT. Cho đến nay ở Việt Nam cũng chưa có một cuộc điều tra thống kê trên diện rộng nào để có thể tiến hành đo lường yếu tố này. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng hiểu biết của công chúng đối với CSTT đang ngày càng tăng lên thể hiện ở các yếu tố:

- Một là hiểu biết chung của người dân về tài chính – tiền tệ ngày càng tăng lên. Đây là sự phát triển tất yếu của quá trình phát triển đất nước nói chung và hệ thống tài chính nói riêng. Tỷ lệ người dân sử dụng các dịch vụ tài chính ngày càng tăng lên cũng đồng nghĩa với việc họ ngày càng quan tâm nhiều hơn tới các thông tin về tài chính – tiền tệ, và do vậy, mức độ hiểu biết cũng tăng lên. (Mặc dù không thể phủ nhận rằng mục độ hiểu biết của người dân đa phần là còn thấp, đặc biệt là những người dân sống ở khu vực nông thôn, các vùng sâu, vùng xa).

- Hai là hoạt động truyền thông của NHNN về CSTT đã được đẩy mạnh trong những năm gần đây. Các hoạt động giải trình trước Quốc hội được chú trọng nhằm hướng tới giải thích có đại đa số đại biểu quốc hội – là những người đại diện cao nhất cho nhân dân, có thể hiểu rõ về CSTT. Đồng thời trước mỗi sự kiện xảy ra, NHNN cũng đã có sự giải thích, định hướng, khuyến nghị trước công chúng rất nhanh chóng và rõ ràng. Những hoạt động như vậy đóng vai trò quan trọng để minh bạch hóa CSTT. Yếu tố kỳ vọng lạm phát cũng đã được chú trọng trong quá trình điều hành của NHNN thể hiện qua việc tiến hành điều tra, khảo sát và thực hiện báo cáo về kỳ vọng lạm phát định kỳ 6 tháng một lần. Mặc dù cho đến nay, báo cáo này chưa được phổ biến rộng rãi, đồng thời cần có sự đầu tư để nâng cao chất lượng của báo cáo, song những hoạt động như vậy đã cho thấy những nỗ lực từ phía NHNN nhằm minh bạch hóa CSTT cũng như tạo dụng niềm tin từ phía công chúng, làm tiền đề cho việc nâng cao hiệu quả CSTT.

2.2.4. Về cấu trúc kinh tế


Nền kinh tế Việt Nam ngày càng mở, mức độ hội nhập ngày càng cao đòi hỏi NHNN phải có những thay đổi căn bản trong công tác điều hành nhằm đáp ứng kịp những đòi hỏi trong tình hình mới, đặc biệt là khi tỷ giá được thả nổi, lạm phát phải đóng vai trò là công cụ chính trong truyền thông và tạo kỳ vọng trên thị trường.

2.2.4.1. Mức độ đô la hóa nền kinh tế


Theo tiêu chí của Quỹ Tiền tệ Thế giới, nền kinh tế được oil à có tình trạng đô la hóa cao khi tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ (FCD) chiếm trên 30% trong khối tiền tệ mở rộng (M2). Nếu tính theo tiêu chí này thì từ năm 2006 đến nay, tình trạng đô la hóa của Việt Nam đã có xu hướng giảm nhưng chưa thực sự bền vững và Việt Nam vẫn là nước có mức độ đô la hóa tiền gửi khá cao trong khu vực . Giai đoạn từ năm 2008 đến 2011, tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ của tổ chức và dân cư bao gồm tiền gửi thanh toán và tiết kiệm ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán theo xu hướng giảm nhưng vẫn ở mức cao, dao động trong khoảng 20%. Theo đánh giá của IMF, Việt Nam vẫn thuộc nhóm nước có tỷ lệ đô la hóa cao nhất trong khu vực châu Á. Tuy nhiên, từ năm 2012 đến nay, FCD/M2 theo xu hướng giảm mạnh, cụ thể, tỷ lệ này vào năm 2011 là 15,8% xuống mức 12,4% trong năm 2012 và 11,6% trong năm 2014 và còn 10,39% vào tháng 3 năm 2015 (ngoại trừ Lào và Campuchia là 2 nước điển hình trên thế giới về tình trạng đô la hóa với tỷ lệ FCD/M2 năm 2010 lần lượt lên tới 60% và 70%, các nước còn lại trong khu vực Asean dao động từ 1% - 9%).

Cung cầu ngoại tệ trên thị trường đã được cải thiện nhờ sự phối hợp đồng bộ giữa chính sách tỷ giá, lãi suất. Hoạt động niêm yết, định giá, thanh toán bằng ngoại tệ và kinh doanh ngoại tệ trái phép đã được thu hẹp và được kiểm tra, giám sát thường xuyên của các cơ quan chức năng. Tuy nhiên, vẫn còn một lượng lớn ngoại tệ trôi nổi ngoài hệ thống ngân hàng, đặc biệt từ nguồn kiều hối. Chế độ sử dụng ngoại tệ, thanh toán bằng ngoại tệ trong nước vẫn tồn tại và chưa được xóa bỏ triệt để.

Tình trạng sử dụng ngoại tệ tiền mặt ở Việt Nam diễn ra phổ biến, phức tạp gây bất ổn cho thị trường ngoại hối. Giai đoạn 2005-2011, hoạt động mua bán ngoại tệ tiền mặt trên thị trường tự do diễn ra khá công khai. Thị trường ngoại tệ tự do là nơi giới đầu cơ lợi dụng tâm lý găm giữ ngoại tệ, đưa ra những tin đồn thất thiệt, gây biến động tỷ giá để mua bán kiếm lời (có lúc tỷ giá biến động tới mức 250-350 VND/USD/ngày) gây bất ổn thị trường ngoại hối, làm suy giảm niềm tin vào đồng Việt Nam, gia tăng tình trạng đô la hóa trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên từ sau năm 2011, với những giải pháp đồng bộ và quyết liệt của NHNN và các Bộ, ngành có liên quan, thị trường ngoại tệ tự do đã thu hẹp đáng kể, tỷ giá mua bán trên thị trường tự do nhiều thời điểm thấp hơn tỷ giá mua bán trên thị trường chính thức; việc mua bán, thanh toán, niêm yết giá bằng ngoại tệ bất hợp pháp không còn diễn ra công khai như trước đây. Tuy nhiên, cần nhìn nhận một cách khách quan rằng thực trạng mua bán, thanh toán hàng hóa, dịch vụ bằng ngoại tệ trong nước vẫn tồn tại và chưa được xóa bỏ triệt để.

Hoạt động thu đổi ngoại tệ tiền mặt của các bàn đổi ngoại tệ tại khu vực biên giới không đúng quy định diễn ra khá phổ biến. Do đặc thù của thương mại biên giới, bên cạnh các hoạt động thanh toán qua ngân hàng, việc thành lập các bàn đổi tiền cá nhân là cần thiết để phục vụ cho nhu cầu đổi tiền nhỏ lẻ của cư dân biên giới, góp phần thúc đẩy xuất nhập khẩu qua biên giới. Tuy nhiên, nhiều bàn thu đổi ngoại tệ đã hoạt động trá hình cả chiều mua và bán, hình thành nên chợ tiền tự do, lấn át thị trường chính thức do quy mô giao dịch của các bàn đổi này lớn, gây khó khăn cho công tác quản lý ngoại hối, quản lý tiền tệ trên địa bàn các khu vực biên giới và khó khăn cho công tác thống kê số liệu vì các giao dịch này do khu vực tư nhân thực hiện (chỉ một tỷ lệ nhỏ được thực hiện qua hệ thống ngân hàng). Vì vậy, cần điều chỉnh chính sách để tăng cường kiểm soát các bàn thu đổi ngoại tệ của cá nhân và thu về một đầu mối kiểm soát qua các tổ chức tín dụng.

Tính chuyển đổi VNĐ được nâng lên một bước đáng kể, các giao dịch vãng lai được tự do hóa theo đúng cam kết quốc tế trong khi đó các giao dịch vốn đã từng bước được tự do hóa thận trọng. Tuy nhiên xét trên nhiều khía cạnh thì tính chuyển đổi của VNĐ còn thấp và chưa bền vững. Đồng Việt Nam thường xuyên phải đối mặt với nguy cơ mất giá ngày càng gia tăng so với các đồng tiền chủ chốt khác do tỷ lệ lạm phát của VN vẫn tương đối cao so với các nước. Tình trạng khan hiếm và găm giữ ngoại tệ thường xuyên xảy ra đặc biệt vào cuối năm hoặc khi có biến động sự kiện quốc tế hoặc các chỉ số CPI, cán cân thương mại biến động tiêu cực. Đáp ứng nhu cầu ngoại tệ hợp pháp chính đáng cho các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức được quy định rõ trong các văn bản nhưng có những lúc do căng thẳng về cung cầu ngoại tệ hoặc nguồn dự trữ có hạn nên cũng không được kịp thời. Do đó, các chính sách của nhà nước vẫn chưa thực sự tạo được lòng tin vào tính ổn định của đồng Việt Nam.

Tóm lại có thể thấy Việt Nam đã đạt được các thành tựu nhất định trong quá trình chống đô la hóa trong suốt giai đoạn vừa qua, đặc biệt giai đoạn 2012 đến nay với những kết quả rất đáng ghi nhận: Tỷ lệ đô la hóa tiền gửi liên tục phá vỡ các mức thấp kỷ lục trong nhiều năm trở lại đây; Tâm lý găm giữ ngoại tệ và vàng của doanh nghiệp và dân cư giảm, thị trường ngoại tệ tự do đang ngày càng thu hẹp; Thị trường vàng được sắp xếp lại một cách cơ bản, ổn định và ít bị chi phối khi thị trường thế giới biến động; Hiệu lực của CSTT được tăng cường.Tuy nhiên, hiện tượng đô la hóa vẫn còn tồn tại trong nền kinh tế vĩ mô nói chung và điều hành CSTT nói riêng, đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện quyết liệt hơn các giải pháp chống đô la hóa đặc biệt khi độ mở của nền kinh tế ngày càng tăng.


2.2.4.2. Độ nhạy cảm của kênh tỷ giá hối đoái


Độ nhạy cảm với kênh tỷ giá hối đoái ở Việt Nam khá cao. Nếu xét riêng biến động tỷ giá hối đoái thì từ năm 2007 đến nay tỷ giá hối đoái biến động liên tục. Từ nửa cuối năm 2007, VND giảm giá khá nhanh so với USD, trung bình 5,5%/năm đồng thời diễn biến tỉ giá trong giai đoạn này cực kỳ phức tạp Mặc dù biên độ dao động đã được mở rộng hơn so với giai đoạn trước, tỉ giá tại các NHTM vẫn thấp hơn rất nhiều so với tỉ giá giao dịch trên thị trường tự do. Diễn biến này trên thị trường phản ánh cho thấy tỉ giá thị trường đang đòi hỏi sự linh hoạt hơn nữa từ phía nhà điều hành bởi khi các giao dịch đối ngoại (ngoại thương và vốn) trong nền kinh tế tăng lên đến một qui mô nhất định, việc kiểm soát chặt tỉ giá chỉ có thể đạt được khi NHTW có đủ khả năng và hiệu quả can thiệp.

Biểu đồ 2.12: Diễn biến tỉ giá VND/USD 2005 -2014



Nguồn: Vụ Quản lý ngoại hối - NHNN

Việt Nam bị đánh giá là nước có chế độ neo tỷ giá trong khi lý thuyết và thực tiễn các nước đang phát triển (bao gồm các nước mới nổi và đang chuyển đổi) cho thấy các nước theo cơ chế này thường rơi vào khủng hoảng tài chính nếu có nợ ngắn hạn cao trong nền kinh tế mở vốn lưu động tự do.


2.2.4.3. Độ mở ngoại thương của nền kinh tế


Chỉ số thể hiện độ mở ngoại thương của Việt Nam khá cao đó chính là mức tăng trưởng liên tục về kim ngạch xuất nhập khẩu trong suốt các giai đoạn hội nhập.
Bảng 2.13: Tình hình xuất, nhập khẩu của Việt Nam 2005-2014




Kim ngạch XK

(triệu USD)

Tốc độ tăng trưởng XK (%)

Kim ngạch NK

(triệu USD)

Tốc độ tăng trưởng NK (%)

Cán cân thương mại quốc tế (triệu USD

2005

32.447

22,5

36.761

15,0

-4.314

2006

39.826

22,7

44.891

22,1

-5.064

2007

48.561

21,9

62.764

39,8

-14.203

2008

62.685

29,1

80.713

28,6

-18.028

2009

57.096

-8,9

69.948

-13,3

-12.852

2010

72.263

26,5

84.838

21,3

-12.601

2011

96.905

34,2

106.749

25,8

-9.844

2012

114.529

18,2

113.780

6,6

748

2013

132.033

15,37

132.033

16,1

9,432

2014

150.217

13.8

147.849

12

2.14

Nguồn: Tổng Cục Thống kê

Số liệu cho thấy độ mở ngoại thương của Việt Nam đã được tăng cường mạnh mẽ theo các giai đoạn hội nhập (WTO, AFTA, BTA…). So với thời điểm trước khi đổi mới tỷ trọng xuất nhập khẩu/GDP năm 1995 cao gấp 3,5 lần; đến năm 2000 sau khi Việt Nam hoàn tất đàm phán BTA với Hoa Kỳ thì xuất nhập khẩu gấp 1,5 lần so với năm 1995 và gấp 5 lần so với năm 1985. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO 1 năm (2008) tỷ trọng này lên 147.1%. Tính đến năm 2014, tỷ trọng xuất nhập khẩu/GDP đã tăng gấp 8 lần. Đây cũng là tín hiệu cho thấy Việt Nam đã khai thác tốt được thế mạnh sản xuất trong nước và mở cửa đối với thương mại nước ngoài, khuyến khích xuất khẩu giúp mang lại nguồn thu nhập không nhỏ cho một bộ phận dân cư.

Tuy nhiên, với độ mở nền kinh tế quá lớn (tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đã đạt trên 150% GDP từ năm 2007), dẫn đến tăng trưởng kinh tế phụ thuộc quá nhiều vào xuất khẩu, khiến tăng trưởng thiếu bền vững khi thị trường thế giới có những biến động bất lợi cho xuất khẩu (kim ngạch xuất khẩu chiếm đến trên 80% GDP vào năm 2007). Những diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-2009 là minh chứng rõ ràng cho nhận định này. Độ mở ngoại thương lớn cũng sẽ làm cho Việt Nam gặp khó khăn trong kiểm soát lạm phát nhập khẩu. Ngoài ra, những ấn tượng về xuất nhập khẩu mới chỉ được về mặt số lượng, chất lượng của xuất nhập khẩu vẫn còn là vấn đề gây nhiều tranh luận của các chuyên gia. Cơ cấu xuất khẩu chủ yếu vẫn là xuất thô hoặc sơ chế với giá trị thấp chủ yếu sử dụng nguyên phụ liệu nhập khẩu từ Trung Quốc, cơ cấu này cũng phản ánh mức độ không bền vững của sản xuất trong nước do phụ thuộc công nghệ và nguyên phụ liệu nước ngoài. [31]

Có thể khái quát hóa các đánh giá trên theo bảng dưới đây để thấy rõ mức độ đáp ứng các điều kiện của Việt Nam hiện nay trong việc áp dụng CSLPMT

Bảng 2.14: Đánh giá mức độ sẵn sàng cho khuôn khổ CSTT theo LPMT


STT

Chỉ tiêu/Nhóm chỉ tiêu

Mức đánh giá

Khả năng cải thiện










Trong 3 năm

Trong 5 năm

I

Yêu cầu về năng lực của NHTW










1

Mức độ sẵn có của số liệu

Chưa đạt – Số liệu chỉ đáp ứng ở mức độ trung bình

+ Về phạm vi: còn thiếu đánh giá về kỳ vọng lạm phát; niềm tin của người tiêu dùng; niềm tin của giới kinh doanh (số liệu của TCTK chỉ ở giai đoạn đầu);

+ Rất ít số liệu có theo hàng tháng (số liệu tần suất hàng tuần hoặc nửa tháng còn ít hơn nữa);

+ Độ tin cậy: còn có thể cải thiện thêm



+ Có thể cải thiện về phạm vi và độ tin cậy của số liệu (Khả năng cao)

+ Có thể cải thiện tần suất của các số liệu hiện có (hàng tháng) (Khả năng cao)

2

Quy trình dự báo có hệ thống

Đạt

+ NHNN và một số cơ quan đã có mô hình dự báo chuyên biệt;

+ Các loại mô hình khá đa dạng.

+ Có thể cải thiện khả năng dự báo (khả năng cao)

+ Có thể cải thiện khả năng dự báo (khả năng cao)

3

Mô hình có khả năng dự báo có điều kiện

Đạt (NHNN và một số cơ quan đã có mô hình dự báo chuyên biệt theo kịch bản).

Có thể cải thiện khả năng dự báo (khả năng cao)

Có thể cải thiện khả năng dự báo (khả năng cao)

4

Cơ chế minh bạch và trách nhiệm giải trình

Đã có cải thiện (Mặc dù không quy định trong Luật nhưng NHNN đã chủ động minh bạch thông tin ở mức độ nhất định và nâng cao trách nhiệm giải trình)

Có thể cải thiện (khả năng cao)

Có thể nâng cao và tăng trách nhiệm hơn nữa (khả năng cao)

5

Tính tín nhiệm của CSTT

Đã có sự cải thiện

Có thể nâng cao được hơn nữa (khả năng cao)

Có thể nâng cao được hơn nữa (khả năng cao)

II

Mức độ lành mạnh của hệ thống tài chính










1

Hệ thống ngân hàng

Chưa đạt

Có thể đạt ở mức độ trung bình(khả năng cao)

Đạt (khả năng trung bình)

2

Độ sâu của thị trường tài chính

Chưa đạt ( mức Khá (số liệu đến năm 2013), điều này cho thất sự phát triển thị trường tài chính chưa vững chắc

Khả năng thấp

Khả năng thấp

3

Năng lực cạnh tranh

Thấp, chưa đạt

Khả năng thấp

Khả năng thấp

4

Phát triển thị trường tài chính

Chưa đạt

Khả năng thấp

Khả năng thấp

5

Chính sách tài khóa

+ Nợ công thấp

+ Cán cân ngân sách phù hợp


Nợ công ở ngưỡng cho phép song thiếu bền vững



Chưa đạt



Khả năng thấp
Khả năng thấp



Khả năng trung bình
Khả năng trung bình

III

Mức độ độc lập về thể chế










1

Ít chịu nghĩa vụ tài khóa

Chưa đạt (mức độ chi phối của chính sách tài khóa còn khá lớn, thậm chí còn tăng trong các năm 2013-2014)

Khả năng thấp

Khả năng trung bình

2

Độc lập trong quá trình hoạt động

Đạt (về thể chế thì chưa, nhưng hoạt động trong giai đoạn 2013-2014 được đánh giá tương đối tích cực)

Khả năng cao

Khả năng cao

3

Tập trung vào mục tiêu lạm phát

Chưa đạt (do còn có các mục tiêu khác; thậm chí các mục tiêu khác có thể được ưu tiên cao hơn; xét một cách có hệ thống)

Khả năng trung bình

Khả năng cao

4

Mức độ độc lập của NHTW nói chung

Chưa đạt

Khả năng thấp (chủ yếu về kinh tế)

Khả năng trung bình (chủ yếu về kinh tế)

IV

Cơ cấu kinh tế










1

Mức chuyển tỷ giá vào lạm phát

Chưa đạt (Nhạy)

Khả năng thấp

Khả năng trung bình (phụ thuộc vào cải cách vi mô trên thị trường nhằm gia tăng cạnh tranh)

2

Ít nhạy cảm với giá hàng hóa cơ bản

Chưa đạt (Nhạy)

Khả năng thấp

Khả năng trung bình (phụ thuộc vào cải cách vi mô trên thị trường nhằm gia tăng cạnh tranh)

3

Mức độ đô la hóa

Đạt (Thấp)

Khả năng thấp

Khả năng thấp

4

Độ mở thương mại

Chưa đạt (Cao)

Khả năng thấp

Khả năng thấp

Nguồn: Đánh giá của tác giả dựa trên ý kiến khảo sát với một số chuyên gia

Như vậy theo nghiên cứu , xét theo cả 4 nhóm điều kiện (hạ tầng kỹ thuật; cơ cấu kinh tế; độc lập về thể chế; mức độ lành mạnh của hệ thống tài chính) thì mức độ đáp ứng của Việt Nam đều chưa cao. Việt Nam hiện mới chỉ thỏa mãn được 5 điều kiện (trên tổng số 18 điều kiện), bao gồm: (i) mức độ độc lập trong hoạt động điều hành; (ii) quy trình dự báo có hệ thống; (iii) dự báo theo kịch bản; (iv) mức độ đô-la hóa thấp; và (v) nợ công trong ngưỡng an toàn (dù còn những lo ngại nhất định). Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn khá nhiều khía cạnh chưa đạt. Cụ thể : Thứ nhất, mức độ độc lập về thể chế của Ngân hàng Nhà nước dường như chưa đạt so với yêu cầu trên lý thuyết. Theo Luật Ngân hàng Nhà nước 2010, tại khoản 1, Điều 2, “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Với vị thế là một cơ quan ngang bộ thuộc Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước rõ ràng có điều kiện tốt hơn để phối hợp với các cơ quan Chính phủ và để tham vấn với Chính phủ về mục tiêu điều hành liên quan đến lạm phát. Tuy nhiên, đây cũng chính là nguyên nhân khiến mức độ độc lập về thể chế của Ngân hàng Nhà nước là chưa cao, do có thể chịu chi phối trong quá trình xác định và thực hiện mục tiêu lạm phát. Các nghiên cứu của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2010, 2012) và Võ Trí Thành và cộng sự (2013) cho thấy mục tiêu tăng trưởng hầu như luôn nhận được ưu tiên cao hơn lạm phát. Thậm chí ngay cả trong một số thời kỳ chúng ta công bố việc quyết liệt kiềm chế lạm phát, chính sách tài khóa vẫn được điều hành theo hướng nới lỏng nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Trong thời gian gần đây, Ngân hàng Nhà nước đã có được sự chủ động và linh hoạt nhất định trong việc vận dụng các công cụ CSTT, song vị trí trong Chính phủ dường như vẫn gây ra lo ngại về rằng các công cụ này phải hướng tới mục tiêu mà Chính phủ mong muốn.



Thứ hai, hạ tầng kỹ thuật chưa đủ đáp ứng yêu cầu theo khung khổ điều hành CSTT theo LPMT, dù đã có nhiều chuyển biến trong thời gian vừa qua. Hệ thống cơ sở dữ liệu còn hết sức hạn chế so với yêu cầu điều hành của Ngân hàng Nhà nước, trong khi bản thân các số liệu thuộc các lĩnh vực phi tiền tệ còn có phạm vi nhỏ, số lượng ít, thiếu định kỳ và/hoặc cập nhật thường xuyên. Quy chế phối hợp giữa Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính được ký vào cuối năm 2011 là một bước đi phù hợp, song cần được nhân rộng để nâng cao hiệu quả chia sẻ thông tin giúp điều hành CSTT, dù có gắn định theo mục tiêu lạm phát hay không.

Trong khi đó, Ngân hàng Nhà nước dường như vẫn chưa có một mô hình dự báo đủ mạnh và tinh vi để đáp ứng yêu cầu dự báo phục vụ điều hành CSTT. Bản thân đối tượng dự báo là lạm phát thông thường hay lạm phát cơ bản (vẫn chưa thống nhất về phạm vi tính) vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Vấn đề này là không dễ trong bối cảnh nền kinh tế đang có nhiều biến động mạnh như hiện nay, và việc kiểm chứng các thay đổi cơ cấu trong giai đoạn gần đây nhất gặp khó khăn vì hạn chế số liệu. Nhiều mô hình đã được các cán bộ ngân hàng học hỏi, tham gia xây dựng và vận dụng ở nhiều cấp độ khác nhau, song những nỗ lực này chưa được chuẩn hóa trong quy trình công tác. Hạn chế này phần nào giảm bớt do có sự hiện diện của một loạt các cơ quan, tổ chức nghiên cứu có năng lực và kinh nghiệm vận dụng các mô hình phân tích và dự báo. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước cần một mô hình tinh vi và phải đủ chuyên biệt hơn để đáp ứng nhu cầu của mình, cụ thể là gắn với các kịch bản điều hành CSTT khác nhau.



Thứ ba, Việt Nam dường như chưa đáp ứng điều kiện về các nhân tố cơ cấu kinh tế. Dù đã có nhiều nỗ lực tự do hóa giá cả, song nhiều mặt hàng vẫn thuộc diện quản lý giá. Doanh nghiệp bán lẻ có thêm quyền điều chỉnh giá xăng dầu, song kiểm soát của nhà nước còn hiện hữu. Tương tự, giá điện cũng được kiểm soát, dù đã được điều chỉnh nhiều hơn cho sát với chi phí sản xuất và truyền tải trong thời gian gần đây. Giá nhiều dịch vụ như giáo dục và y tế cũng bị kiểm soát. Trên phương diện khác, nền kinh tế nhìn chung khá nhạy với các diễn biến giá cả thế giới, nhất là giá hàng nông sản (như gạo, cà phê, điều, v.v.), giá vàng, v.v. Tỷ trọng hàng lương thực – thực phẩm trong rổ giá CPI còn cao, lên tới gần 40%. Diễn biến tỷ giá VNĐ/USD cũng ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động kinh tế và giá cả trong nước.

Cuối cùng, trình độ phát triển ngân hàng – tài chính ở Việt Nam vẫn còn tương đối thấp và thiếu bền vững. Độ sâu tài chính còn khá thấp và không có nhiều cải thiện trong thời gian gần đây, khi Việt Nam thực thi chính sách kinh tế vĩ mô thắt chặt. Hệ thống ngân hàng cũng đang trong thời điểm mấu chốt của quá trình tái cơ cấu, và cho đến nay vẫn đang chờ các thể chế cụ thể để xử lý nợ xấu. Thị trường chứng khoán còn kém phát triển, trong khi trái phiếu doanh nghiệp còn rất hạn chế. Bản thân đường cong lợi suất chuẩn vẫn còn thiếu, dù đã được đề xuất xây dựng trong nhiều nghiên cứu.

Những khó khăn trên cho thấy Việt Nam còn phải nỗ lực rất nhiều mới đáp ứng được các điều kiện áp dụng hiệu quả khung khổ CSTT theo LPMT. Tuy nhiên, thực tiễn ở các thị trường mới nổi - như đã phân tích trong phần 1.2 - cho thấy khuôn khổ này vẫn là một lựa chọn để cân nhắc ngay cả khi chưa đáp ứng đủ các điều kiện cần thiết. Cần nhận thức được rằng việc đáp ứng các điều kiện này sẽ giúp tăng tính minh bạch và hiệu quả điều hành khung khổ CSTT theo LPMT. Chính vì vậy, điều quan trọng trong thời gian tới – song song với quá trình kiềm chế lạm phát và tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh – là nâng cao năng lực thể chế và năng lực điều hành cho NHNN trước khi cân nhắc chuyển sang một hình thức cụ thể của khung khổ CSTT theo LPMT.

Tóm lại, những phân tích trên cho thấy các điều kiện áp dụng hiệu quả khung khổ chính sách tiền tệ theo CSLPMT tại Việt Nam vẫn chỉ đáp ứng ở mức thấp. Tuy nhiên, thực tiễn ở các thị trường mới nổi - như đã phân tích trong chương 1 cho thấy khung khổ này vẫn là một lựa chọn để cân nhắc ngay cả khi chưa đáp ứng đủ các điều kiện cần thiết. Bên cạnh đó, những chuyển biến gần đây của nền kinh tế nói chung cũng như trong hệ thống ngân hàng nói riêng, trong công tác điều hành kinh tế vĩ mô nói chung và công tác điều hành CSTT nói riêng, có thể thấy xu hướng để hình thành các điều kiện như vậy đang từng bược được thực hiện và mang lại kết quả tích cực. Vì vậy, việc thực hiện khuôn khổ CSLPMT là có thể, với điều kiện những nỗ lực để hình thành các điều kiện cần thiết như phân tích ở trên cần tiếp tục được đẩy mạnh. Bên cạnh đó, việc chuyển giao sang một cơ chế CSTT chỉ có thể đạt được kết quả tốt đẹp nếu nó nhận được sự đồng thuận cao cũng như sự hỗ trợ đồng bộ từ các chính sách vĩ mô khác.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2


Chương 2 của luận án đã khái quát hóa được bối cảnh kinh tế vĩ mô Việt Nam qua các giai đoạn từ năm 2005 đến nay. Đây là cơ sở để tác giả làm nổi bật được các vấn đề mà chính sách tiền tệ cần giải quyết đối với từng mốc thời gian, phù hợp với các bối cảnh lịch sử cụ thể. Thông qua việc nghiên cứu thực trạng điều hành CSTT của 2 giai đoạn 2005-2010 và giai đoạn 2011 đến nay để đánh giá một cách sâu sắc những thành tựu đạt được trong công tác điều hành của NHNN như (i) lạm phát đã phần nào được kiểm soát; (ii) tăng trưởng kinh tế dần được cải thiện; (iii) tình trạng đôla hóa, vàng hóa có xu hướng giảm, tỷ giá diễn biến ổn định, dự trữ ngoại hối được cải thiện; (iii) Lãi suất được điều hành theo hướng giảm dần nhưng vẫn đảm bảo mức chênh lệch đáng kể giữa lãi suất VND và lãi suất USD, giúp gia tăng lợi ích cho người dân nắm giữ VND. Bên cạnh đó nghiên cứu cũng chỉ rõ những hạn chế trong công tác điều hành của CSTT trong thời gian qua như (i) chưa xác định rõ mục tiêu ngắn hạn và dài hạn của CSTT; (ii) chưa thực sự đảm bảo tính thống nhất giữa các mục tiêu hoạt động, mục tiêu trung gian và mục tiêu cuối cùng; (iii) việc kiểm soát cung tiền của NHNN bộc lộ những hạn chế; (iv) điều hành chính sách tiền tệ mang tính hành chính.

Trên cơ sở phân tích thực trạng, đánh giá những mặt tồn tại tác giả đã đưa ra khuyến nghị cần thiết phải đổi mới phương thức điều hành CSTT hiện tại sang thực hiện theo khuôn khổ CSLPMT để có thể đảm bảo được hiệu quả của CSTT trong mục tiêu kiểm soát lạm phát, đáp ứng các yêu cầu của nền kinh tế, đặc biệt là mục tiêu về ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng bền vững , đồng thời thông qua nghiên cứu tác giả đã đánh giá, định vị được mức độ đáp ứng các điều kiện để thực hiện chính sách tiền tệ theo khuôn khổ lạm phát mục tiêu ở Việt Nam đều chưa cao, mới chỉ thỏa mãn được 5 điều kiện (trên tổng số 18 điều kiện), bao gồm: (i) mức độ độc lập trong hoạt động điều hành; (ii) quy trình dự báo có hệ thống; (iii) dự báo theo kịch bản; (iv) mức độ đô-la hóa thấp; và (v) nợ công trong ngưỡng an toàn (dù còn những lo ngại nhất định). Tuy nhiên như phân tích ở phần lý thuyết, khuôn khổ CSLPMT vẫn là một lựa chọn để cân nhắc ngay cả khi chưa đáp ứng đủ các điều kiện cần thiết, tác giả cũng đã phân tích kỹ các nhóm điều kiện và đề xuất việc áp dụng theo phiên bản chính sách mục tiêu giá cả linh hoạt là phù hợp với Việt Nam. Đây là những điểm cốt lõi làm tiền đề tốt cho việc hoàn thiện các giải pháp trong Chương 3.


CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP VÀ LỘ TRÌNH HOÀN THIỆN CÁC ĐIỀU KIỆN CHO

KHUÔN KHỔ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ THEO LẠM PHÁT MỤC TIÊU

Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN TỚI



Каталог: upload -> 4989
upload -> 1. Most doctors and nurses have to work on a once or twice a week at the hospital
upload -> TrầnTrang EnglishTheory Phonetics
upload -> BỘ khoa học và CÔng nghệ TÀi liệu hưỚng dẫN
upload -> TÀi liệu hưỚng dẫn sử DỤng dịch vụ HỘi nghị truyền hình trực tuyếN
upload -> BỘ thông tin truyềN thông thuyết minh đỀ TÀi xây dựng quy chuẩn kỹ thuật thiết bị giải mã truyền hình số MẶT ĐẤt set – top box (stb)
upload -> CHỦ TỊch nưỚC
upload -> CHỦ TỊch nưỚC
upload -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
upload -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
4989 -> Số: 1648/QĐ-hvnh-sđH

tải về 1.63 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương