HÀ NỘI – 2013 BỘ giáo dụC ĐÀo tạo bộ y tế viện dinh dưỠNG



tải về 1.67 Mb.
trang12/16
Chuyển đổi dữ liệu18.07.2016
Kích1.67 Mb.
#1898
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   16

Hiệu quả của mô hình can thiệp tăng cường truyền thông giáo dục tập trung khuyến khích tiêu thụ thực phẩm giàu sắt và so sánh với giải pháp bổ sung sắt hàng ngày đối với cải thiện tình trạng thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ tuổi sinh đẻ


  1. Hiệu quả của bổ sung sắt/folic lên cải thiện tình trạng thiếu máu

Kết quả nghiên cứu tại Tân Lạc Hòa Bình cho thấy, tại thời điểm kết thúc can thiệp bằng bổ sung sắt/folic (T3) nồng độ hemoglobin tăng có ý nghĩa thống kê ở 2 nhóm can thiệp bằng bổ sung sắt/folic với p<0,01 (bảng 3.16). Nồng độ hemoglobin ở nhóm TTGD+Fe tăng 2,8 ± 0,5 g/dl và ở nhóm uống sắt tăng 2,4 ± 0,2 g/dl. Nồng độ hemoglobin cũng tăng ở nhóm chứng nhưng mức tăng thấp hơn so với 2 nhóm can thiệp (1,4 ± 0,2 g/dl). Điều này cho thấy ở những đối tượng có mức hemoglobin thấp hơn sẽ thay đổi nồng độ hemoglobin nhiều hơn vì cơ thể đã hấp thu sắt nhiều hơn để bù cho lượng sắt bị thiếu. Kết quả nghiên cứu của một số tác giả khác về bổ sung sắt cho cũng có nhận định tương tự [28], [29], [30], [32], [79], [95], [101].

Cùng với nồng độ hemoglobin, nồng độ ferritin ở hai nhóm can thiệp tăng có ý nghĩa thống kê (p<0,01) so với nhóm chứng nhưng không có sự khác biệt giữa hai nhóm (p>0,05). Nồng độ ferritin trung bình ở nhóm TTGD+Fe tăng 23,1 ± 16,8 µg/L và nhóm uống sắt tăng 21,4 ± 17,2 µg/L. Ở nhóm chứng, nồng độ ferritin cũng tăng từ 2,7 ± 0,1 µg/L nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Song song với cải thiện đáng kể nồng độ hemoglobin và ferritin ở 2 nhóm bổ sung sắt/folic sau 3 tháng bổ sung sắt/folic thì tỷ lệ thiếu máu của phụ nữ tuổi sinh đẻ ở 2 nhóm can thiệp giảm được 96,7% so với trước can thiệp (p<0,01). Trong khi đó tỷ lệ thiếu máu ở nhóm chứng cũng giảm 68,3% (p<0,05) (bảng 3.17).

Bổ sung viên sắt/folic trong thời gian 3 tháng cũng đã giúp 100% phụ nữ tuổi sinh đẻ ở 2 nhóm can thiệp thoát khỏi tình trạng thiếu máu thiếu sắt (p<0,01). Tuy nhiên, tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt của phụ nữ tuổi sinh đẻ ở nhóm chứng đã giảm từ 46,7% xuống còn 10% (p<0,01) (bảng 3.17). Sở dĩ nồng độ hemoglobin, nồng độ ferritin huyết thanh và tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt của phụ nữ tuổi sinh đẻ ở nhóm chứng cũng thay đổi theo chiều hướng tốt vì các đối tượng sau khi được lấy máu làm xét nghiệm họ cũng tự tìm hiểu và có ý thức hơn trong việc tự chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng của bản thân.

Từ kết quả nghiên cứu đã cho thấy hiệu quả rõ rệt và nhanh chóng trong việc cải thiện tình trạng thiếu máu thiếu sắt của việc bổ sung sắt/folic trên các đối tượng là phụ nữ tuổi sinh đẻ bị thiếu máu tại địa bàn nghiên cứu. Chính vì vậy mà bổ sung sắt là một trong những chiến lược chính của chương trình phòng chống thiếu sắt ở hầu hết các quốc gia có tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt cao. Giải pháp bổ sung sắt là một can thiệp không thể thiếu được ở những cộng đồng mà lượng sắt khẩu phần không thể đáp ứng được nhu cầu sắt của các cá thể, đặc biệt là trẻ em, phụ nữ có thai và phụ nữ tuổi sinh đẻ. Bổ sung sắt là giải pháp thường được sử dụng để điều trị thiếu máu do thiếu sắt. Giải pháp này cũng được xem như là giải pháp ngắn hạn trong phòng chống thiếu máu thiếu sắt ở những cộng đồng có nguy cơ thiếu sắt và thiếu máu thiếu sắt cao. Bổ sung sắt là giải pháp cấp bách nhằm giải quyết nhanh tình trạng thiếu máu thiếu sắt ở nhóm đối tượng bị thiếu máu do thiếu sắt [38], [39], [41], [55].

Bổ sung sắt/folic là giải pháp ngắn hạn và nhanh nhất để cải thiện tình trạng thiếu máu thiếu sắt nhưng hiệu quả cũng không kéo dài. Chính vì vậy, xu hướng giảm dần nồng độ hemoglobin và ferritin theo thời gian ở nghiên cứu này sau khi dừng bổ sung sắt là tất yếu. Do đó để duy trì nồng độ cao của hemoglobin và ferritin huyết thanh cũng như cải thiện tốt tình trạng thiếu máu dinh dưỡng thì bên cạnh việc bổ sung sắt cần kết hợp với các giải pháp khác như truyền thông giáo dục dinh dưỡng, giải pháp dựa vào thực phẩm để duy trì tính bền vững của can thiêp.



      1. Hiệu quả của truyền thông giáo dục dinh dưỡng lên cải thiện tình trạng dinh dưỡng và thiếu máu

        1. Hiệu quả của truyền thông giáo dục dinh dưỡng lên cải thiện tình trạng dinh dưỡng

Truyền thông thay đổi hành vi là quá trình truyền thông nhằm tạo ra sự thay đổi hành vi bền vững. Truyền thông có hiệu quả là tạo ra nhận thức, cải thiện kiến thức và đem lại những thay đổi lâu dài trong hành vi của cá nhân và cộng đồng.

Trong nghiên cứu này, hoạt động truyền thông tích cực được thực hiện đồng thời cùng với bổ sung sắt/folic tại xã Mãn Đức (nhóm bổ TTGD kết hợp bổ sung sắt). Kết quả nghiên cứu tại bảng 3.14 cho thấy tại thời điểm trước can thiệp, cân nặng trung bình của phụ nữ tuổi sinh đẻ ở cả 3 nhóm là tương đồng nhau (p>0,05). Hiệu quả của truyền thông giáo dục dinh dưỡng cần phải có đủ thời gian để có thể nhận thấy được. Chính vì vậy, sau 3 tháng truyền thông tích cực kết hợp bổ sung viên sắt/folic hàng ngày cho phụ nữ tuổi sinh đẻ tại địa bàn nghiên cứu cân nặng của các đối tượng đều tăng. Nhóm TTGD+Fe tăng 1,2 ± 0,1 kg cao hơn so với nhóm bổ sung sắt (1,1 ± 0,0 kg) và nhóm chứng (1,1 ± 0,3 kg) nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Sau 3 tháng can thiệp bằng viên sắt, cân nặng của đối tượng đều tăng ở cả 3 nhóm nghiên cứu và có sự khác biệt về ý nghĩa thống kê. Nhóm TTGD+Fe tăng 1,2 ± 0,1kg (p<0,01). Nhóm uống sắt và nhóm chứng tăng 1,1 ± 0,0 kg và 1,1 ± 0,3 kg với p<0,05. Không có sự khác biệt về mức tăng cân giữa 2 nhóm can thiệp so với nhóm chứng (p>0,05). Sự khác biệt về mức tăng cân ở phụ nữ tuổi sinh đẻ giữa các nhóm nghiên cứu xuất hiện ở tháng thứ 6 (T6) của can thiệp bằng truyền thông tích cực về phòng chống thiếu máu dinh dưỡng. Tại thời điểm T6, mức tăng cân của phụ nữ tuổi sinh đẻ ở nhóm TTGD+Fe tăng (2,6 ± 0,3 kg ) có ‎ý nghĩa thống kê so với nhóm bổ sung sắt (1,5 ± 0,0 kg) và nhóm chứng (1,8 ± 0,1 kg) với p<0,05. Tại thời điểm kết thúc nghiên cứu (T12), mức tăng cân của phụ nữ tuổi sinh đẻ ở nhóm TTGD+Fe tăng 3,1 ± 0,8 kg so với thời điểm bắt đầu can thiệp (T0). Mức tăng này cao hơn có ý nghĩa thống kê so với mức tăng cân của phụ nữ tuổi sinh đẻ ở nhóm chứng (p<0,01).

Cùng với việc tăng cân của phụ nữ tuối sinh đẻ ở nhóm có giáo dục truyền thông thì tỷ lệ CED của những đối tượng này cũng thay đổi. Kết quả ở biểu đồ 3.4 cho thấy tỷ lệ phụ nữ bị CED giảm từ 36,7 % tại thời điểm T0 xuống còn 11,7% tại thời điểm T12 (p<0,01). Khi so sánh mức giảm tỷ lệ CED giữa 3 nhóm cho thấy, mức giảm ở nhóm TTGD+Fe cao hơn (25%) so với nhóm bổ sung sắt (16,7%) và nhóm chứng (10%). Khi so sánh hiệu quả can thiệp giữa nhóm có truyền thông giáo dục với 2 nhóm còn lại đối với cải thiện tình trạng dinh dưỡng của phụ nữ tuổi sinh đẻ (bảng 3.18) cho thấy hiệu quả can thiệp thực tại thời điểm T6 là 26,3% cao hơn có ý nghĩa thống kê so với thời điểm T3 (p<0,05). Đến thời điểm T12 hiệu quả can thiệp thực ở nhóm có truyền thông giáo dục dinh dưỡng đã tăng lên 30,7%.

Một số nghiên cứu cũng cho thấy hiệu quả của giải pháp can thiệp bằng truyền thông tích cực lên cải thiện tình trạng dinh dưỡng của các đối tượng. Như kết quả nghiên cứu của Nguyễn Minh Tuấn tại Thái Nguyên cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi đã giảm từ 41,6% xuống còn 32% sau thời gian 18 tháng và hiệu quả can thiệp thực là 11% [25]. Giải pháp can thiệp khả thi ở vùng nông thôn khó khăn tỉnh Quảng Bình và giải pháp an ninh thực phẩm hộ gia đình tại Yên Bái cũng cho kết quả tương tự [30], [42].

Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.23 cho thấy, sau 12 tháng can thiệp bằng truyền thông giáo dục dinh dưỡng tích cực, tỷ lệ phụ nữ tuổi sinh đẻ có kiến thức đúng đã tăng lên 31,5% so với thời điểm trước can thiệp (p<0,01). Từ đó dẫn đến tỷ lệ đối tượng có thực hành tốt cũng tăng từ 18,3% lên 68,5% trong khi đó ở nhóm uống sắt và nhóm chứng, tỷ lệ này hầu như không thay đổi (biểu đồ 3.6). Đầu ra của kiến thức và thực hành dinh dưỡng đúng thể hiện bằng mức năng lượng trung bình đã tăng từ 2157,8 Kcal/người/ngày lên 2499,9 Kcal/người/ngày (p<0,05) và tỷ lệ phụ nữ tuổi sinh đẻ có mức đáp ứng nhu cầu khuyến nghị về các chất dinh dưỡng cũng tăng theo (bảng 3.28). Nghiên cứu cứu của Phạm Hoàng Hưng cho thấy mối liên quan giữa kiến thức, thực hành dinh dưỡng với tình trạng dinh dưỡng. Thiếu kiến thức, thực hành dinh dưỡng đúng dẫn đến chế độ ăn nghèo nàn và hệ quả tất yếu là CED [36].

Giáo dục dinh dưỡng là một hoạt động cơ bản nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe của nhân dân. Giáo dục dinh dưỡng là hoạt động cần được ưu tiên, bởi nguyên nhân gốc rễ dẫn đến nạn đói và nạn suy dinh dưỡng là sự thiếu kiến thức và sự nghèo khổ. Giáo dục dinh dưỡng là biện pháp can thiệp nhằm thay đổi những tập quán thói quen và các hành vi liên quan đến dinh dưỡng, nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng trong quá trình phát triển kinh tế và xã hội. Bản thân quá trình giáo dục dinh dưỡng phải nằm trong một chiến lược phát triển của toàn xã hội mà nó là một quá trình liên tục, không ngừng. Giáo dục dinh dưỡng đòi hỏi một sự tham gia của toàn xã hội đặc biệt là các ngành giáo dục, truyền thông, nông nghiệp, hội làm vườn, ngành sức khỏe cộng đồng và dinh dưỡng. Ðồng thời đòi hỏi sự tham gia của các tổ chức quần chúng, các hội từ thiện, đặc biệt là sự quan tâm của các cấp chính quyền từ trung ương đến cơ sở.

Bản chất của hoạt động giáo dục dinh dưỡng cộng đồng là sự chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và kiến thức. Ðồng thời giáo dục dinh dưỡng là một quá trình có mục đích. Ðể thực hiện giáo dục dinh dưỡng có hiệu quả việc phân tích các yếu tố nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy dinh dưỡng ở cộng đồng là rất quan trọng. Từ những phân tích thực tế điều kiện sống, kinh tế và văn hóa giáo dục, tìm ra những nguyên nhân then chốt, tiềm tàng mà từ đó xây dựng kế hoạch giáo dục dinh dưỡng thích hợp.

Trong thập kỷ qua, Việt Nam đã đạt được một tiến bộ đáng kể trong việc cải thiện tình trạng dinh dưỡng của người dân đặc biệt là nhóm đối tượng có nguy cơ cao là trẻ em và phụ nữ tuổi sinh đẻ. Tuy nhiên, do nguồn lực hạn chế, các chương trình can thiệp sức khỏe và dinh dưỡng quốc gia chỉ mới tập trung vào nhóm trẻ dưới 5 tuổi mà chưa tập trung nhiều vào đối tượng là phụ nữ tuổi sinh đẻ. Những rối loạn về dinh dưỡng và sức khỏe của phụ nữ tuổi sinh đẻ, bao gồm CED, thừa cân-béo phì, thiếu vi chất dinh dưỡng, mất an toàn vệ sinh thực phẩm, nhiễm giun… đang góp phần không nhỏ gây ảnh hưởng không tốt đến thể lực và sức khỏe của phụ nữ tuổi sinh đẻ. Để giải quyết những vấn đề trên thì công tác truyền thông giáo dục dinh dưỡng và sức khỏe cần được thực hiện một cách có hệ thống, thường xuyên và có chính sách thích hợp.



        1. Hiệu quả của truyền thông giáo dục dinh dưỡng lên cải thiện tình trạng thiếu máu dinh dưỡng

Nhiều tác giả đã khẳng định giáo dục truyền thông là giải pháp chiến lược hàng đầu trong xây dựng đường lối dinh dưỡng. Truyền thông giáo dục thay đổi hành vi là một trong các giải pháp can thiệp dinh dưỡng đang được ưu tiên hàng đầu ở trong và ngoài nước nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng cũng như tình trạng vi chất dinh dưỡng của người dân [12], [16], [31], [36], [150], [113].

Điều này cũng được nhận thấy từ kết quả nghiên cứu của chúng tôi (bảng 3.16). Sau 12 tháng can thiệp bằng truyền thông giáo dục về phòng chống thiếu máu dinh dưỡng, nồng độ hemoglobin trung bình của phụ nữ tuổi sinh đẻ ở nhóm TTGD+Fe đã tăng 2,8±0,5g/dl. Mức tăng này cao hơn so với nhóm bổ sung sắt (2,4±0,2g/dl) và nhóm chứng (1,4±0,2g/dl). Tuy nhiên kết quả ở bảng 3.16 cho thấy truyền thông giáo dục phòng chống thiếu máu dinh dưỡng dường như đã có hiệu quả trong việc làm thay đổi nồng độ hemoglobin của đối tượng ở nhóm có can thiệp bằng truyền thông so với nhóm bổ sung sắt. Nhưng khi xem xét đến sự thay đổi về dự trữ sắt thì kết quả (bảng 3.16) cho thấy hiệu quả rõ rệt của truyền thông giáo dục đối với sự tăng nồng độ ferritin ở nhóm TTGD+Fe. Tại thời điểm T0, nồng độ ferritin huyết thanh của phụ nữ tuổi sinh đẻ ở nhóm có truyền thông giáo dục phòng chống thiếu máu dinh dưỡng là 19,9 ± 35,8 µg/L nhưng sau 12 tháng mức ferritin tăng 10 ± 7,4 µg/L và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Trong khi đó nồng độ ferritin ở nhóm bổ sung sắt cũng tăng 6,9 ± 2,7 µg/L (p<0,05) và mức tăng này thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với mức tăng ở nhóm TTGD+Fe (p<0,05). Mức tăng nồng độ ferritin ở nhóm chứng không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Truyền thông giáo dục dinh dưỡng cũng có tác động đối với cải thiện tình trạng thiếu máu và thiếu máu thiếu sắt của phụ nữ tuổi sinh đẻ ở nhóm TTGD+Fe. Tại thời điểm kết thúc nghiên cứu (T12), tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt ở nhóm TTGD+Fe (29,5%) thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm uống sắt (43,3%) và nhóm chứng (46,7%) với p<0,01 (bảng 3.17). Bên cạnh đó, tỷ lệ thiếu máu do thiếu sắt của phụ nữ tuổi sinh đẻ ở nhóm TTGD+Fe cũng thấp hơn (10,0%) có ý nghĩa thống kê so với nhóm uống sắt và nhóm chứng (18,3%). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05 (bảng 3.17). Hiệu quả của truyền thông giáo dục đối với phòng chống thiếu máu dinh dưỡng một lần nữa được khẳng định trong nghiên cứu này khi hiệu quả can thiệp thực đối với tỷ lệ thiếu máu (bảng 3.19) tại thời điểm T12 của nhóm TTGD+Fe so với nhóm uống sắt là 17,2% (p<0,01) và đối với thiếu máu thiếu sắt (bảng 3.20) là 22,5% (p<0,01). Hiệu quả can thiệp thực về cải thiện tình trạng thiếu máu của đối tượng nghiên cứu ở nhóm uống sắt ở thời điểm T3 là 21,4%, T6 là -4,6% và T12 là -21,8%. Nhóm chứng là nhóm có giá trị dinh dưỡng khẩu phần tốt hơn so với nhóm uống sắt (bảng 3.28 và 3.29). Do đó, hiệu quả can thiệp ở nhóm uống sắt thấp thấp hơn so với nhóm chứng. Điều này cho thấy nếu chỉ bổ sung viên sắt/folic thì mới cải thiện được tình trạng thiếu máu trong thời gian bổ sung viên sắt. Nếu không có giải pháp can thiệp phối hợp như TTGD hay hướng dẫn thực hành chế độ dinh dưỡng hợp lý thì sau khi dừng bổ sung viên sắt thì tỷ lệ thiếu máu bắt đầu tăng trở lại và hiệu quả của bổ sung sắt sẽ không bền vững.

Có được kết quả tích cực đối với cải thiện tình trạng thiếu máu dinh dưỡng nhờ truyền thông giáo dục là vì chính truyền thông giáo dục đã làm thay đổi kiến thức và thực hành phòng chống thiếu máu của đối tượng. Kết quả cho thấy hiệu quả can thiệp thực đối với kiến thức tốt của phụ nữ tuổi sinh đẻ ở nhóm TTGD+Fe tại thời điểm kết thúc nghiên cứu là 31,5% (p<0,01) (bảng 3.26) và đối với thực hành đúng là 48% (p<0,01) (bảng 3.27). Chính sự thay đổi kiến thức, thực hành về phòng chống thiếu máu của phụ nữ tuổi sinh đẻ đã làm cho đối tượng có những hành vi đúng hơn trong chế độ ăn của mình. Các đối tượng đã biết sử dụng nhiều thực phẩm hỗ trợ, tăng cường hấp thu sắt và hạn chế sử dụng những thực phẩm ức chế hấp thu sắt trong khẩu phần. Tỷ lệ phụ nữ tuổi sinh đẻ ở nhóm TTGD+Fe đã thay đổi thói quen uống nước chè là thực phẩm có chứa tannin (chất ức chế hấp thu sắt) ngay sau bữa ăn đã giảm đáng kể sau 12 tháng (p<0,01) (bảng 3.24). Mức tiêu thụ trung bình một số chất tăng cường hấp thu sắt đã tăng đáng kể ở nhóm có giáo dục truyền thông về phòng chống thiếu máu dinh dưỡng. Kết quả ở bảng 3.28 cho thấy mức protein trung bình khẩu phần đã tăng từ 70,9±23,4 gam/người/ngày lên 82,6 ± 17,7 gam/người/ngày; lượng sắt tăng từ 8,0 ± 4,6 gam/người/ngày lên 15,4 ± 4,5 gam/người/ngày; lượng vitamin C tăng từ 113,4±68,2 gam/người/ngày lên 130,1±85,7 gam/người/ngày. Bên cạnh đó, tỷ lệ phụ nữ tuổi sinh đẻ có khẩu phần một số chất tăng cường hấp thu sắt đáp ứng nhu cầu khuyến nghị cũng tăng đáng kể tại thời điểm kết thúc nghiên cứu (bảng 3.28).

Truyền thông giáo dục dinh dưỡng cần phải có thời gian cần thiết để làm thay đổi kiến thức và thực hành đúng của đối tượng mà đầu ra mong muốn là thay đổi được tình trạng dinh dưỡng và tình trạng vi chất dinh dưỡng. Nhiều giải pháp can thiệp bằng truyền thông giáo dục tích cực nhằm cải thiện bữa ăn và tình trạng thiếu máu dinh dưỡng của phụ nữ tuổi sinh đẻ đã được thực hiện trong thời gian qua và cũng cho kết quả tương tự với nghiên cứu này. Tuy nhiên thời gian can thiệp của nghiên cứu này chỉ thực hiện trong 12 tháng trong khi đó can thiệp của Phạm Hoàng Hưng tại Huế là 18 tháng [36] và của Hồ Thị Tuyết và cộng sự tại Cần Thơ là 36 tháng [128] nên hiệu quả can thiệp của những nghiên cứu này cao hơn và bền vững hơn so với nghiên cứu tại Tân Lạc, Hòa Bình.

Truyền thông giáo dục dinh dưỡng phòng chống thiếu máu dinh dưỡng cần tập trung vào 3 nhóm nguy cơ chính , đó là các yếu tố về nhân khẩu học (người cao tuổi, thanh thiếu niên, phụ nữ…), các yếu tố về chế độ dinh dưỡng (chế độ ăn thiếu đạm động vật, nghèo sắt, nghèo vitamin C…) và các yếu tố xã hội/thể tạng (đói nghèo, tình trạng tâm lý và bệnh tật) [136]. Nghiên cứu của chúng tôi cũng đã tập trung vào đối tượng có nguy cơ thiếu máu dinh dưỡng cao đó là phụ nữ tuổi sinh đẻ tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số của vùng núi Tây Bắc. Đây là nơi có điều kiện kinh tế khó khăn, trình độ học vấn của đối tượng nghiên cứu tương đối thấp và kiến thức, thực hành đúng về dinh dưỡng còn ở mức thấp. Với những can thiệp bằng bổ sung viên sắt/folic kết hợp truyền thông giáo dục dinh dưỡng tích cực đã đem lại hiệu quả đáng kể đối với cải thiện tình trạng thiếu máu và dự trữ sắt của phụ nữ tuổi sinh đẻ tại địa bàn nghiên cứu.



Nhờ các giải pháp can thiệp được thực hiện đồng thời tại xã Mãn Đức, huyện Tân Lạc đã thay đổi kiến thức, thực hành về phòng chống thiếu máu dinh dưỡng của phụ nữ tuổi sinh đẻ theo chiều hướng tích cực. Tình trạng dinh dưỡng, tình trạng thiếu máu đã cải thiện có ý nghĩa thống kê.



Каталог: FileUpload -> Documents
Documents -> BỘ khoa học và CÔng nghệ
Documents -> Phụ lục về cấp hạng khách quốc tế
Documents -> CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam qcvn 01 78: 2011/bnnptnt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia thứC Ăn chăn nuôi các chỉ tiêu vệ sinh an toàn và MỨc giới hạn tốI Đa cho phép trong thứC Ăn chăn nuôI
Documents -> TỔng cục dạy nghề
Documents -> BỘ giáo dụC ĐÀo tạo bộ y tế viện dinh dưỠng nguyễn thị thanh hưƠng thực trạng và giải pháP
Documents -> Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o bé y tÕ ViÖn dinh d­ìng Ph¹m hoµng h­ng HiÖu qu¶ cña truyÒn th ng tÝch cùc ®Õn ®a d¹ng ho¸ b÷a ¨n vµ
Documents -> TỜ khai xác nhận viện trợ HÀng hóA, DỊch vụ trong nưỚC
Documents -> Phụ lục I mẫU ĐƠN ĐỀ nghị ĐĂng ký LƯu hàNH
Documents -> BỘ giáo dụC ĐÀo tạo bộ y tế viện dinh dưỠng quốc gia tiếp thị XÃ HỘi vớI việc bổ sung sắt cho phụ NỮ CÓ thai dân tộc mưỜng ở HÒa bìNH

tải về 1.67 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   16




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương