Chiếc xe lexus và CÂy oliu


Xã hội có tổ chức của toàn cầu hoá



tải về 2.25 Mb.
trang24/24
Chuyển đổi dữ liệu31.07.2016
Kích2.25 Mb.
#11655
1   ...   16   17   18   19   20   21   22   23   24
Xã hội có tổ chức của toàn cầu hoá

Thế hệ những người Mỹ hiện nay không đơn giản có thể hiểu thấu được tầm quan trọng của nước Mỹ đối với thế giới trong kỷ nguyên toàn cầu hoá. Trước đây, Mỹ bị cô lập và bàng quan trước những sự việc của thế giới hoặc bị thúc ép tham gia nhiều vào thế giới như một phần trong một cuộc vận động lớn về tinh thần để né tránh sức mạnh đe doạ ồ ạt hơn nữa. Giải thích và hiểu được sự cô lập là điều đơn giản. Cam kết trong một thế giới lưỡng cực - với một con gấu So viết to lớn, đầy hăm doạ và được trang bị vũ trang luôn luôn hăm doạ phía bên kia – là điều dễ giải thích và hiểu được. Nhưng điều không dễ giải thích và hiểu được là cam kết trong một thế giới mà Mỹ là nước được hưởng lợi lớn nhất và cũng là siêu cường duy nhất, với những sức mạnh đa thứ yếu, và không có lời đe doạ hữu hình nào trực tiếp, nhưng có rất nhiều mối đe doạ nhỏ và một hệ thống toàn cầu hoá trừu tượng để duy trì. Tuy nhiên đây là thế giới chúng ta có, và trong thế giới này chúng ta không thể đủ sức để cô lập hoặc chờ đợi. Nhưng, để bảo vệ cho những người giận dữ siêu quyền lực, thì phần lớn thế giới cũng hiểu rằng, nếu không có một nước Mỹ đầy sức mạnh, thì thế giới sẽ trở thành một nơi kém ổn định hơn nhiều.

Toàn cầu hoá bền vững đòi hỏi một cấu trúc quyền lực ổn định, và không nước có thể có được hơn Mỹ về khả năng này. Tất cả Internet và các công nghệ khác mà Silicon Valley đang thiết kế để truyền tải giọng nói số, video và số liệu quanh thế giới, tất cả hoạt động thương mại và hội nhập tài chính mà Mỹ thúc đẩy thông qua những động cơ của mình, và toàn bộ của cải đang được tạo ra, đều xuất hiện trong một thế giới mà vai trò bình ổn thuộc về một siêu cường có thủ đô đặt tại Washington, D.C. Thực tế là không thể có 2 nước có vai trò này bởi họ đều biết rằng McDonald xuất hiện chủ yếu là do hội nhập kinh tế, song cũng là bởi vì sự có mặt của quyền lực Mỹ và mong muốn của Mỹ trong việc sử dụng quyền lực đó chống lại những nước đe doạ hệ thống toàn cầu hoá - từ Irắc cho tới Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên. Bàn tay che dấu của thị trường sẽ không bao giờ hoạt động nếu như thiếu đi một cú đấm đằng sau nó. McDonald’s sẽ không thể phát đạt nếu thiếu McDonnell Douglas - người thiết kế chiếc F-15 của không lực Mỹ. Và cú đấm đằng sau giữ cho thế giới trở nên an toàn đối với công nghệ của Silicon Valley để thịnh vượng phát triển cũng chính là quân đội Mỹ, không lực Mỹ, Trung đoàn Hải quân và lính thuỷ đánh bộ Mỹ. Và những lực lượng giao chiến và tổ chức này tồn tại được thông qua tiền thuế đóng góp của người Mỹ.

Với tất cả những sự kính trọng đối với Silicon Valley, những ý tưởng và công nghệ không chỉ dành chiến thắng và lan tràn trên chính ý tưởng của nó. “Ý tưởng và công nghệ tốt cũng cần một quyền lực mạnh để thúc đẩy những ý tưởng đó thành ví dụ và bảo vệ cho những ý tưởng đó bằng cách dành chiến thắng trên chiến trường. Như lời của nhà viết sử về chính sách ngoại giao Robert Kagan: “Nếu một quyền lực yếu hơn đang thúc đẩy ý tưởng và công nghệ của chúng tôi, thì họ cũng sẽ không có được đồng tiền toàn cầu mà chúng tôi có. Và khi một siêu cường, như Liên bang Xô Viết, thúc đẩy những ý tưởng tồi của họ, họ đã lại trở nên có quá nhiều tiền trong hơn nửa thế kỷ”.

Thực tế này dễ dàng bị quên lãng ngày nay.


Quan điểm cho rằng Washington là kẻ thù, và bất kỳ đồng đôla thuế trả nào cũng là đồng tiền hoang phí đều là điều lố bịch. Có một câu châm ngôn ở Silicon Valley là “Lòng trung thành cũng là điều rất dễ dàng. Nhưng bạn có thể đưa đưa điều đó đi quá xa. Các giám đốc ở Silicon thường khoe khoang như thế này: “Chúng tôi không phải là một công ty Mỹ. Chúng tôi là IBM Mỹ, IBM Canada, IBM Úc, IBM Trung Quốc.” Khi IBM Trung Quốc gặp khó khăn ở Trung Quốc, hãy gọi điện cho Giang Trạch Dân xin giúp đỡ. Và lần tiếp theo khi quốc hội Mỹ đóng cửa thêm một căn cứ quân sự tại châu Á – và bạn không quan tâm bởi vì bạn không quan tâm tới Washington, hãy gọi cho hải quân của Microsoft đến để đảm bảo an ninh cho những hải phận thuộc Thái Bình Dương. Và lần sau nữa những thành viên đảng Cộng hoà non trẻ muốn đóng cửa thêm các đại sứ quán Mỹ, hãy gọi cho Amazon.com để yêu cầu một hộ chiếu mới.

Chắc chắn là, có lẽ không công bằng khi cho rằng Mỹ giả định một gánh nặng thiếu cân đối để duy trì toàn cầu hoá. Điều đó có nghĩa là có rất nhiều con mã tự do, phần lớn trong đó, như người Pháp sẽ cưỡi trên lưng chúng tôi trong khi vẫn chỉ trích chúng tôi suốt dọc đường. Nó xuất hiện với công việc. Bạn đã từng nghe Michal Jordan phàn nàn về việc phải gánh vác cả đội của mình hay thậm chí cả liên đoàn bóng rổ Mỹ NBA trên lưng chưa? Điều này không có nghĩa là Mỹ cần phải tham gia vào mọi nơi trong mọi thời gian. Có những nơi to lớn, quan trọng và cả những nơi nhỏ, kém quan trọng và tài ngoại giao là phải biết được sự khác nhau giữa 2 loại này, và biết cách làm sao để huy động những những người khác tham gia ở những nơi chúng ta không thể hoặc không nên đi tới một mình. Một lý do rất dễ hiểu chúng ta cần ủng hộ Liên hợp quốc và IMF, ngân hàng thế giới và nhiều ngân hàng phát triển quốc tế khác nhau là vì những cơ quan này có thể tạo điều kiện để Mỹ đề xuất những mối quan tâm của mình mà không đặt tính mạng hay tài sản Mỹ mập mờ ở giữa vào mọi nơi mọi lúc.

Để duy trì một chính sách như vậy, có một điều khá rõ ràng rằng những người quan tâm đến chủ nghĩa quốc tế Mỹ sẽ phải xây dựng một liên minh mới để ủng hộ nó. Khu vực bầu cử đã duy trì chủ nghĩa quốc tế Mỹ trong vòng 50 năm và đánh giá cao tầm quan trọng của Mỹ đối với phần còn lại của thế giới chính là cái gọi là “giới quyền uy trí tuệ phương Đông”. Giới ảnh hưởng phương Đông đó, trong một chừng mực nào đó vẫn còn tồn tại ngày nay, lại không có ảnh hưởng nhiều với các nghị sĩ quốc hội và thượng nghị sĩ ngu ngốc nhưng tự kiêu - những người thậm chí không có nổi hộ chiếu và ba hoa rằng họ không bao giờ từ bỏ đất nước. Giới ảnh hưởng phương Đông, từ bất cứ đảng nào đang nắm quyền lực, sẽ phải bắt đầu tìm cách tụ họp lại những người làm nên toàn cầu hoá mới - từ những người viết phần mềm cho tới các nhà hoạt động vì nhân quyền, từ nông dân của bang Iowa cho tới các nhà hoạt động môi trường, từ các nhà xuất khẩu công nghiệp cho tới công nhân trong các dây chuyền công nghệ cao – để lập thành một liên minh mới của thế kỷ 21 có thể duy trì chủ nghĩa quốc tế Mỹ.

Tôi biết rằng việc này không dễ dàng. Người Mỹ sẵn sàng trả bất kỳ giá nào và chịu đựng mọi gánh nặng trong chiến tranh lạnh bởi vì họ cảm nhận thấy rõ ràng là nhà cửa và cách sống của mình đang bị đe doạ. Tuy nhiên, phần lớn sẽ không cảm nhận theo cách đó đối với Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, Irắc, hay Kosovo, và trong khi Nga vẫn có khả năng đưa ra một lời đe doạ nghiêm trọng đối với nước Mỹ ngày nay, thì vào thời điểm này Nga sẽ không làm như vậy. Đó là lý do tại sao hiện nay người Mỹ đang ở tình thế lạc lõng bởi phải chịu trách nhiệm về mọi thứ, trong khi không muốn hy sinh cho bất kỳ điều gì. Chính vì thế mà trong kỷ nguyên toàn cầu hoá, không còn chống chiến tranh du kích, mà chỉ là bên trong nước. Cuộc chiến từ nhà này sang nhà kế tiếp nằm ngoài, còn tên lửa đầu đạn hạt nhân tầm thấp nằm trong. Green Beret nằm ngoài; Lính mũ nồi xanh của Liên hợp quốc nằm trong. Trong thế giới ngày nay, dường như không có chiến nào Mỹ chịu thua cuộc ở nước ngoài trong một thời gian dài và cũng không cuộc chiến nào mà họ có thể duy trì lâu tại chính nước mình. Vì vậy, khi tổng thống Mỹ ngày nay phải đối mặt với một lời đe doạ quân sự, câu hỏi đầu tiên của ông ta không phải là: “Chiến lược nào là phù hợp để chấm dứt về cơ bản lời đe doạ này?”, mà câu hỏi đầu tiên của ông là “Tôi phải trả bao nhiêu để chương trình này ra khỏi kênh CNN để tôi có thể quên nó đi?” Mọi thứ trở nên thật kiềm chế, nhưng chả có gì được giải quyết.

Nước Mỹ thực sự là nước bá chủ tử tế cuối cùng và kẻ tôn trọng bất đắc dĩ. Tuy nhiên, lịch sử cũng dạy cho chúng ta rằng nếu bạn coi điều bất đắc dĩ này là quá xa vời, bạn có thể đe doạ sự ổn định của cả hệ thống. Paul Schroeder – giáo sư danh dự về lịch sử quốc tế tại trường Đại học Illinois, là một trong những sử gia lớn của thế kỷ 20. Một lần ông đã nhận xét với tôi rằng: “Nếu anh nhìn lại lịch sử, những thời kỳ hoà bình tương đối là những thời kỳ mà ở đó có một nước bá chủ lâu bền, ổn định và tốt đẹp - nước thực hiện điều chỉnh và bảo tồn được những quy tắc và quy định cần thiết tối thiểu của cuộc chơi. Và kẻ bá chủ đó luôn luôn trả một phần không tương xứng trong các chi phí tập hợp, thậm chí bỏ đi những cơ hội chinh phục hay kiềm chế chính mình theo những cách khác, để không phải không chịu thêm oán giận và đảm bảo hệ thống có thể chịu đựng được cho các hệ thống khác.”

Điều này đúng, ví dụ, về cái gọi là hệ thống Vien, từ năm 1815 tới năm 1848, thời điểm mà Anh và Nga bá chủ, hai nước bá chủ tách biệt nhưng tương đối tử tế, những nước không những đã làm cho các quy định cơ bản có hiệu lực, mà còn đem lại rất nhiều tự trị và phồn thịnh khu vực. Điều này cũng đúng với cái gọi là thời kỳ Bismarekian, ở nước Đức từ năm 1871 đến 1890.

Vấn đề khó khăn, theo Schroeder, “xuất hiện khi nước có quyền lực bá chủ – nơi chịu trách nhiệm giữ cho hệ thống ổn định, không thể, hoặc không sẵn sàng trả những chi phí mất cân đối để làm điều đó, hoặc quyền bá chủ của nó trở nên không thể chịu đựng nổi và có xu hướng lợi dụng kẻ khác nhiều hơn là sự tử tế, hoặc khi đủ người hành động đứng lên nổi dậy chống lại các quy định của nó và chỉ dựa vào một loại hệ thống khác không đem lại lợi ích cho nước bá chủ đó.

THIẾU TRANG 376, 377

Làm cân bằng một chiếc xe Lexus với một cây ôliu là một điều mà mọi xã hội phải tiếp tục thực hiện hàng ngày. Đó cũng là điều mà nước Mỹ, lúc tốt nhất, luôn luôn đề cập tới. Với sự nỗ lự của mình, nước Mỹ nắm lấy những đòi hỏi của thị trường, các cá nhân và cộng đồng một cách hoàn toàn nghiêm túc. Và đó là lý do tại sao Mỹ, vào thời kỳ rực rõ nhất, không chỉ là một nước. Đó là một giá trị tinh thần và mô hình vai trò. Đó là quốc gia không sợ bước tới mặt trăng, song cũng vẫn thích về nhà để xem Little League. Đó là quốc gia đã tạo ra cả không gian máy tính và những cuộc liên hoan ngoài trời, Internet và mạng lưới an toàn xã hội, SEC và ACLU. Các phép biện chứng này nằm ở trung tâm của nước Mỹ, và không bao giờ được giải quyết theo lợi ích của bất kỳ một nước nào. Tuy nhiên, các phép biện chứng đó chưa bao giờ được coi là đúng. Chúng cần phải được nuôi dưỡng, hướng tới và bảo tồn thường xuyên – và chúng tôi có thể làm điều đó bằng cách ủng hộ cho các trường học công, trả thuế, hiểu rằng chính phủ không phải là kẻ thù và luôn luôn đảm bảo chúng tôi vẫn muốn quan hệ với các láng giềng của mình qua hàng rào mà không phải là qua trang web.

Mỹ không phải là nước luôn rực rõ nhất hàng ngày, nhưng khi tốt, thì rất, rất tốt. Vào mùa đông năm 1994, con gái lớn nhất của tôi, Orly, đang ở lớp hợp xướng hạng 4 ở trường tiểu học Burning Tree tại Bethnesda, Maryland. Trong thời điểm giáng sinh, tất cả các đội hợp xướng của các trường tiểu học công trong khu vực tụ họp với nhau để chuẩn bị cho một buổi biểu diễn lớn tại sân vận đồng thành phố Bethesda. Tôi đến (bằng chiếc xe Lexus) để nghe con gái hát. Người chỉ huy đội hợp xướng là một người Mỹ Phi, và để chuẩn bị cho buổi ca hát tập thể này, ông ta mặc một bộ đồ ông già Noen. Bài hát đầu tiên đội đồng ca trình bày trong buổi tối hôm đó là bản nhạc cổ điển Hanukkah “Maoztur”, rồi đến giai điệu của bài “Rock của đá”. Nhìn cảnh tượng này, và lắng nghe bài hát đó, đã làm tôi phải khóc. Khi tôi trở về nhà, vợ tôi, Ann hỏi tôi buổi diễn thế nào. Và tôi nói với cô ấy: “Em yêu, anh chỉ thấy một người đàn ông da đen mặc bộ đồ ông già Noen đang chỉ huy 400 học sinh ở trường tiểu học hát bài “Msoztzur” trong quảng trường của thành phố Bethesda, bang Maryland, chúa phù hộ cho nước Mỹ.”

Một xã hội toàn cầu lành mạnh là xã hội luôn luôn có thể làm cân bằng chiếc xe Lexus và cây oliu, và không có mô hình nào trên thế giới ngày nay tốt hơn nước Mỹ. Và đó là lý do tại sao tôi luôn tin có niềm tin tưởng vững chắc rằng đối với toàn cầu hoá để được bền vững nước Mỹ phải đóng vai trò lớn nhất- hôm nay, ngày mai, và mãi mãi. Mỹ không chỉ có thể, mà phải là cột mốc cho cả thế giới. Chúng ta đừng phí phạm gia tài quý giá này.

Tôi đã mất tới 4 năm để viết cuốn sách này, và rất nhiều người đã giúp tôi thực hiện trong suốt thời gian đó. Chủ báo của tôi, Arthur Sulzberger Jr, không chỉ tạo điều kiện cho tôi thời gian rãnh rỗi để viết cuốn sách, mà điều quan trọng hơn, ông đã giúp tôi trở thành một nhà bình luận về quan hệ ngoại giao của tờ thời báo New York – nơi đã giúp cho tôi thấy và hiểu toàn cầu hoá trực tiếp. Tôi thực sự rất cảm ơn về điều đó. Howell Raines, biên tập viên của trang xã luận thuộc thời báo New York, cũng là người ủng hộ nhiệt tình cho tác phẩm của tôi và đã giúp cho cuốn sách này hoàn thành, tôi cũng xin cảm ơn rất nhiều về điều đó. Tôi sẽ rất không phải nếu như không nói lời cảm ơn tới biên tập viên điều hành hiện nay của thời báo New York, ông Joe Lelyyeld, và người tiền nhiệm của ông, Max Frankel vì nhiều năm trước đã tạo động lực để tôi tham gia vào lĩnh vực tài chính và chính sách quốc tế, lĩnh vực mà ngay từ đầu đã làm tôi thích thú và đề cập rất nhiều trong các chủ đề của cuốn sách này.

Chúa cũng đã phù hộ tôi bởi có nhiều bạn tốt với những ý tưởng khác nhau đã được tôi đưa vào cuốn sách này. Chưa có ai dạy tôi nhiều về lịch sử chính sách nước ngoài của Mỹ hơn anh bạn Michael Mandelbaum, người giảng dạy về quan hệ quốc tế tại trường khoa học quốc tế Johns Hopkins. Các cuộc hội thảo hàng tuần của chúng tôi về chính sách nước ngoài là nguồn cổ vũ lớn cho tôi. Anh bạn Yaron Ezzahi – giáo sư về học thuyết chính trị tại trường đại học Hebrew University of Jerusalem, đã động viên cho dự án này ngay từ ngày đầu, và luôn chia sẻ quan điểm với tôi và sự hiểu biết tuyệt vời của anh về học thuyết dân chủ, nghệ thuật và nghề làm báo. Tôi luôn nhận được sự giúp đỡ từ sự hiểu biết và tình bạn của Yaron. Anh bạn da đen của tôi trong thời gian ở Trung Đông, Stephen P.Cohen, làm việc tại trung tâm nghiên cứu hoà bình Trung Đông ở New York- mặc dù không phải là một chuyên gia về toàn cầu hoá, song ý tưởng ban đầu cũng như cảm nhận tuyệt vời của anh về khoa học chính trị quốc tế đã làm cho cuốn sách này sâu sắc hơn theo rất nhiều cách. Anh là một người bạn và người thầy tốt của tôi. Anh bạn Larry Diamond, người đồng nghiệp nghiên cứu cấp cao tại Viện Hoover thuộc trường Đại học Stanford và là đồng xuất bản cuốn Tạp chí Dân chủ, đã và đang là giảng viên của tôi về môn học dân chủ hoá, cũng đã đưa ra những lời bình luận về cuốn sách này theo nhiều mức độ. Một trong những điều may mắn nhất đối với tôi là được gặp anh khi theo dõi các cuộc bầu cử tại miền Đông Bắc Trung Quốc. Còn Jim Haskel từ Goldman Sachs, một hôm đã gọi điện cho tôi bình luận về cột báo mà tôi đã viết cho tờ The Times và kể từ đó chúng tôi đã không ngừng trao đổi quan điểm với nhau. Anh ta là một chuyên gia về giao dịch thông tin chứng khoán và tôi thu nhận được rất nhiều từ những lời bình luận của anh về cuốn sách này khi nó còn ở dưới dạng bản thảo. Robert Hormats – phó chủ tịch của Goldman Sachs International, cũng là một người đối thoại thường xuyên khác của tôi về chủ đề này. Không ai có nhận thức tốt hơn về sự liên hệ giữa tài chính và chính sách quốc tế hơn là Bob, và mỗi lần nói chuyện chúng tôi đều đi đến một ý kiến mới. Stephen Kobrin – giám đốc của Viện Lauder thuộc trường Wharton đã sắp xếp để tôi thực hiện một cuộc hội thảo rất thú vị về cuốn sách này với một số đồng nghiệp của anh tại Wharton, và sau đó cũng dành thời gian và sức lực để đọc bản thảo của cuốn sách. Các bài viết của Steve về toàn cầu hoá, và những lời bình luận của anh đã giúp tôi rất nhiều. Nhà kinh tế học của Ngân hàng thế giới Ahmed Galal- một trong những thế hệ các nhà kinh tế học mới tài năng của Ai Cập đã đọc toàn bộ bản thảo và chia sẻ ý kiến dưới nhiều cách cực kỳ hữu ích.

Glenn Prickett – phó chủ tịch của Cơ quan bảo tồn quốc tế, đã đi cùng tôi trong những chuyến đi tới các khu vực mà môi trường bị đe doạ của Braxin và hỗ trợ tôi về tất cả các vấn đề liên quan tới môi trường và toàn cầu hoá. Tôi còn nợ anh một món nợ rất lớn. Jeffrey Garten - Trưởng khoa quản lý của trường đại học Yale đã mời tôi trình bày một phần trong cuốn sách này cho một trong các lớp sau đại học của mình và là người hiểu rõ về chủ đề toàn cầu hoá.

Thứ trưởng Tài chính Larry Summers, trợ lý Michelle Smith của ông và tôi đã có một cuộc nói chuyện liên tục về kinh tế học quốc tế trong 6 năm trời, và rất nhiều ý tưởng trong cuốn sách này nảy sinh được là nhờ vào sự hiểu biết mà Larry đã giải quyết nhanh chóng tại một trong những buổi thảo luận tập thể của chúng tôi. Nhà kinh tế học Clyde Prestowitz, Bộ trưởng tài chính Robert Rubin, Chủ tịch Cục dự trữ liên bang Alan Greenspan, Thống đốc ngân hàng Israel Jacob Frenkel, nhà kinh tế học Henry Kaufman, chủ tịch của FBI New York William J.McDonough, giám đốc quỹ phòng ngừa rủi ro Leon Cooperman, thương gia trái phiếu Lesley Goldwasser, nhà kinh tế học của ngân hàng thế giới John Page, giám đốc Hội đồng kinh tế quốc gia Gene Sperling và chủ tịch Ngân hàng thế giới Jim Wolfensohn đều đã dành thời gian thảo luận các ý kiến của mình về toàn cầu hoá với tôi. Xét về quan điểm cá nhân, chủ tịch Monsanto Robert Shapiro, Chủ tịch tập đoàn Cisco System John Chambers, nhà kinh doanh của Baltimore Jerry Portnoy, nông dân của bang Minesota Gary Wagner và các giám đốc điều hành cấp cao của Compag Computer đều đã ngồi thảo luận đầy kịch liệt về cuốn sách này và họ là những người mà tôi không thể không nói tới.

Thầy giáo của tôi Rabbi Tzvi Marx, với đầu óc cực kỳ đặc biệt, là người đóng góp lớn trong việc phân loại một số khía cạnh văn hoá và tôn giáo của toàn cầu hoá. Và như thường lệ, người bạn cũ của tôi, giáo sư của trường Đại học Havard Michael Sandel cũng là nguồn cổ vũ tinh thần to lớn. Biên tập viên về chính sách quốc tế Moisés Naim, nhà sử học về chính sách quốc tế Robert Kagan, học giả về Trung Quốc Michael Oksenberg, nhà bình luận về công nghệ của thời báo phố Wall Walt Mossberg, giáo sư Robert Pastor thuộc trường đại học Emory, biên tập viên quản lý ngoại giao Fareed Zakaria, Klaus, Schwab, Claude Smadia và Barbara Erskine thuộc diễn đàn kinh tế thế giới Davos, và anh rể tôi là Ted Century đều đã động viên dự án này theo nhiều cách khác nhau nhưng đều rất quan trọng. Mẹ tôi, Margaret Friedman, và bố mẹ vợ tôi là Matt và Kay Bucksbaum đã và luôn luôn là nguồn hỗ trợ động viên không ngừng nghỉ cho tôi.

Và đó là toàn bộ những người đã đóng góp công sức vào sản phẩm cuối cùng này.

Độc giả sẽ nhận ra rằng tôi đã đưa nhiều dẫn chứng từ 2 nguồn bên ngoài. Một là tờ “The economist” – một nguồn cung cấp thông tin hàng đầu về quan niệm và báo cáo về toàn cầu hoá. Nguồn thứ hai là các bài quảng cáo từ Madison Avenue. Những người viết bài quảng cáo có được sự hiểu biết rất sâu sắc về toàn cầu hoá, và tôi đã không ngần ngại yêu cầu họ giúp đỡ.

Cuối cùng, các bạn chơi golf thường xuyên của tôi ở Caves Valley, Joel Finkelstein và Jack Murphy đã giúp tôi có được sự tỉnh táo bằng cách không quan tâm nhiều tới cuốn sách này mà tập trung hoàn toàn vào việc kiếm tiền ở sân golf.

Trợ lý và nhà nghiên cứu của tôi Maya Gorman thật phi thường. Thật là điều rất đáng kinh ngạc khi liên tưởng tới một số sự kiện và mẩu chuyện từ nhiều khu vực khác nhau của thế giới mà cô ấy đã ghi chép được. Tôi rất biết ơn sức lao động và sự cổ vũ lớn lao của cô ấy.

Nhóm xuất bản cũ của tôi từ những ngày ở Beirut cho tới Jerusalem - chủ bút Jonathan Galassi của tờ Farrar, Straus và Giroux, phó tổng biên tập Paul Elie và người làm công tác phát hành văn học Esther Newberg của cơ quan quản lý sáng tạo quốc tế, là những người hiểu biết nhất về kinh doanh. Sẽ là điều rất tốt nếu như tôi được cộng tác cùng họ khi viết thêm cuốn sách khác.

Những đứa con gái yêu quý của tôi, Orly và Natalie, đã ngồi hàng giờ đọc những trang bản thảo của cuốn sách này dưới dạng diễn thuyết, và có thể tự mình kể lại toàn bộ các đoạn văn. Các con luôn luôn là môn thể thao tốt và nguồn cổ vũ tinh thần vô tận. Tuy nhiên, người biên tập đầu tiên và cuối cùng của tôi vẫn luôn là vợ tôi, Ann Friedman. Không ai có thể có một người bạn đời tốt hơn thế, và cũng nhờ cô ấy mà quyển sách này được viết ra.







Каталог: upload
upload -> -
upload -> 1. Most doctors and nurses have to work on a once or twice a week at the hospital
upload -> TrầnTrang EnglishTheory Phonetics
upload -> BỘ khoa học và CÔng nghệ TÀi liệu hưỚng dẫN
upload -> TÀi liệu hưỚng dẫn sử DỤng dịch vụ HỘi nghị truyền hình trực tuyếN
upload -> BỘ thông tin truyềN thông thuyết minh đỀ TÀi xây dựng quy chuẩn kỹ thuật thiết bị giải mã truyền hình số MẶT ĐẤt set – top box (stb)
upload -> CHỦ TỊch nưỚC
upload -> CHỦ TỊch nưỚC
upload -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
upload -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014

tải về 2.25 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   16   17   18   19   20   21   22   23   24




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương