Cây thàn mát
Cây Mác bát, hột mát, duốc cá, thăn mút.
Milletia Ichthyochtona Drake.
Họ cánh bớm: Fabaceae hay Papilionaceae.
1. Mô tả cây, phân bố và bộ phận dùng
Là cây to, cao chứng 5-10 mét.
Lá kép 2 lần lông chim lẻ gồm 5 - 7 lá chét, lá rụng sớm.
Hoa trứng mọc thành chùm. Hoa thờng mọc trớc lá, làm cho cây có dáng đặc biệt ở trong rừng.
Quả là một giác dài 13cm rộng 2-3 cm. Từ 1/3 phía trên hẹp lại trông giống dao mã tấu lỡi rộng, bên trong chứa 1 hạt hình đĩa mầu vàng nâu nhat, đờng kính 20mm. Thu hạt vào tháng 4. Cây mọc hoang tại các vùng thợng du nớc ta, ở Tây Bắc, Hà Tây, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Bắc Thái.
2. Thành phần hóa học
Trong hạt mác bát có chứa khoảng 38 - 40% dầu. Các chất độc đối với cá nh rotenol, sapotoxin, chất gôm và các chất anbunmin. Trong đó Rotenol là hoạt chất chính.
3. Tác dụng dợc lý
Đối với ngời và động vật máu nóng, Rotenol ít độc, nếu uống không gây triệu chứng ngộ độc ở liều điều trị. Chó có thể uống 150mg/kg trọng lợng nhng vẫn không thấy triệu chứng khó chịu. Nhng nếu tiếp súc thờng xuyên, lâu dài: những ngời làm công tác chế biến, bào chế –tán bột, sao, sấy… dợc liệu có thể gây chảy nớc mắt, hắt hơI và buồn nôn.
Nếu tiêm tĩnh mạch Rotenol hay các chất cùng loại nh deguelin gây tê liệt thần kinh trung ơng với các biểu hiện: khó thở, sau thở hổn hển, liệt cơ vận động, sau con vật chết do bị ngạt thở. Trớc khi chết: tim loạn nhịp, mạch chậm, sau cùng liệt tâm thất.
- Với cá: Cá rất mẫn cảm với Rotenol, với nồng độ 75mg trong 100 lít nớc ở 23oC đủ giết chết cá vàng sau 2 giờ. Trớc khi chết cá bị kích thích, vận động mạnh, sau lờ đờ rồi chết.
Bộ môn bệnh cây trờng Đại học Nông nghiệp đã sử dụng hạt thàn mát nghiền nhỏ ngâm trong nớc lạnh 4 – 12 giờ rồi phun cho cây trừ sâu hai: Cirphis salebrosa hại ngô, sâu keo - Spodoptera mauritia, reetp khoai, nhậy hại bông…tuỳ loại bệnh sử dụng nồng độ 4 – 16% bột hạt.
4. Cách chế biến và sử dụng
Nh đối với cây hột mát.
Dây thuốc cá
Tên khác: (duốc cá, dây mật, đùng đục, cây cóc khèn...) ; tiếng Anh – tuba root, tiếng Pháp – derris tuba
Việt Nam có 2 giống, cây mọc ở miền Bắc: Deris elliptica. Benth; hay Derris tonkonensis Gagnep. Giống cây mọc ở miền Tây Nam Bộ: Deris trifoliete Lour.
Cả hai giống đều thuộc họ Cánh bớm: Fabraecea (Papilionaceae).
I. Mô tả cây.
Cây dây leo, thân khoẻ, dài 7 – 10m. Cây có thể mọc thành bụi hay có thể tựa vào các cây khác quấn thành bụi. Là kép lông chim lẻ gồm 9 – 13 là chét. Là kép mọc cách, khi vò nát là có mùi hăng đặc trng. Hoa có mầu nâu, những cánh phía trong có mầu hồng hay vàng nhát. Quả giác, đậu gồm 5 – 7 hạt, dài 5 – 7 cm.. Rễ có đờng kính 1 – 5 cm, dài 50 –70cm có mầu nâu nhạt, nhăn nheo theo chiều dọc. Khi bẻ có nhiều sơ, lõi rễ hoá thành gỗ có mầu vàng nhạt mùi hăng. Cây mọc hoang khắp nơi, nhất là những nơi ẩm ớt có độ phì nhiêu cao nh hai bên bờ kênh rạch của đồng bằng Nam Bộ. Cây mọc và phát triển tốt ơ nhiều nớc: Malaixia, ấn Độ, Inđônêxia và một số nớc khác ở châu Phi. Trồng bằng cách dâm cành.
II. Bộ phận dùng và cách chế biến.
Dùng toàn bộ rễ của cây, kể cả những rễ nhỏ. Tốt nhất dùng rễ của cây trên 2 năm tuổi. Hàm lợng hoạt chất cao nhất khi cây 23 – 27 tháng. Sau khi trồng 25 tháng, sản lợng rễ thu đợc khoảng 1500 – 3000kg/ha. Cây đợc trồng xen dới tán cau su hay dừa, dọc kênh…Đất có bón thêm vôi sẽ cho năng xuất cao hơn. Đào rễ khi cây có hàm lợng rotenol cao nhất, thu về rửa sạch phơi khô đến độ ẩm 12% là đợc. Khi dùng nghiền thành bột mịn rắc vết thơng có dòi hay dùng dung môi hữu cơ: cồn, ether chiết với tỷ lệ 3 – 10% phun lên mình gia súc.
III. Thành phần hoá học.
Trong rễ thuốc cá có chứa 10 – 12% nớc, 2 – 3% chất vô cơ, nhiều gluxit (đờng, tinh bột), tanin và chất nhựa.
+ Hoạt chất chính là Rotenol: chiếm khoảng 5 – 12%, thờng khoảng 5 – 8%, trừ 2 giống Cube và Timbe mới nhập vào.Hai giống này đợc trồng ở đồng bằng Nam Bộ từ năm 1983, lợng rotenol có thể đạt trên 15%. Một số cây mọc hoang đôi khi rotenol cũng có tỷ lệ 13%. Công thức phân tử C23H22O6. Năm 1932 – 1934 La Forga và Haller đã tìm đợc công thức phân tử của rotenol gồm:
-
Nhân pyran B
-
Nhân pyron C
-
Nhân hydrofuran E
-
1 Nhóm xetol
-
2 nhóm metoxy.
Rotenol là chất kết tinh hình khối lăng trụ, không mầu, tả tuyến D = - 230O có 2 dạng , một dạng nóng chẩy ở 163oC, dạng khác nóng chẩy ở 1800C. Tan mạnh trong chloroform, ít tan trong nớc.
+ Còn các chất khác (hoạt chất phụ) có công thức gần giống với rotenol.
Các chất khác tơng tự nh rotenol nh: Deguelin – C23H22O6 có khoảng 3 -8%. Kết tinh hình kim mầu lục nhát. Nóng chảy170oC.
Toxicarol – C23H22O7, tinh thể hình lục lăng, mầu vàng lục, chảy ở 219oC.
Tephrosin – C23H23O7, tinh thể không mầu, chảy ở 198oC. Ngoại ra còn có Sumatrol và Tefroxin. - 2 nhân bebzen A và D.
Thứ tự độ độc của các chất nh sau:
Rotenol mạnh nhất gấp 400 lần deguelin, deguelin gấp 40 lần tephrosin, tephrosin gấp 10 lần toxicarol.
IV.Tác dụng dợc lý
Kinh nghiệm dân gian dùng rễ thuốc cá để bắt cá. Nồng độ 1 ppm cá trong nớc đã bị say nên bắt dễ dàng.
Dùng rễ cây thuốc cá làm thuốc trừ sâu. Độc tính của rotenol thể động vật máu lạnh là 1ppm theo đờng uống hay do tiếp súc.
V. Cơ chế tác dụng.
Việt Nam, năm 1980 khi điều tra, nghiên cứu khả năng diệt côn trung phá hại Nông nghiệp của các cây thuốc, đã phát hiện đợc khả năng diệt côn trùng, mạnh nhất là sâu tơ của cây thuốc cá. Cây thuốc cá với nồng độ thấp cũng đã có tác dụng rất tốt. Nó còn có tác dụng tốt trên cả các loại côn trùng đã kháng lại các thuốc trừ sâu thông thờng. Hiện nay nớc ta đã có chủ chơng trông và khai thác cây này với qui mô lớn ở đồng bằng Nam Bộ. Rotenol và các chất tơng tự có tác dụng trị ngoại ký sinh trùng cho động vật nuôi cũng nh các loại công trùng theo cơ chế sau:
Khi ta bôi hay phun thuốc trên mình gia súc hoặc trong môi trờng, do tiếp xuc với thuốc, thuốc có thể vào cơ thể của côn trùng theo 2 đờng: ngấm qua da hay ăn, hít phải. Khi tiếp súc với rotenol, côn trùng sẽ bị liệt trung khu hô hấp. Chúng hoạt động yếu dần đi rồi chết, không dãy dụa. Trong cơ thể côn trùng, các tế bào thần kinh sẽ bị tê liệt trớc rồi toàn thân bị tê liệt. Cuối cùng côn trùng bị chết..
Rotenol chỉ độc với ngoại ký sinh trùng và với động vật máu lạnh (cá, lơn...), nó không gây độc cho gia súc và ngời. Với gia súc đã dùng liều 1500mg/kg thể trọng mà súc vật vẫn cha hề có biểu hiện độc.
Rotenol và các chất tơng tự có trong rễ cây thuốc cá đều là các chất không bền vững với thời giàn, dều dễ bị phân giải thành chất vô hại dới ánh sáng mặt trời hay do tiếp xúc với oxy trong không khí. Sau khi dùng nó sẽ biến thành chất vô hại cho ngời và động vật nuôi, không để lại tồn d trong sản phẩm.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |