Chiếc xe lexus và CÂy oliu


Đồng đôla tăng giá với dấu hiệu lạc quan về cuộc đàm phán thương mại



tải về 2.25 Mb.
trang2/24
Chuyển đổi dữ liệu31.07.2016
Kích2.25 Mb.
#11655
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   24

Đồng đôla tăng giá với dấu hiệu lạc quan về cuộc đàm phán thương mại


NewYork (Reuters) - Triển vọng lạc quan về một thoả thuận thương mại giữa Washington và Tokyo đã giúp cho giá đóng cửa của đồng đôla tăng cao so với các đồng tiền mạnh khác.

Cổ phiếu Blue Chip giảm vì những vấn đề không chắc chắn xung quanh cuộc đàm phán thương mại.


NewYork (Reuters) - Cuối ngày thứ 6, giá cổ phiếu Blue Chip đã giảm mạnh do cuộc đàm phán thương mại của Mỹ - Nhật bản không mấy chắc chắn trước khi lệnh trừng phạt hết hiệu lực.
"Này, Ahmend, anh nghĩ thế nào về cuộc đàm phán thương mại Mỹ - Nhật ?".
Cái mà tôi làm trong những ngày đưa ra bản tin dự báo thời tiết ở Beirut và cái mà Reuters đưa tin về thị trường chứng khoán và tiền tệ chỉ là cố gắng áp đặt một sự kiến - không mấy thành công trong các trường hợp. Tôi biết khi tôi bắt đầu công việc là nhà bình luận các vấn đề quốc tế năm 1995, tôi sẽ không tồn tại lâu nếu tất cả điều mà tôi làm là áp đặt các sự kiện như đã từng dự báo thời tiết ở Beirut. Vì thế cần phải làm gì ? làm thế nào hiểu và giải thích hệ thống phức tạp toàn cầu hoá ?

Câu trả lời ngắn gọn là cái mà tôi đã học được "bạn cần phải làm 2 việc ngay lập tức - xem xét thế giới ở nhiều góc độ, triển vọng có khả năng xảy ra và cùng lúc đó chuyển tải những phức tạp rắc rối đó cho độc giả hiểu thông qua những câu chuyện đơn giản". Điều đó giải thích tại sao khi mọi người hỏi tôi làm thế nào để chuyển tải hết các vấn đề thế giới ngày nay tôi trả lời là tôi dùng 2 công nghệ : Tôi "làm nhà buôn thông tin" để hiểu thế giới và tôi "kể chuyện" để giải thích nó.


Hãy xem xét từng vấn đề theo cách này. Thế nào là buôn thông tin ? Đây là một thuật ngữ thị trường. Nói chung là người mua bán chứng khoán, hàng hoá hay ngoại hối trên các thị trường khác thành công là người hiểu rõ giá thịt rọi đang bán ở Chicago là 1 USD/lb và ở NewYork là 1,5 USD/lb và vì thế anh ta mua thịt ở Chicago và bán lại ở NewYork. Một người có thể kinh doanh chênh lệch trên nhiều thị trường. Và một người có thể áp dụng việc ío trong lĩnh vực văn chương. Có thể nói nhà văn vĩ đại người Tây Ban Nha Ortegay Gasset là người "mua thông tin với giá rẻ ở Luân Đôn và bán với giá đắt ở Tây Ban Nha". Ông thường lui tới tất cả các thẩm mỹ viện ở Luân Đôn và sau đó chuyển tải những ý tưởng cảm nhận được bằng tiếng Tây Ban Nha cho độc giả quê nhà. Nhưng liệu bạn có đang bán thịt lợn rọi hay những điều sâu sa bên trong, chìa khoá cho sự thành công của một nhà kinh doanh ăn chênh lệch là phải có mạng lưới cộng tác viên cung cấp thông tin và thông tin rộng và sau đó là biết cách tổng hợp theo cách riêng để kiếm được lợi nhuận?
Nếu bạn muốn trở thành một phóng viên hay một nhà bình luận giỏi, hiểu được bản chất các vấn đề quốc tế ngày nay, bạn phải làm được mọi việc theo cách tương tự như vậy. Bởi vì hiện nay, hơn bao giờ hết, biên giới truyền thống giữa các chế độ chính trị, văn hoá, công nghệ, tài chính, an ninh quốc gia và sinh thái học đang mất dần. Bạn không thể giải thích được một vấn đề mà không đề cập tới những vấn đề khác và bạn không thể giải thích được tất cả nếu không xem xét mọi khía cạnh. Vì thế, để trở thành một nhà bình luận các sự kiện quốc tế hay một phóng viên giỏi, bạn phải học cách làm sao mua bán thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và tập hợp lại thành một bức tranh tổng quát về thế giới mà bạn sẽ không bao giờ có nếu để riêng lẻ từng sự kiện. Đó là bản chất của việc mua bán thông tin. Một thế giới mà tất cả chúng ta đang sống tất cả đã được kết nối, khả năng tiếp cận thông tin và liên kết với tất cả các điểm, các khu vực là giá trị tăng thêm của một nhà báo. Nếu bạn không nhìn thấy những kết nối này, bạn không thể nhìn thấy thế giới.
Tôi đã tiếp cận nó qua một tai nạn, vì những thay đổi trong công việc buộc tôi phải nhìn nhận ở nhiều góc độ hơn người khác cốt chỉ để tồn tại. Sự việc đó xảy ra như sau :
Tôi bắt đầu cuộc đời phóng viên như hầu hết những phóng viên khác. Trong thập kỷ đầu tiên của sự nghiệp, tôi phụ trách vấn đề "Mẹ của tất cả các cuộc chiến tranh bộ lạc" - cuộc xung đột giữa Arập - Isarel, đầu tiên từ là Beirut sau đó là Jerusalem. Trong những ngày đó, viết báo đối với tôi chủ yếu dựa trên 2 nhân tố chính, đó là chính trị và văn hoá vì ở Trung Đông văn hoá sẽ quyết định nhiều tới chính trị. Đặt ở góc độ khác, thế giới đối với tôi là tất cả những gì nhìn thấy mọi người cố gắng bám rễ cội nguồn và nhổ rễ của những nhà hàng xóm.
Năm 1988, tôi rời Jerusalem, sau một thập kỷ ở Trung Đông và tới Washington, nơi tôi trở thành phóng viên ngoại giao của Thời báo NewYork. Câu chuyện đầu tiên tôi chịu trách nhiệm là Bộ trưởng Ngoại giao của Mỹ - nghe Thượng viện xác nhận bổ nhiệm James A.Baker III. Tôi đã rất lúng túng khi nói rằng cả bằng cử nhân và thạc sỹ của mình đều lấy ở Ảrập và Trung Đông và tôi dành hầu hết sự nghiệp phóng viên của mình ở Trung Đông mà không biết gì mấy về các nơi khác trên thế giới. Và tôi thực sự không biết nhiều về những vấn đề mà các thượng nghị sỹ chất vấn Baker về Hiệp ước START, Contras, Angola, CFE (những lực lượng ở châu Âu) kiểm soát các cuộc đàm phán và NATO. Tôi như bơi trong vô số những điều nghe thấy. Tôi không tìm ra được ý tưởng chủ đạo nào. Tôi thậm chí cũng không biết một nửa trong số những cụm từ viết tắt nghĩa là gì. Tôi không biết Contras là phe mình hay phe địch, và tôi nghĩ CFE là rõ lỗi in, đó là chữ "café" song thiếu mất chữ a. Tôi gọi một chiếc taxi quay về toà soạn và tất cả điều mà tôi có thể lưu giữ ở trong đầu là một dòng biểu ngữ nổi bật trên tờ Bưu điện Washington sáng ngày hôm sau về một điều gì đó mà Baker đã nói (điều mà tôi không đề cập tới trong câu chuyện của mình). Chỉ nhờ sự giúp đỡ của một phóng viên Lầu năm góc của tập chí, Michael Gordon, tôi mới có thể hiểu hết được toàn bộ câu chuyện trong ngày hôm đó. Thật may mắn, nhờ 4 năm phụ trách vấn đề ngoại giao, đi khoảng 500.000 dặm đường với Baker, tôi có thể bổ sung thêm nhân tố mới ngoài chính trị và văn hoá - an ninh của một quốc gia - nhân tố cân bằng quyền lực. Đó là các nhân tố trong mối quan hệ của các vấn đề liên quan tới những cánh tay quyền lực, cạnh tranh quyền lực, kiểm soát liên minh chiến tranh lạnh và sức mạnh địa chính trị. Vì hiểu được nhân tố mới này, quan điểm 2 nhân tố cũ của tôi về thế giới có sự thay đổi. Tôi nhớ một lần đi cùng Baker sang Isarel và máy bay đã phải đổi hướng bay qua Tel Aviv và một đường bay lớn, rộng, ngang qua bờ Tây trước khi hạ cánh. Tôi đã nhìn ra ngòai cửa sổ chiếc máy bay của Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ khắp dải bờ Tây và nghĩ : “Bạn xem, xét dưới góc độ sức mạnh thuần túy, nơi này chẳng có vẻ gì là quan trọng. Tuy nhiên thú vị là ở chỗ nếu xét về địa chính trị nó lại rất quan trọng”.

Sau chuyến đi với Bộ Ngoại giao Mỹ và hoạt động như một phóng viên của Nhà Trắng (không hẳn là nghề làm báo), tôi đã nhìn nhận sự việc với nhiều lăng kính hơn vào năm 1994 khi Tòa soạn giao cho tôi nhiệm vụ mới đó là sự giao nhau giữa chính sách đối ngoại và tài chính quốc tế. Vấn đề này trở nên rõ ràng hơn khi chiến tranh lạnh kết thúc và Liên bang Xô viết sụp đổ. Tài chính và thương mại ngày càng có vai trò lớn hơn trong việc hình thành các mối quan hệ quốc tế. Nhiệm vụ xem xét sự giao thoa giữa các nền kinh tế với việc hoạch định các chính sách an ninh quốc gia giống như một cuộc thử nghiệm đối với tôi và Tòa soạn. Tôi được giao trọng trách là một phóng viên thường trú thương mại của Bộ Ngân khố nhưng kinh nghiệm thì lại là một phóng viên phụ trách các vấn đề của Bộ Ngoại giao và Nhà Trắng, nhiệm vụ đòi hỏi tôi phải dung hòa tất cả. Chúng tôi mô tả nhiệm vụ mới như là “Ngoại giao thương mại” hay “Quan hệ quốc tế và tài chính”. Tôi nhận thấy có 2 điều trong sự giao thoa trên. Một là, với sự kết thúc của hệ thống chiến tranh lạnh, mối giao thoa này tạo ra một lượng lớn tin tức. Thứ 2, không một ai can thiệp. Thay vào đó, có rất nhiều phóng viên thương mại những người chưa từng có kinh nghiệm ngoại giao. Có rất nhiều phóng viên ngoại giao song không ai làm về vấn đề tài chính. Và có nhiều phóng viên Nhà trắng không liên quan tới Thương mại, tài chính hay các vấn đề quốc tế đó là việc mà chỉ có Tổng thống nói hoặc làm.


Đối với tôi, việc bổ sung thêm nhân tố thị trường tài chính vào danh sách các nhân tố chính trị, văn hóa và an ninh quốc gia giống như đeo chiếc kính mới và đột nhiên nhìn thế giới ở 4 góc độ. Tôi nhìn thấy những câu chuyện mới mà trước đó chưa từng nhận ra. Tôi nhận ra một chuỗi các nguyên nhân của các sự kiện mà từ trước tới giờ không gọi tên được. Tôi nhìn thấy những bàn tay vô hình và những cái xích tay cản trở các nhà lãnh đạo và các quốc gia làm mọi thứ mà tôi không hình dung ra được trước đó.
Nhưng trước đó không lâu tôi khám phá ra rằng 4 nhân tố trên vẫn chưa đủ. Khi được giao trọng trách nhà bình luận các vấn đề quốc tế tôi dần dần nhận ra cái điều khiển sự gia tăng và sức mạnh của các thị trường, cái gì đang tái hình thành các quốc gia và các cá nhân liên quan ra sao và cái gì thực sự là điểm mấu chốt của tòan cầu hóa, của những công nghệ tiên tiến gần đây – từ Internet tới các thiết bị viễn thông vệ tinh. Tôi hiểu rằng mình không thể giải thích cho bản thân mình mà hãy để độc giả làm việc đó. Các lực lượng đang hình thành nên chính trị toàn cầu trừ khi tôi hiểu rõ hơn về những công nghệ đang tạo ra sức mạnh cho mọi người, mọi công ty và mọi chính phủ theo những cách thức mới. Ai kiểm soát được những kẻ đi săn trong một xã hội thường bị chỉ trích nhưng ai kiểm soát các cú điện thoại và cách thức mà họ tiến hành cũng là những vấn đề. Bao nhiêu nhóm lực lượng vũ trang và bao nhiêu vũ khí hạt nhân trên đất nước của bạn sẽ là chủ đề bị chỉ trích. Nhưng năng lực truyền thông mà bạn có đối với Internet là bao nhiêu cũng là vấn đề. Vì thế tôi phải thêm một nhân tố mới nữa là công nghệ để trở thành một phóng viên với 5 lăng kính. Điều đó có nghĩa là thêm Silicon Valley vào danh sách các tư bản trên thế giới – Matxcơva, Bắc Kinh, Luân Đôn, Jerusalem – và tôi cảm thấy rằng tôi phải tới thăm mỗi nơi một lần trong một năm để biết được cái gì đang diễn ra.
Cuối cùng, càng quan sát sự vận hành của hệ thống toàn cầu hóa, tôi càng hiểu rõ nó, nó đã tấn công vào những thế lực cản trở sự phát triển và sự tương đồng theo đó, nếu không cẩn thận có nguy cơ tàn phá môi trường và bản sắc văn hóa, một nguy cơ chưa từng có trong lịch sử loài người. Tôi dần dần nhận ra rằng nếu không đưa vấn đề môi trường vào trong các bài phân tích của mình thì tôi sẽ để mặc cho một trong số các thế lực có thể ngăn cản tiến trình phát triển và làm thụt lùi quá trình toàn cầu hóa. Vì thế tôi bổ sung thêm nhân tố thứ 6 vào danh sách của mình – tự rèn mình là nhà hoạt động môi trường – và quan tâm tới môi trường trong các chuyến đi để hiểu rõ toàn cầu hóa ảnh hưởng thế nào tới các hệ sinh thái và toàn cầu hóa khiến hệ sinh thái bị tàn phá ra sao ?
Hiện tại tôi xem xét các sự kiện với 6 lăng kính và tôi không biết lăng kính tiếp theo sẽ là cái gì. Tuy nhiên nếu và khi xuất hiện một nhân tố nào mới, rõ ràng, tôi sẽ thêm vào danh sách của mình bởi tôi là một “nhà toàn cầu hóa”. Điều đó có nghĩa là tôi không phải là theo thuyết duy thực (có đầu óc thực tế) – người nghĩ mọi thứ trong thế giới ngày nay có thể lý giải bằng việc tìm kiếm sức mạnh và lợi ích của địa chính trị và các thị trường không thành vấn đề. Tôi cũng không phải là nhà môi trường học và điều phải làm là bảo vệ nó và phát triển không phải vấn đề. Tôi cũng không phải là nhà kỹ thuật với phát minh ra bộ vi xử lý và Internet sẽ quyết định tương lai của các vấn đề quốc tế - và địa chính trị không thành vấn đề. Tôi không phải là người theo bản chất luận những người tin rằng thái độ của mọi người có thể lý giải bằng một vài văn hóa đặc trưng hay đặc điểm DNA – và kỹ thuật không thành vấn đề. Và tôi không phải là một nhà kinh tế học tin rằng bạn có thể giải thích thế giới chỉ cần đề cập tới khái niệm thị trường – và sức mạnh chính trị và văn hóa không phải là vấn đề.
Tôi tin rằng hệ thống mới của toàn cầu hóa tạo ra một quốc gia mới gồm nhiều vấn đề và chỉ có một cách duy nhất nhìn nhận, hiểu và lý giải nó thông qua việc trao đổi 6 nhân tố mà tôi đã nêu ra ở trên – ấn định mức độ nặng nhẹ khác nhau vào những bối cảnh khác nhau trong từng thời điểm khác nhau, điều kiện khác nhau nhưng luôn hiểu rằng giữa các nhân tố luôn có sự tương quan và đó thực sự là yếu tố chủ đạo trong các các mối quan hệ quốc tế hiện nay. Và vì thế trở thành một nhà toàn cầu hóa cách duy nhất là kết nối một cách có hệ thống các vấn đề, nhìn nhận hệ thống tòan cầu hóa và dự đoán những biến động.
Nếu tôi sai lầm về thế giới này thì điều đó cũng sớm nhận ra. Nhưng nếu tôi không sai, sẽ có rất nhiều người phải quay về trường học lại. Tôi cho rằng điều đó đặc biệt quan trọng đối với cả các nhà báo – những người chịu trách nhiệm giải thích thế giới – và các nhà chiến lược – những người chịu trách nhiệm tạo thành nó, hãy suy nghĩ giống như những nhà toàn cầu hóa. Hiện đang hình thành một trang web gắn kết tất cả các thế giới, các thể chế khác nhau, các phóng viên và các nhà chiến lược cần phải trở thành một dải nối liền như vậy. Thật không may là cả nghề làm báo và nghiên cứu, xu hướng suy nghĩ độc lập, co hẹp chuyên môn còn thâm căn cố đế, thường lờ đi thực tế là thế giới hiện nay không còn phân chia thành những mảng riêng biệt và đường biên giới giữa các quốc gia về chính trị, kỹ thuật, kinh tế đang dần mất đi.
Để tôi cho các bạn một ví dụ. Cách đây mấy năm, chính quyền Clinton luôn đe dọa áp đặt lệnh trừng phạt thương mại đối với Nhật bản trừ khi nước này dỡ bỏ mọi hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với các loại hàng hóa. Trong các cuộc thương thuyết với chính phủ dường như Đại diện thương mại Mỹ Mickey Kantor - một con người thông minh - luôn nhận được sự ủng hộ song đến phút chót Tổng thống Clinton đã phản đối việc áp dụng trả đũa đối với Nhật bản. Ở đây sự việc mà tôi tưởng tượng diễn ra bên trong văn phòng bầu dục là:

Kantor đi vào văn phòng, dừng lại ở một cái ghế trước Tổng thống và nói: "Thưa ngài, người Nhật đang cản trở chúng ta, họ không cho phép hàng hoá xuất khẩu của chúng ta vào thị trường. Đã đến lúc chúng ta phải đưa ra lệnh trừng phạt. Nếu làm được điều này, các liên đoàn sẽ ủng hộ chúng ta".


Tổng thống đáp lại : "Mickey, anh nói đúng. Hãy đi làm ngay đi". Nhưng ngay khi Kantor quay gót định đi thực hiện thì Bộ trưởng Thương mại, Robert Rubin sẽ xuất hiện ở cửa văn phòng và nói : "Ôi, thưa Tổng thống, ông thấy đấy, nếu chúng ta áp dụng lệnh trừng phạt thương mại đối với Nhật bản, đồng đôla sẽ giảm mạnh, ngưòi Nhật sẽ bán ra hết số cổ phần mà họ có và lãi suất trong nước sẽ tăng lên". Lập tức, Tổng thống sẽ quay sang Kantor đang chuẩn bị khuất sau cánh cửa "Ồ, Mickey, Mickey. Quay lại đây một chút. Chúng ta sẽ bàn về vấn đề ban nãy".
Vài ngày sau đó. Kantor quay trở lại văn phòng và đưa ra lời đề nghị lần trước. Lúc đó, Tổng thống gần như chắc chắn đã đồng ý và nói : "Tôi không nhượng bộ bất kỳ điều gì đối với Nhật bản nữa, Mickey, lệnh trừng phạt, hãy thực hiện đi". Và khi Kantor sắp làm việc này thì Bộ trưởng Quốc phòng William Perry sẽ xuất hiện và nói "Thưa Tổng thống, ông thấy đấy nếu chíng ta áp dụng lệnh trừng phạt thương mại đối với Nhật bản, người Nhật sẽ không đàm phán lại với chúng ta về vấn đề Okinawa hay vấn đề lò phản ứng hạt nhân mà chúng ta đang quan tâm". Tổng thống sẽ lập tức gọi Kantor trở lại và nói "Mickey, Mickey. Quay lại đây một lát. Chúng ta sẽ bàn lại vấn đề ban nãy".
Đây chỉ là cảnh tượng mà tôi nghĩ ra nhưng tôi cá là thực tế cũng diễn ra gần như là vậy và một phóng viên sẽ thu hút được sự chú ý của độc giả dù không chỉ là phóng viên kinh tế, phóng viên của Bộ thương mại hay phóng viên của Bộ quốc phòng.
Các nhà sử gia về quan hệ quốc tế Yale, Paul Kenedy và John Lewis Gaddis, xem một trong những công việc của họ là giáo dục thế hệ các chiến lược gia tiếp nối. Để có ảnh hưởng tuyệt đối, họ tìm cách mở rộng chương trình giảng dạy để có một thế hệ chiến lược gia mới là những nhà toàn cầu hoá nhưng không phải luôn tuân thành tuyệt đối. Trong một bài viết, Gaddis và Kennedy mô tả thực tế là ở nhiều nước, những người theo chủ nghĩa phân lập thường là những người làm và phân tích chính sách ngoại thương. Hai sử gia viết, những người này có đủ khả năng để làm được một số việc nhưng sẽ gặp khó khăn để có thể cáng đáng mọi thứ. Họ gác lại mọi ưu tiên, thực hiện riêng lẻ hoặc toàn bộ và rất hiếm khi nghĩ ra cách để có thể có ưu thế hơn người khác. Họ đủ tự tin đi qua hết cây này tới cây khác nhưng dường như lại ngạc nhiên khi nhận ra rằng bị lạc trong rừng. Các nhà chiến lược gia vĩ đại trong quá khứ là những người coi rừng cũng chỉ là nơi có nhiều cây. Họ là những tổng tư lệnh và biết nhìn xa trông rộng. Họ hiểu rằng thế giới này là một trang web - mọi thứ được kết nối với nhau. Nơi nào có thể tìm thấy các tổng tư lệnh trong thế giới ngày nay ? Xu thế chung là chuyên môn hoá trong phạm vi hẹp : đi sâu vào một lĩnh vực hơn là dàn trải ra tất cả các lĩnh vực. Sẽ không thể đưa ra chiến lược nếu không có kiến thức về tổng thể, không hiểu biết chút ít nào đó về cách thức thực hiện dù hoàn tất hay thất bại. Và không có chiến lược thì sẽ tụt hậu.
Một số người đã bắt đầu nhận ra được điều đó. Điều này giải thích tại sao cuối những năm 90, Cơ quan an ninh quốc gia NSA - chuyên nghe trộm và thu thập mọi thông tin - đã quyết định chuyển đổi cách xử lý thông tin từ khẩu hiệu "cần phải biết" thời chiến tranh lạnh, nghĩa là chỉ để ý tới thông tin cho là cần phải biết, sang "cần chia sẻ" nghĩa là chúng ta sẽ thể hiểu được toàn bộ tình hình trừ khi chúng ta chia sẻ một phần những gì chúng ta biết cho người khác.
Có lẽ điều đó cũng lý giải tại sao tôi dần dần nhận ra rằng, ngày nay, một số (không phải là tất cả) chủ đề tôi nên tập trung vào không phải là các quan hệ quốc tế hay các vấn đề ngoại giao của chính phủ mà quan tâm tới trường đào tạo các nhà toàn cầu hoá. Tôi tự thấy là các nhà quản lý vốn càng ngày càng thông minh - gần như đối lập với các nhà ngoại giao hay giáo sư - bởi vì họ hiểu rất rõ về các vấn đề mang tính toàn cầu và có khả năng thiên bẩm, sẵn sàng mạo hiểm, thêm thông tin vào 6 nhân tố chính trước khi đưa ra quyết định. Một trong những nhân vật có tiếng là Robert Johnson, người đã từng là đối tác của Geogre Soros. Sau một lần phân tích về thế giới, Johnson và tôi đã rút ra nhận định: chúng tôi đang cùng làm một việc nhưng chỉ khác là vào cuối ngày Johnson đánh cược vào cổ phiếu hay trái phiếu còn tôi thì viết một bài báo về một quan điểm đối với một khía cạnh nào đó của các quan hệ quốc tế. Nhưng chúng tôi cũng phải cùng mạo hiểm.
Tuy việc trao đổi thông tin chứa đựng cả 6 nhân tố được xem là cách tốt nhất để hiểu về hệ thống toàn cầu hoá nhưng còn một cách hiệu quả hơn giải thích về toàn cầu hoá là thông qua các câu chuyện đơn giản và điều đó lý giải tại sao độc giả sẽ tìm đọc cuốn sách có chứa đựng tất cả các mẩu chuyện. Toàn cầu hoá là một hệ thống phức tạp nếu chỉ giải thích bằng những học thuyết cao siêu, rất khó hiểu. Tôi đã đề cập tới vấn đề này vào một buổi chiều với Robert Hormats, Phó chủ tịch Goldman Sachs International và ông ta đã khéo léo nói lại : "Để hiểu và sau đó là giải thích về toàn cầu hoá sẽ có ích khi tự nghĩ bạn là người nay đây mai đó. Trong thế giới của một người như vậy, không cần phải biết đến hàng xóm láng giềng. Điều đó lý giải tại sao những người nay đây mai đó là người tôn thời một tôn giáo, đạo Hồi hay Do thái. Nếu bạn chỉ ngồi một chỗ, bạn có thể sẽ tưởng tượng ra nhiều thứ về một viên đá hay một cái cây và nghĩ là chúa hiện diện ở viên đá hay cái cây đó. Còn những người nay đây mai đó họ sẽ nhìn thế giới rộng lớn hơn. Họ biết rằng Chúa không nằm ở đó mà có mặt ở khắp mọi nơi. Dù ngồi xung quanh đốm lửa trại hay đi từ ốc đảo này tới ốc đảo khác, họ cũng sẽ chuyển tải những sự thật phức tạp rắc rối thông qua các mẩu chuyện giản đơn, dễ hiểu.
Trước đây, một phóng viên, nhà bình luận hay chính khách xoay xở trong phạm vi "thị trường" của mình, có thể là Toà thị chính hay Statehouse (nơi họp nghị viên của bang), Nhà trắng, Lầu năm góc, Bộ Thương mại và Bộ Ngoại giao. Nhưng ngày này, "thị trường" là cả trái đất và sự hội nhập toàn cầu hoá về kỹ thuật, tài chính, thương mại và thông tin ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận, lãi suất, mức sống, văn hoá, cơ hội việc làm, nhân tố chiến tranh và thời tiết. Điều đó cũng không có nghĩa là toàn cầu hóa lý giải mọi thứ đang diễn ra trong thế giới ngày nay. Đơn giản chỉ là một hệ thống ảnh hưởng nhiều hơn tới mọi người trên nhiều phương diện hơn trong cùng một khoảng thời gian.
Thật không may (tôi sẽ giải thích phần sau), tốc độ toàn cầu hoá diễn ra nhanh hơn khả năng tự trau dồi của mỗi chúng ta để có thể hiểu và nắm bắt nó. Chỉ một ví dụ điển hình là: hầu hết mọi người đều không nghe đến Internet vào năm 90, và rất ít người vào thời điểm đó có địa chỉ e-mail. Vậy mà 9 năm đã trôi qua, giờ đây, Internet, điện thoại và e-mail đã trở thành phương tiện thiết yếu và đối với nhiều người, không chỉ ở các nước phát triển, họ không thể tưởng tượng cuộc sống sẽ ra sao nếu thiếu nó. Tôi chắc là nó không khác gì với thời kỳ bắt đầu chiến tranh lạnh với sự xuất hiện lần đầu tiên của các kho vũ khí hạt nhân và các học thuyết có tính chất ngăn chặn. Để hiểu rõ về bản chất tự nhiên và các nhân tố của hệ thống chiến tranh lạnh thời đó các nhà lãnh đạo và các nhà phân tích phải mất một thời gian dài. Từ sau thế chiến thứ 2, họ nghĩ rằng cuộc chiến vĩ đại đó đã tạo ra trật tự thế giới hiển nhiên nhưng cũng sớm nhận ra là thế giới đó hoàn toàn khác với thế giới mà họ tưởng tượng. Phần lớn những gì diễn ra trong quá trình tái thiết và chiến lược hoá thời kỳ chiến tranh lạnh đều phản ứng rất nhanh trước những thay đổi của các sự kiện và sự gia tăng của các nguy cơ. Dần dần, các nhà chiến lược hình thành các quy định, nhận thức rõ và phản ứng nhanh nhạy hơn.
Với hệ thống toàn cầu hoá, chẳng có gì khác biệt trừ một điều là có thể chúng ta sẽ mất nhiều thời gian hơn để thích nghi với nó vì nó đòi hỏi chúng ta phải trau dồi nhiều hơn và bởi toàn cầu hoá không chỉ tạo ra những siêu cường mà còn tạo ra các siêu thị và các siêu nhân. Tôi muốn nói là năm 1999, chúng ta hiểu được nhiều hơn về cách vận hành của hệ thống toàn cầu hoá vì chúng ta đã biết được hệ thống chiến tranh lạnh hoạt động ra sao hồi 1946 - năm mà Winston Churchill đã đưa ra lời cảnh báo trong một bài phát biểu là "bức tường thép" đã được dỡ bỏ, cắt đứt ảnh hưởng của Xô viết ở Tây Âu. Nếu bạn muốn biết bao nhiêu người hiểu rõ hệ thống này vận hành ra sao hãy nghĩ đến thực tế khá nực cười. Hai nhà kinh tế học chủ chốt, cố vấn của công ty Quản lý vốn dài hạn, Robert C.Merton và Myron S.Scholes đã cùng chia sẻ giải Nôbel kinh tế năm 1997, chỉ mới hiểu ra gần một năm trước khi nhận giải. Trước đó do hiểu lầm bản chất tự nhiên của rủi ro trong thế giới toàn cầu hiện nay hội nhập mạnh nên công ty đã thua lỗ rất nhiều. Điều gì giúp cho hai nhà kinh tế của LTCM giành được giải thưởng Nôbel ? Họ đã nghiên cứu về các biện pháp tài chính phức tạp (vì đây được xem như nguồn gốc phát sinh) giúp các nhà đầu tư toàn cầu hạn chế rủi ro. Năm 1997, họ giành được giải Nobel về kiểm soát rủi ro. Năm 1998, họ lại giành được giải thưởng về tạo ra rủi ro - cũng những con người đó, cũng thị trường đó và trong một thế giới mới.
Murray Gell-Mann, người được giải thưởng Nôbel, giảng viên về lý thuyết vật lý trước đây của Caltech, một trong những người sáng lập ra Viện Santa Fe đã từng tranh luận bằng một loạt bài viết về cái mà tôi gọi là trao đổi thông tin không khác xa nhiều với cách thức mà các nhà khoa học đang cố tạo ra cho các hệ thống phức tạp. Ông ta đúng. Và ngày nay không có hệ thống chính trị nào phức tạp hơn toàn cầu hoá và việc hiểu nó đòi hỏi các nhà báo và các nhà chiến lược cũng phải phức tạp tương đương.
Gell-Mann nói : "Trái đất, một khi đã hình thành, các hệ thống phức tạp sẽ ngày càng nhiều lên vì kết quả của các cuộc cách mạng vật lý, sinh học và cách mạng văn hoá. Cho đến nay, quá trình này vẫn tiếp tục và chúng ta đang phải đối mặt với các vấn đề rất phức tạp về sinh thái, về chính trị, về kinh tế và về xã hội. Khi cố gắng giải quyết những vấn đề khó khăn như vậy, chúng ta có xu hướng chia nhỏ chúng ra thành những phần dễ quản lý dễ kiểm soát hơn. Đó là một cách thức rất hiệu quả nhưng lại có nhiều hạn chế. Khi giải quyết một hệ thống không đơn thuần chỉ là hệ thống dọc, nhất là một hệ thống phức tạp, bạn không chỉ nghĩ đến các phần hoặc các khía cạnh mà phải thêm vào nhiều nhân tố và tìm ra giải pháp này hay giải pháp khác, phối hợp giữa các giải pháp để giải quyết được tổng thể. Với một hệ thống phức tạp, bạn cần phải chia nhỏ chúng thành các phần nhỏ, nghiên cứu từng bộ phận và sau đó là nghiên cứu về mối quan hệ mật thiết giữa chúng. Chỉ có như vậy bạn mới có thể nắm bắt được toàn hệ thống".
Đó là bản chất vấn đề mà tôi muốn nói tới về toàn cầu hoá trong quan hệ quốc tế. Nhưng để có được một trường học về toàn cầu hoá, chúng ta cần phải có nhiều sinh viên, nhiều giảng viên, nhiều nhà ngoại giao, nhà báo, nhà khoa học xã hội được đào tạo trở thành các nhà toàn cầu hoá.
"Chúng ta cần những người quan tâm và cho rằng việc xem xét toàn bộ hệ thống rất quan trọng. Nhưng đó phải là cái nhìn thô sơ vì bạn sẽ không thông thạo mọi khía cạnh và cũng chẳng thể hiểu hết mọi mối liên hệ. Bạn có thể nghĩ là các nhà báo là như vậy song thực tế thì không phải. Thật không may, ở nhiều nơi trong xã hội của chúng ta, trong đó có giới quan chức và học viện, thường có xu hướng chỉ tập trung nghiên cứu một vài khía cạnh của một vấn đề, một kỹ thuật, một loại hình thương mại hay một loại hình văn hoá. Điều đó thật điên khùng. Chúng ta cần phải học không chỉ để trở thành các nhà chuyên môn mà còn trở thành những người hiểu rõ từng mối quan hệ, từng khía cạnh của các vấn đề khác nhau và sau đó là xem xét một cách chung nhất về tổng thể. Một khi chúng ta quan tâm tới loại côctai nào được sử dụng trong bữa tiệc thì đó là phần mấu chốt của toàn bộ câu chuyện".

Vậy hãy xem cốc côctail của tôi.



Chiếc xe Lexus và cây Oliu

Một khi bạn nhận ra rằng toàn cầu hóa là hệ thống quốc tế thay thế hệ thống chiến tranh lạnh thì đó có phải là tất cả điều mà bạn cần phải biết để lý giải thế giới ngày nay ? Không hẳn như vậy. Toàn cầu hóa là một cái gì đó mới mẻ. Và nếu thế giới này chỉ được tạo bởi những con chíp và thị trường thì bạn có thể dựa vào toàn cầu hóa để giải thích hầu hết mọi sự vật hiện tượng. Nhưng than ôi thế giới lại được tạo lập từ những con chíp, thị trường, những người đàn ông và đàn bà với tất cả những thói quen khác thường, những tập quán, những khát vọng, ao ước không thể đoán được. Vì thế các sự kiện quốc tế ngày nay chỉ có thể lý giải rằng mối tương quan giữa cái gọi là mới ví như một trang Web internet và cái gọi là cũ ví như những cây ôliu cằn cỗi ở hai bên bờ sông Jordan. Lần đầu tiên tôi nghĩ về điều này là khi đang ngồi trên một con tàu ở Nhật Bản tháng 5/1992, dùng bữa tối với món sushi và đi với tốc độ 180 dặm một giờ.


Tôi ở Nhật để viết một bài được giao và sắp xếp một cuộc viếng thăm nhà máy sản xuất xe hơi hạng sang Lexus ngoại ô thành phố Toyota, phía Nam Tokyo. Đó là một trong những chuyến đi ấn tượng nhất của tôi. Vào thời điểm đó, nhà máy này sản xuất 300 chiếc xe hơi hạng sang mỗi ngày với 66 công nhân và 310 người máy. Điều mà tôi có thể nói là con người ở đây hầu hết đều nằm trong tầm kiểm soát chất lượng. Chỉ một vài người trong số họ là làm công việc vít các con ốc hoặc hàn các linh kiện lại với nhau. Còn lại tất cả công việc đều do người máy thực hiện. Thậm chí còn có cả những chiếc xe tải tự động chuyên chở vật liệu vòng quanh nhà máy và có cảm giác là có người ngồi trong xe và ấn còi “bíp, bíp, bíp” mỗi khi đi. Tôi như bị thôi miên khi xem người máy bịt cao su vào kính chắn gió phía trước cho mỗi chiếc xe. Cánh tay của người máy thao tác rất gọn gàng khi phết cao su nóng chảy lên khung viền hình chữ nhật quanh cửa sổ. Nhưng điều mà tôi thích nhất là sau khi công việc hoàn tất rất ít cao su rớt xuống từ ngón tay của người máy - nó giống như giọt kem đánh răng rơi khỏi túp thuốc sau khi bạn lấy vào bàn chải. Mặc dù, tại nhà máy chế tạo xe Lexus, cánh tay người máy nhịp nhàng bịt kín dần từ một lỗ hổng to thành khe hở nhỏ xíu, hầu hết dây kim loại đều vô hình và ngoài giọt cao su đen nóng chảy nhỏ không có nguyên vật liệu nào rơi vãi. Tôi chăm chú theo dõi quá trình và nghĩ về kế hoạch thực hiện, thiết kế và công nghệ cần có để người máy tự động làm việc ở góc quay rất chuẩn xác, sau đó móng tay người máy cậy giọt cao su rớt xuống và bắt đầu chùi sạch cửa sổ tiếp theo. Tôi thực sự ấn tượng.
Sau khi thăm nhà máy, tôi đáp chuyến tàu đạn trở lại thủ đô Tokyo. Tàu đạn là một cách đặt tên rất thông minh ý chỉ hình dáng và tốc độ giống như viên đạn. Khi tìm mua một hộp sushi ăn tối, món ăn mà bạn có thể mua ở bất kỳ ga xe lửa nào, tôi đọc được tít một bài báo trên tờ tạp chí International Herald Tribune, câu chuyện ở góc phải phía trên trang 3 đã thu hút sự chú ý của tôi. Đó là bản báo cáo hàng ngày của Bộ Ngoại giao Mỹ. Phát ngôn viên của Bộ, bà Margaret D.Tutwiler đã viết về giải pháp của Liên hiệp quốc năm 1948 liên quan tới quyền quay trở lại Isarel của người tị nạn Palestin. Tôi không nhớ rõ chi tiết toàn bộ câu chuyện nhưng bất kỳ điều gì mà bà đề cập đến rõ ràng đều kích động người Arập và Isarel cũng như ở Trung Đông.
Tôi đang đi trên một chuyến tàu với tốc độ 180 dặm/h hiện đại nhất thế giới, đọc câu chuyện về một góc cũ nhất thế giới. Và ý nghĩ chợt đến với tôi là những người Nhật ở đây, những người hiện đang làm việc trong nhà máy sản xuất ra chiếc xe Lexus mà tôi mới đi thăm và những người trên chuyến tàu tôi đáp trở về thủ đô đang sản xuất ra chiếc xe sang trọng nhất thế giới bằng robot. Trong khi đó, trên tờ tạp chí, những người mà tôi đã sống cùng cách đây vài năm ở Beirut và Jerusalem, những người tôi đã hiểu khá rõ lại đang tranh giành nhau để phân định quyền sở hữu cây ôliu. Điều đó gợi cho tôi ý tưởng rằng chiếc xe Lexus và cây ôliu là hai biểu tượng đắt giá của thời kỳ hậu chiến tranh lạnh: một nửa thế giới dường như nổi trội hơn từ sau thời chiến tranh lạnh với nỗ lực chế tạo ra một chiếc Lexus tốt hơn thể hiện sự hiện đại hoá, tự động hoá và tư nhân hoá nền kinh tế để có thể trụ vững trong hệ thống toàn cầu hoá. Và một nửa thế giới còn lại - đôi khi là một nửa đất nước, một nửa con người - vẫn đang tranh giành nhau quyền sở hữu cây ôliu.
Cây ôliu có vai trò rất quan trọng, là biểu tượng của sự độc đáo, là cội rễ, là chỗ dựa vững chắc, đặc trưng và vị trí của chúng ta trong thế giới này - nơi mà nó có thể thuộc sở hữu của một gia đình, một cộng đồng, một bộ lạc, một tôn giáo hoặc của gần như tất cả mọi người. Cây ôliu cho chúng ta cảm giác êm ấm của gia đình, niềm vui vì quyền lợi cá nhân, thói quen đối với các nghi lễ riêng, sở hữu tư nhân khắc sâu cũng như những chuyện riêng tư và sự an toàn khi đối chọi với người khác. Chúng ta tranh giành kịch liệt về quyền làm chủ cây ôliu qua năm này tới năm khác là vì nó tạo cho chúng ta cảm giác về lòng tự trọng và sự tồn tại như thức ăn có trong dạ dày. Cây ôliu có tác dụng tốt nhất khi giúp nhận biết mỗi chúng ta song cũng có thể có tác dụng xấu nhất là gây ra các cuộc thanh lọc chủng tộc khi những nỗi ám ảnh thực sự cuồng điên như Đức quốc xã hay người Xéc bi ở Yugoslavia.
Cuộc xung đột giữa người Xecbi và người hồi giáo, người Do Thái và Palestine, người Mỹ và Adắcbêgian về chủ quyền đối với cây ôliu là rất tàn khốc vì nó sẽ phân biệt rạch ròi ai sẽ là chủ và ai sẽ thua cuộc. Logic căn bản là : tôi phải kiểm soát cây ôliu này bởi nếu quyền đó thuộc về người khác thì không chỉ lợi ích về kinh tế và chính trị của tôi nằm dưới tay anh ta mà tất cả cuộc sống của tôi đều phụ thuộc. Tôi sẽ chẳng bao giờ có thể cởi giày và thư giãn. Vài điều cũng có thể khiến cho mọi người nổi đoá để khẳng định vị thế, nếu không ý thức của họ đối với gia đình sẽ mất đi. Họ sẽ chết vì nó, tiêu diệt nó, ca ngợi nó, làm thơ về nó và viết tiểu thuyết về nó. Bởi vì nếu không có cảm giác về gia đình, về quyền sở hữu, cuộc sống sẽ trở nên vô nghĩa và không có gốc rễ. Một cuộc sống tựa như cây cỏ dại mọc hoang ở vùng sa mạc sẽ không phải là cuộc sống đối với tất cả mọi người.
Còn chiếc xe Lexus là hiện diện cho cái gì? Đó là sự định hướng căn bản, hướng đi mới cho một thế giới già cỗi - là động lực cho sự tự hoàn thiện, thịnh vượng và hiện đại hoá bởi nó là biểu tượng của hệ thống toàn cầu hoá ngày nay. Lexus đại diện cho các thị trường toàn cầu hình thành, các thể chế tài chính và kỹ thuật công nghệ hiện đại mà chúng ta đang theo đuổi để cải thiện đời sống hiện nay. Đối với hàng triệu người ở các nước đang phát triển, sự tiến bộ chỉ làm sao giải quyết tình trạng phải đi bộ để có được nước sạch, hết cảnh con trâu đi trước cái cày theo sau hay nhặt củi và chỉ để tâm tới những vấn đề trong phạm vi 5 dặm. Những con người này vẫn vươn lên trong cuộc sống chưa không hề buông xuôi.
Tuy nhiên, đối với hàng triệu người ở các nước phát triển, hiện đại hoá và đổi mới có nghĩa là đi những chiếc giày hiệu Nike, mua sắm ở những thị trường lớn và sử dụng các công nghệ mạng mới. Nhưng cho dù mỗi người khác nhau tiếp cận với các thị trường mới và công nghệ của quá trình toàn cầu hoá khác nhau và không nhận được lợi ích giống nhau từ chúng thì cũng không thay đổi được một thực tế là họ đang ở trong một thế giới mà dù trực tiếp hay gián tiếp đều chịu tác động bởi các yếu tố này.
Mặc dù là hình ảnh đối ngược với cây ôliu song thực ra Lexus chỉ là phiên bản mới của một câu chuyện cũ - một trong những câu chuyện cũ rích trong lịch sử - chuyện kể tại sao Cain giết chết Abel. Trong cuốn "Chúa sáng tạo ra thế giới" Hebrew Bible nói: "Cain nói chuyện anh trai của mình là Abel. Và khi họ đang ở giữa cánh đồng, Cain to tiếng và đã giết anh trai. Khi Chúa hỏi Cain anh trai Abel của con ở đâu ? Anh ta trả lời Con không biết. Con có phải là người giữ trẻ đâu? Và Chúa đã nói "Thế con đã làm gì? Ta nghe thấy máu của anh ấy đang gào thét quanh ta".
Nếu đọc kỹ phần này bạn sẽ thấy Hebrew Bible không bao giờ cho chúng ta biết thực ra Cain đã nói gì với Abel. Câu chuyện chỉ viết là "Cain nói chuyện với anh trai mình Abel" và sau đó là chấm hết câu. Chúng ta không hề biết phần bí mật của cuộc đối thoại. Chuyện gì đã xảy ra giữa họ đến nỗi Cain tức giận và giết chết anh trai mình Abel? Thầy giáo thần học của tôi, Rabbi Tzvi Marx dạy tôi rằng các giáo sỹ Do thái trong cuốn Chúa sáng tạo ra thế giới, một trong những cuốn giáo huấn cơ bản đã đưa ra 3 khả năng họ đã nói với nhau điều gì. Thứ nhất, hai anh em mâu thuẫn vì một người đàn bà - Eva. Thời đó, chỉ có một phụ nữ duy nhất trên trái đất, mẹ của họ và họ tranh giành nhau để lấy được người phụ nữ này. Họ cãi nhau vì giới tính và chức năng duy trì nòi giống. Giả thuyết thứ hai là Cain và Abel tranh giành nhau việc phân chia thế giới. Cain có tất cả các bất động sản hay nói như Bible là "Cain trở thành ông chủ ruộng đất" và Abel sở hữu động sản và gia súc - Abel trở thành người chăn cừu. Và theo giả định này, Cain đề nghị Abel cho mình quyền sở hữu cừu và đây là nguyên nhân dẫn tới cuộc ẩu đả và cuối cùng là Cain đã giết chết Abel. Họ tranh giành nhau vì quyền lợi kinh tế và nguyên liệu. Giả thuyết thứ ba là hai anh em đã phân chia mọi thứ trừ một điều quan trọng là : nên xây điện thờ ở đâu để thể hiện tôn giáo riêng và nét đặc trưng về văn hoá riêng của mình. Mỗi người đều muốn có quyền kiểm soát đối với điện thờ và thể hiện bản sắc riêng, muốn phải xây trên mảnh đất của mình. Họ cãi nhau vì vấn đề đặc trưng và muốn trở thành người quản lý nhà thờ của dòng họ. Vì thế, theo giáo sỹ, tất cả các nhân tố thuộc động lực của con người là nguyên do tạo nên một câu chuyện: nhu cầu về giới tính, nhu cầu về sinh nhai và nhu cầu khẳng định cá nhân và cộng đồng. Tôi sẽ không đề cập tới nhu cầu thứ nhất (nhu cầu về giới tính) mà chỉ chú trọng tới 2 nhu cầu sau.

Đó là lý do tại sao tôi có thể nói chắc chắn rằng, việc trao đổi thông tin cung cấp cho chúng ta những lăng kính cần thiết để nhìn thế giới ngày nay nhưng chỉ có các lăng kính thôi không đủ. Chúng ta cũng cần phải biết chúng ta xem xét và tìm kiếm cái gì? Và chúng ta đang xem xét cái gì, tìm kiếm cái gì và một câu hỏi không hề mới mẻ cho mỗi các nhân, và cộng đồng - dựa trên những lời giáo huấn trong Genesis, là một phần của hệ thống toàn cầu hoá ngày nay. Đó là nghệ thuật của hình tượng chiếc xe Lexus và cây Ôliu.


Trong hệ thống chiến tranh lạnh, phần lớn mối đe doạ đối với cây ôliu của bạn là cây ôliu của người khác. Anh ta vượt rào, đào trộm cây ôliu của bạn và đem về trồng trên đất của mình. Mối đe doạ đó cho tới ngày nay chưa được xoá đi nhưng phần nào giảm bớt ở nhiều nơi trên thế giới. Hiểm hoạ lớn nhất ngày nay đối với cây ôliu của bạn là từ chiếc xe Lexus - từ những hiểm hoạ bí mật, vượt qua phạm vi một quốc gia, đồng nhất hoá và tiêu chuẩn hoá các lực lượng thị trường và công nghệ làm nên hệ thống kinh tế toàn cầu hoá ngày nay. Một số cái của hệ thống này có thể sẽ giúp Lexus áp đảo, lấn lướt hình tượng cây ôliu và điều này có thể tạo nên sự phản ứng dữ dội. Song trong hệ thống cũng có nhân tố giúp cho cộng đồng chính trị dù nhỏ nhất, yếu nhất có thể sử dụng các công nghệ mới, thị trường mới để bảo vệ cây ôliu của họ, bảo vệ bản sắc và giá trị văn hoá của mình. Vòng quanh thế giới vài năm gần đây, tôi như bị thôi miên khi xem một chiến đấu vật xảy ra đồng thời, một cuộc chiến đấu cam gom khá cân bằng lực lượng giữa chiếc xe Lexus và cây ôliu.
Cuộc vật lộn giữa chiếc xe Lexus và cây ôliu trong hệ thống mới toàn cầu hoá có thể thấy thông qua cuộc trưng cầu dân ý ở Na Uy năm 1994 về việc có nên gia nhập Liên minh châu Âu hay không. Na Uy là nước nằm ở châu Âu. Đây là một quốc gia giàu có và phát triển, kim ngạch thương mại với các nước châu Âu tương đối lớn. Gia nhập EU có ý nghĩa kinh tế đối với Na Uy trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày càng mạnh. Nhưng cuộc chưng cầu dân ý đã thất bại vì quá nhiều người Na Uy cảm thấy rằng việc gia nhập EU có nghĩa là họ mất đi quá nhiều bản sắc riêng và cách sống riêng - những đặc trưng riêng có của người Na Uy và nhờ có dầu lửa ở Biển Bắc (bán cho cả thế giới). Người Na Uy vẫn có thể giữ vững đà tăng trưởng mà không cần phải là thành viên của EU. Nhiều người xem xét và cho rằng "Hãy để cho tôi đi theo hướng riêng của mình. Giả sử đem đặc trưng riêng có của người Na Uy góp vào Euro-cuisinart, nó sẽ trở thành Euromush vì Eurobureaucrats nộp Euro -đôla tại quốc hội do người Âu châu quản lý? Không, cảm ơn. Tôi thích ở Sten. Tôi thích trung thành với cây ôliu riêng có của mình cho dù hiệu quả kinh tế không cao"..
Chiếc xe Lexus và cây ôliu trong thế cân bằng vững là một cây chuyện liên quan tới tôi thông qua Glenn Prickett - Phó chủ tịch cấp cao thuộc nhóm bảo vệ môi trường quốc tế - khi ông thăm một ngôi làng người Anh điêng Kayapo, Aukre nằm ở vùng hẻo lánh sâu trong rừng Amazon, Braxin. Một nơi chỉ có thể tới được bằng máy bay động cơ nhỏ. "Máy bay đang hạ cánh xuống một bãi có, chúng ta đã nhìn thấy toàn bộ ngôi làng, người dân mặc các trang phục truyền thống - hoặc không mặc tranh phục, vẽ mặt với một vài chiếc mũ của đội bóng chày Mỹ có in logo của nhà sản xuất. Tôi đã ở đó với nhóm bảo vệ môi trường để kiểm tra hoạt động của một trạm nghiên cứu sinh vật học, chúng ta đang ở thượng lưu của Kayapo. Kayapo giữ còn được một khu rừng Amazon rộng lớn nguyên sinh hàng thế kỷ. Hiện nay, họ đang học cách bảo vệ nó thông qua việc liên minh với các nhà khoa học quốc tế, các nhà bảo vệ môi trường và doanh nhân có ý thức. Làng của họ chỉ có một con đường chính nhỏ với một gian hàng của nhóm Bảo vệ môi trường quốc tế và một chi nhánh của Body Shop, một nhà chế biến súp. Vì thế sau hai ngày ở trạm nghiên cứu sinh vật học, chúng tôi đã phải quay trở về làng để mua bán một số đồ dùng, thực phẩm. Chúng tôi mở một phiên chợ ngoài trời theo văn hoá Kayapo với các đồ tạo tác, các đồ dùng bằng song mây, bát đũa, khiên giáo và mũi tên. Sau đó nhóm chúng tôi mua lại tất cả các thứ với giá cao hơn và trả bằng đô la Mỹ. Xong xuôi, chúng tôi đi đến và nghỉ trong một túp lều dành cho đàn ông ở trung tâm làng Kayapo - đây có thể là nơi sản sinh ra các câu chuyện thời tiền sử. Trong lúc ngồi ở quán với những người đàn ông đứng đầu làng, tôi để ý rằng tất cả họ đều chăm chú theo dõi một chiếc tivi duy nhất, nối với một chảo vệ tinh lớn. Họ bật đi bật lại giữa một kênh có trận bóng đá của Braxin và một kênh thương mại thông báo giá vàng đang mua bán trên thị trường thế giới. Những người đàn ông Kayapo muốn đảm bảo rằng họ đang đòi tiền của những người đào vàng nhỏ cái giá mà những người này phải trả để có thể khai thác rìa rừng, sau đó là bán bất kỳ chút vàng nào mà họ tìm thấy. Sau đó họ dùng lợi nhuận thu được từ thị trường vàng thế giới để giữ gìn lối sống vốn có của mình ở giữa rừng rậm Amazon.
Cây ôliu thắng thế Lexus khi Ấn Độ quyết định đối chọi với thế giới và nối lại chương trình thử vũ khí hạt nhân vào mùa xuân năm 1998. Tôi đã đến Ấn Độ trong thời gian rất ngắn sau khi diễn ra các cuộc thử vũ khí hạt nhân, nơi tôi đã nói chuyện với người giàu, người nghèo, các tổ chức chính phủ hoặc phi chính phủ, người sống ở thành thị hay làng quê và tôi vẫn có ý chờ dợi một người Ấn Độ nói với tôi rằng : "Bạn thấy đấy, những cuộc thử nghiệm vũ khí hạt nhân thực sự ngu xuẩn. Chúng tôi không được thêm bất kỳ sự an toàn nào từ chúng và chúng tôi phải trả giá bằng những lệnh trừng phạt". Tôi chắc là họ có ý nghĩ đó nhưng tôi không thể tìm ra người nào dám nói lên suy nghĩ của mình. Thậm chí những chính trị gia- những người kịch liệt phản đối ý kiến cho rằng các cuộc thử nghiệm vũ khí hạt nhân là cuộc diễn tập sô vanh hiếu chiến, không tốn kém do chính phủ của người Hindu mới thực hiện cũng có thể nói với bạn rằng các cuộc thử nghiệm này là cách duy nhất để người Ấn Độ có được điều họ muốn từ Mỹ và Trung Quốc: Sự kính trọng. Cuối cùng, tôi đã nhận ra những gì ẩn chứa bên trong khi tôi gặp một người tham gia nhiều cuộc vận động nhân quyền luôn mặc chiếc áo dài màu nghệ đặc trưng Ấn Độ, Swami Agnivesh. Khi hai chúng tôi ngồi bắt chéo chân trong phòng khách của ông, tôi nghĩ : "Chắc chắn anh ta sẽ chối vụ việc này". Nhưng ngay sau đó cúng tôi đã nói về điều đó và giúp tôi hiểu rõ vấn đề :"Chúng tôi là người Ấn Độ, một quốc gia lớn thứ hai trên thế giới. Bạn không thể phủ nhận điều đó. Ấn Độ không cảm thấy bị Pakistan đe doạ nhưng trong cuộc chơi quy mô toàn cầu, Ấn Độ đang nằm ngoài rìa trục chính Trung Quốc - Mỹ". Ngày hôm sau, tôi đến Dasna, một làng phía Bắc New Dehli và tôi tình cờ dừng lại lắng nghe những người bán hàng nói chuyện. Dasna là nơi nghèo nhất là tôi được biết. Nơi đây trên đường phố hầu như chỉ có những con trâu, những chiếc xe đạp, hiếm có xe hơi. Bầu không khí nồng nặc mùi phân trâu bò. Nhưng họ yêu chính phủ và đồng tình với cuộc thử nghiệm hạt nhân. "Chúng tôi có 900 triệu dân. Chúng tôi sẽ không chết vì những lệnh trừng phạt", Pramod Batra, một bác sỹ 42 tuổi ở Dasna cho biết "Cuộc thử nghiệm hạt nhân này thể hiện lòng tự trọng và lòng tự trọng quan trọng hơn nhiều những con đường, điện đóm và nước. Dù sao đi nữa điều chúng tôi đã làm là gì? Chúng tôi khám phá quả bom của chúng tôi. Nó giống như việc bắn một phát đạn lên bầu trời. Chúng tôi không làm tổn thương ai cả".
Nhưng trong khi cây ôliu ở Ấn Độ dường như thắng thế Lexus thì trong hệ thống toàn cầu hoá ngày nay luôn phải trả một cái giá về lâu dài. Khi ở New Dehli, tôi nghỉ tại khách sạn Oberol, tôi đã bơi trong một chiếc bể bơi vào cuối mỗi ngày để giảm bớt cái nóng nực. Ngày đầu tiên ở đó, khi tôi đang bơi ếch, một phụ nữ Ấn Độ cũng bơi ở làn bơi bên cạnh. Trong lúc nghỉ giải lao chúng tôi bắt đầu nói chuyện và cô ta cho biết đang điều hành một văn phòng của Salomon Brothers - Smith Barney ở Ấn Độ, một ngân hàng đầu tư lớn của Mỹ. Tôi giới thiệu tôi là nhà bình luận đang viết về vấn đề bụi phóng xạ do các cuộc thử nghiệm hạt nhân của Ấn Độ.

Mỗi khi bơi đứng, cô hỏi tôi "ông có nghe ai đang ở thị trấn không?" Tôi trả lời : "Không" và lắc đầu "Ai vậy?".


Cô nói "Moondy's". Cơ quan đầu tư của Moody là một công ty đánh giá mức độ tín nhiệm quốc tế, phân loại A, B, và C và các nhà đầu tư toàn cầu có thể biết ai đang theo đuổi mục đích kinh tế bền vững, ai không và nếu nền kinh tế của bạn ở mức độ thấp có nghĩa là bạn phải trả lãi suất cao hơn cho các khoản vay quốc tế. "Moondy's đã cử một đội đánh giá lại nền kinh tế Ấn Độ".
"Thế ông có biết họ quyết định gì không?". "Không", tôi đáp. "Ông nên kiểm tra", cô nói và bơi ra xa.
Và tôi đã kiểm tra. Hoá ra, đội của Moondy đã đi quanh New Dehli nhanh chóng nhưng bí mật khi các nhà khoa học hạt nhân Ấn Độ đã chuẩn bị cho các cuộc thử nghiệm hạt nhân. Tôi không khám phá ra bất kỳ điều gì về quyết định của họ nhưng trong đêm rời Ấn Độ tôi đã nghe tin tức buổi tối và ghi nhớ được 4 điều. Đó là phản ứng của chính phủ Ấn Độ, ngân sách không điều chỉnh, các cuộc thử nghiệm vũ khí hạt nhân của Ấn Độ và các lệnh trừng phạt mà Mỹ áp đặt cho nền kinh tế nước này nhằm buộc Ấn độ phải từ bỏ một số vũ khí hạt nhân. Moody's đã hạ thấp nền kinh tế Ấn Độ từ mức "đầu tư" có nghĩa là an toàn cho các nhà đầu tư quốc tế xuống mức "nghi ngờ" có nghĩa là rủi ro. Cơ quan đánh giá Standard & Poor's cũng điều chỉnh dự báo về kinh tế Ấn Độ từ "ổn định" sang "bất ổn". Điều đó có nghĩa là bất kỳ công ty Ấn Độ nào muốn vay tiền của công ty quốc tế sẽ phải trả lãi suất cao hơn. Và vì tỷ lệ tiết kiệm thấp nên các quỹ đầu tư nước ngoài cho rằng Ấn Độ cần 500 tỷ USD để xây dựng cơ sở hạ tầng mới trong thập kỷ tới để nâng cao sức cạnh tranh. Như vậy, cây ôliu đã có thời phồn thịnh ở Ấn Độ, Nhưng khi xuất hiện một hệ thống mới - hệ thống toàn cầu hoá, nó sẽ phải trả giá. Và chỉ một vài tháng sau đó, chính phủ Ấn Độ đã tìm cách giảm vị thế của cây ôliu vì những rắc rối về kinh tế mà cây ôliu mang lại cho quốc gia đông dân thứ hai thế giới này.
Một ví dụ về cây ôliu và chiếc xe Lexus trong thế cân bằng là vấn đề vùng Vịnh. Trong chuyến bay từ Bahrain đến Luân Đôn, trong khoang hạng nhất tôi ngồi, do sử dụng vệ tinh GPS nối với ăngten máy bay nên tôi có thể xem tivi và biết rõ vùng máy bay đang ở đâu so với thành phố. Màn hình hiển thị một sơ đồ với hình máy bay là một chấm trắng di chuyển xung quanh sơ đồ khi thay đổi đường bay. Những hành khách Hồi giáo, cầu nguyện 5 lần một ngày đang hướng tới Mecca và luôn biết đường nào bên trong máy bay khi họ mở cuốn kinh thánh. Suốt chuyến bay, tôi để ý một vài hành khách gần mình phải gắn mình vào những lễ nghi cầu nguyện. Và nhờ hệ thống GPS, họ biết cách thể hiện mục đích.
Chiếc xe Lexus đã trội hơn cây ôliu ở thời đại toàn cầu hoá trong một linh kiện máy tính mà một người bạn gửi cho tôi. Đằng sau linh kiện có ghi: "Linh kiện này được sản xuất ở Malaysia, Singapore, Philipin, Trung Quốc, Mêhicô, Đức, Mỹ, Thái Lan, Canada và Nhật Bản". Nó được sản xuất ở nhiều nước vì thế chúng ta không thể chỉ định rõ là xuất xứ từ một nước riêng biệt nào.
Chiếc xe Lexus đã lấn lướt cây ôliu trong kỷ nguyên toàn cầu hoá là một chủ đề nhỏ xuất hiện ngày 11/8/1997, trong lần xuất bản Sports Illustrated. Bài báo viết: "câu lạc bộ bóng đá 38 tuổi Welsh, Llansantffraid đã đổi tên thành "những giải pháp mạng tổng thể" với trị giá chuyển nhượng 400.000 USD từ một công ty điện thoại đơn lẻ.
Chiếc xe Lexus và cây oliu cùng song song tồn tại trong thời đại toàn cầu hoá vào ngày Boris Yeltsin xuất hiện trên trang Web. Ngày 12/4/1998, câu chuyện trên tạp chí như sau:
Matxcơva (AP)-Boris Yeltsin, xuất hiện trên Web?. Tổng thống Nga đã lên mạng trả lời phỏng vấn trực tuyến trong vòng 30 phút từ điện Kremlin do MSNBC thực hiện.

Câu hỏi của một người đàn ông ở Hà Lan: Ông nghĩ gì về hút thuốc lá?

Trả lời : Tôi ghét nó.

Hỏi: Nga sẵn sàng có một tổng thống nữ?

Trả lời : Không bao giờ.

Hỏi: Trong người ông có dòng máu Ai len?

Trả lời: Không, tổ tiên tôi là người Xibi
Đây là lần trò chuyện trên mạng đầu tiên của Yeltsin, một kỹ thuật mới. Nhưng thực tế là Yeltsin không sử dụng máy tính xách tay trước mặt hay gặp phải rắc rối nào với những tiến bộ công nghệ cao của Internet. MSNBC đã chọn lựa 14 câu hỏi trên tổng số 4.900 câu hỏi nhận được và một phiên dịch viên dịch chúng ra tiếng Nga. Một phiên dịch khác dịch những câu trả lời của tổng thống ra tiếng Anh và nói qua một chiến micro nối với MSNBC ở Redmon, Wash, nơi có đường truyền Internet. Hệ thống này cho biết có khoảng 4.000 người truy cập vào mạng để chat. Nhiều người Nga nhanh chóng nắm bắt công nghệ máy tính và internet sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ trong khi nhiều doanh nghiệp vẫn sử dụng bàn tính và các cuộc đàm thoại quốc tế mà đến nay không còn hiện đại nữa.
Chiếc xe Lexus và cây ôliu cùng tồn tại trong một câu chuyện trên thời báo Washingtons ngày 21/9/1997, viết về các nhân viên phản gián Nga phàn nàn về việc phải trả nhiều gấp hai lần để tuyển dụng một điệp viên CIA. Một nhân viên của Cơ quan an ninh liên bang Nga (tiền nhiệm là KGB) đề nghị dấu tên, cho Thông tấn xã Itar-Tass biết, một điệp viên Nga có thể được mua với giá 1 triệu USD trong khi một điệp viên CIA phải trả khoảng 2 triệu USD.
Cùng thời điểm bài báo này xuất hiện, tờ báo Yediot Aharonot cũng đưa tin sốt dẻo. Các biên tập viên Yediot đã tới Matxcơva và mua một số ảnh vệ tinh điệp viên Nga của tên lửa mới Scud ở Syria. Tiếp theo, Yediot thuê một chuyên gia Mỹ riêng để phân tích những tấm ảnh này. Sau đó Yediot đưa toàn bộ như là một tin sốt dẻo về mối đe dọa của tên lửa mới mà không hề nêu tên quan chức chính phủ.

Năm 1997, những người Jordan đã khai trương một trang Web mới về thời đại toàn cầu hoá với cây ôliu có địa chỉ http://www.arab.net/gid/welcome.html. Đây là trang chủ của cơ quan tình báo quốc gia, CIA-cơ quan tình báo đầu tiên ở Trung Đông có trang web riêng. Một bản tin chính thức cho biết: "trang web giới thiệu sơ qua về lịch sử, chức năng và các quan điểm của Cơ quan tình báo quốc gia".


Cuối cùng, câu chuyện mà tôi thích nhất về hình tượng chiếc xe Lexus và cây ôliu trong kỷ nguyên toàn cầu hoá là về con trai của Abu Jihad. Tôi đã tham dự cuộc họp thượng đỉnh Trung Đông về kinh tế ở Amman, Jordan năm 1995 và thưởng thức bữa trưa ở ban công của Amman Marriott.
Hoàn toàn bất ngờ, một người đàn ông Ả rập trẻ đến bàn của tôi và hỏi: "ông có phải la Tom Friedman không?". Tôi trả lời "Vâng"."Ngài Friedman, người đàn ông tiếp tục nói một cách lịch sự, ông biết cha tôi".

"Cha anh là ai?" Tôi hỏi.


"Cha tôi là Abu Jihad". Abu Jihad, tên thật là Khalil al-Wazir, là một người Palestin, người cùng với Yasser Arafat thành lập ra el Fâth và sau này lãnh đạo Tổ chức giải phóng Palestine. Abu Jihad, có nghĩa là "cha của cuộc chiến", là bí danh của anh ta và anh hiện là sĩ quan chỉ huy của quân đội Palestine ở Lebanon và Bờ Tây vào thời điểm mà tôi đang làm phóng viên thường trú ở Thời báo NewYork ở Beirut. Tôi đã biết ông hồi ở Beirut. Người Palestine coi ông là một anh hùng quân đội, còn Isarel coi ông là một trong những phần tử khủng bố người Palestine đặc biệt nguy hiểm. Một nhóm Israel đã ám sát Abu Jihad ở trong phòng khách của ông ở Tunis ngày 16 tháng 4 năm 1988, với một trăm viên đạn.
"Có, tôi biết cha anh rất rõ. Tôi đã từng tới thăm gia đình anh ở Damaseus". Tôi nói với người thanh niên trẻ "Thế bây giờ anh đang làm gì?".

Anh ta đưa cho tôi một tấm danh thiếp trên đó ghi "Jihad al-Wazir, Giám đốc điều hành, Trung tâm thương mại thế giới, Gaza, Palestin"



Tôi đọc tấm thiếp và tự nhủ: "Thật là một sự kinh ngạc. Từ Che Guevara tới Dale Carnegie chỉ trong một thế hệ".
Đối với các quốc gia, các cá nhân, thách thức trong thời đại toàn cầu hoá là phải tìm ra được thế cân bằng vững giữa một bên là duy trì đặc trưng, gia đình và cộng đồng riêng, một bên là tồn tại trong hệ thống toàn cầu hoá. Bất kỳ một xã hội nào muốn sống sót trong thế giới ngày nay cần phải nỗ lực tạo ra những chiếc xe Lexus tốt và sử dụng nó trong thế giới nội tại. Nhưng không nên có ảo tưởng rằng việc tham gia vào nền kinh tế toàn cầu này sẽ giúp xã hội đó giàu có. Nếu việc tham gia đó phải trả giá bằng đặc trưng riêng của mỗi quốc gia, nếu các các nhân cảm thấy nguồn gốc cây ôliu của mình bị nhổ bật hay rũ bỏ trong thế giới ngày nay, họ sẽ nổi loạn, sẽ đấu tranh và lập lại cân bằng.
Việc tồn tại hệ thống toàn cầu hoá một phần tuỳ thuộc vào việc liệu chúng ta có tác động tốt vào cân bằng này không. Một quốc gia không có Lexus sẽ không bao giờ phát triển hay vươn xa. Nhưng một đất nước không có những cây ôliu khỏe mạnh sẽ không có cội nguồn, gốc rễ hay đủ an toàn để mở cửa hoàn toàn ra thế giới. Nhưng cùng giữ chúng trong một thế cân bằng là một cuộc chiến đấu không dứt.
Có lẽ đó là lý do tại sao trong nhiều câu chuyện mà bạn đọc trong cuốn sách này sự yêu thích của tôi lại có nguồn gốc từ một bạn đồng nghiệp cũ, Victor Friedman, người dạy quản trị kinh doanh tại Viện Ruppin ở Isarel. Một ngày tôi gọi điện cho anh, anh nói rằng anh rất vui khi tôi gọi điện vì chưa có số điện thoại của tôi. Khi tôi hỏi tại sao lại thế, anh giải thích anh không còn chiếc máy tính xách tay trong đó lưu giữ tất cả mọi thứ-địa chỉ của bạn bè, địa chỉ email, số điện thoại và lịch làm việc trong vòng 2 năm tới. Sau đó anh kể với tôi chuyện gì đã xảy ra.
"Chúng tôi có một chiếc máy tính ở nhà đã bị hỏng. Tôi đem nó đi sửa ở một cửa hiệu ở Hadera (một thị trấn miền Trung Isarel). Hai tuần sau nhânviên cửa hàng gọi điện và nói rằng chiếc máy tính của tôi đã sửa xong. Vì thế tôi bỏ chiếc máy tính bỏ túi vào chiếc cặp da của mình và lái xe tới Hadera để lấy chiếc máy tính mới sửa. Tôi rời cửa hàng với một chiếc máy tính để bàn to và một chiếc cặp xách có để chiếc máy tính bỏ túi bên trong. Khi tôi đi đến xe ô tô, tôi đặt chiếc cặp của mình xuống vỉa hè, mở cốp xe và đặt cẩn thận chiếc máy tính mới sửa vào đảm bảo an toàn cho máy. Sau đó tôi lên xe và lái đi, bỏ quên chiếc cặp của mình trên vỉa hè. Khi về văn phòng tôi tìm chiếc cặp và sớm nhận ra điều gì đã xảy ra, điều gì sẽ xảy ra sau đó. Ngay lập tức tôi gọi điện tới cảnh sát Hadera và nói họ "Đừng làm nổ tung chiếc cặp của tôi" (Có một quy định là cảnh sát Isarel tiến hành nổ tung bất kỳ gói, cặp hay một vật khả nghi nào đó bỏ lại trên vỉa hè vì có quá nhiều trường hợp người Palestine đánh bom khiến cho nhiều người dân Isarel thiệt mạng. Người Isarel cũng được huấn luyện cách tự bảo vệ trước trường hợp này, nếu bạn bỏ quên một vật gì đó trong một phút phải gọi điện ngay cho cảnh sát). Tôi biết là không ai lấy chiếc cặp của mình. Ở Isarel, một tên trộm sẽ không sờ vào bất kỳ một vật nào như vậy bỏ quên trên đường. Nhưng đã quá muộn. Cảnh sát cho tôi biết là đội phá bom đã tới hiện trường và giải quyết xong vụ việc. Khi tôi tới sở cảnh sát, họ đưa lại cho tôi chiếc cặp da với một lỗ đạn nhỏ xuyên thẳng ở giữa. Thứ duy nhất bị phá hỏng là chiếc máy tính bỏ túi của tôi. Cả cuộc đời tôi nằm trong đó và tôi không bao giờ có thể làm lại được. Tôi nói với cảnh sát là tôi cảm thấy rất tồi tệ vì gây ra vụ việc như vậy và họ an ủi: "Đừng buồn, điều đó có thể xảy ra với tất cả mọi người". Vài tuần sau, tôi đi bộ xung quanh khuôn viên của trường với chiếc cặp có một lỗ đạn để nhắc tôi dừng lại và suy nghĩ cẩn trọng hơn. Hầu hết các sinh viên của tôi đang ở trong quân đội Isarel và họ sớm nhận ra chiếc cặp của tôi với lỗ đạn, họ hiểu ngay ra và cười với nhau vì họ hiểu chuyện gì đã xảy ra".
Sau khi Victor kết thúc câu chuyện, anh nói "Nhân tiện, gửi cho tôi địa chỉ email của anh. Tôi cần phải lập lại một cuốn sổ địa chỉ mới".
.Và bức tường sụp đổ
Mùa hè năm 1998, tôi đang ở Braxin. Một ngày, tôi tới gặp một trong những nhà đại công nghiệp, Guilherme Frering, chủ tịch hội đồng quản trị một nhà máy thép lớn ở Braxin có tên Gaemi Minercao e Metalurgia. Frering đã mô tả cho tôi về những đổi thay đáng kinh ngạc của nền kinh tế Braxin trong vòng một thập kỷ với một lời kết ấn tượng: "Ông thấy đấy, bức tường Berlin cũng đổ sụp ở đây. Đó không chỉ là một sự kiện ở châu Âu mà là một sự kiện toàn cầu. Ở ngay Braxin. Những chuyển biến lớn của nền kinh tế Braxin thực tế diễn ra cùng thời điểm với sự kiện bức tường Berlin sụp đổ".
Để minh họa cho quan điểm của mình, ông dẫn một câu chuyện: Tháng 11/1988, công nhân đã tiến hành đình công tại nhà máy thép quốc doanh (CSN) ở Volta Redona, nằm phía Tây Bắc Rio de Janeiro và là nhà máy thép lớn nhất Nam Mỹ. Khoảng 2.500 công nhân tức giận tiến hành bạo động và đòi tăng lương, giảm giờ làm từ 8 tiếng xuống còn 6 tiếng một ngày. Mâu thuẫn giữa công nhân và cảnh sát địa phương lên tới đỉnh điểm và đã phải viện tới cả quân đội tham gia. Có 3 công nhân thiệt mạng và 36 người bị thương. Quân đội Braxin đã buộc tội những công nhân này tiến hành "một cuộc chiến tranh du kích thực sự" vì họ có sử dụng đá. Họ dùng lựu đạn cháy chống xe tăng, dùi cui sắt và súng các loại để bảo vệ tài sản nhà nước. Trong chế độ độc tài quân sự tồi tại 21 năm của Braxin, chấm dứt vào năm 1985, các tướng chỉ huy luôn thận trọng trong việc kiểm soát nhà máy thép lớn này và đã tuyên bố Volta Ređona là "một trụ sở của an ninh quốc gia", nhận được sự ưu ái của chính phủ. Sau khi giải thích tất cả điều này cho tôi, Frering nói thêm: "Gần 4 năm sau cuộc đình công đẫm máu ấy, sau khi bức tường Berlin sụp đổ, những công nhân giống như công nhân của nhà máy thép CSN đã đòi nhà máy phải tiến hành tư nhân hoá. Vì họ hiểu rằng đó là cách duy nhất để duy trì khả năng cạnh tranh và không bị mất việc làm. Ngày này, CSN đã tư nhân hoá hoàn toàn và được xem là một trong những cổ đông chính trong quá trình tư nhân hoá các nhà máy quốc doanh khác ở Braxin".
Những nhận xét của Frering như một luồng sáng mới đối với tôi: Tất nhiên là ông ta đúng! Bức tường Berlin không chỉ đổ ở Đức. Nó còn đổ sụp ở Đông, Tây, Nam và Bắc, ở các quốc gia, các công ty và gần như là diễn ra vào cùng một thời điểm. Chúng tôi tập trung nói về sự sụp đổ của bức tường Berlin ở phía Đông bởi tại đây sự kiện này diễn ra quá mạnh, quá rõ ràng: một bức tường xi măng đã sụp đổ trong bản tin buổi tối. Nhưng trên thực tế, những bức tường khác cũng sụp đổ trên toàn thế giới. Và sự kiện này có thể là nguyên nhân hình thành kỷ nguyên toàn cầu hoá và hội nhập hiện nay. Nhưng một câu hỏi quan trọng là: những bức tường sụp đổ là do đâu? Hay như những đứa trẻ nhà tôi ngây thơ hỏi: Bố ơi, toàn cầu hoá từ đâu đến?
Tôi sẽ bắt đầu câu trả lời của mình như: Thế giới chiến tranh lạnh giống như một thảo nguyên bao la, được cắt chéo và phân chia bởi những hàng rào, những bức tường, những con mương và ngõ cụt. Khó có thể đi xa, đi nhanh trong thế giới đó mà không vượt qua bức tường Berlin hay bức màn thép, hiệp ước Warsaw hay một số quy định bảo hộ của một số cá nhân hay những kiểm soát về tư bản. Và đằng sau những bức tường rào này, các quốc gia có thể tìm thấy rất nhiều chỗ ẩn nấp và giữ gìn bản sắc văn hoá, chính trị, kinh tế của riêng mình. Họ có thể là thế giới thứ nhất, thứ hai hay thứ ba. Họ có thể có nhiều hệ thống kinh tế khác nhau: một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, một nền kinh tế phúc lợi quốc gia, một nền kinh tế xã hội hoá hay một nền kinh tế thị trường. Và họ có thể duy trì nhiều hệ thống chính trị khác biệt-từ dân chủ tới độ tài, độc đoán tới chế độ quân chủ và chuyên chế. Và những khác biệt có thể dễ nhận thấy hoặc đen trắng lẫn lộn vì được bảo vệ bằng những bức tường không dễ nhìn xuyên qua.
Thổi bay những bức tường này là nhờ 3 thay đổi căn bản-thay đổi trong cách chúng ta liên lạc, cách chúng ta đầu tư và cách chúng ta học hỏi từ thế giới. Những thay đổi này sinh ra và được nuôi dưỡng trong thời kỳ chiến tranh lạnh, trưởng thành vào cuối thập niên 80-thời điểm đủ tạo thành một luồng gió mạnh thổi bay những bức tường dựng lên trong hệ thống chiến tranh lạnh và có thể đưa thế giới sang một trang khác, một thế giới bao la, duy nhất và hội nhập. Ngày nay, thế giới đó phát triển ngày càng rộng lớn hơn, nhanh hơn, mở cửa rộng hơn vì nhiều bức tường được dỡ bỏ và nhiều quốc gia tham gia vào. Và đó là lý do tại sao không còn thế giới thứ nhất, thế giới thứ hai hay thế giới thứ ba. Thay vào đó là thế giới nhanh-thế giới của một thảo nguyên rộng lớn và thế giới chậm-thế giới của những ai chưa phá vỡ được các rào cản hay chọn cách đi rời xa đồng bằng tới những thung lũng riêng vì họ cho rằng thế giới nhanh phát triển quá mạnh, quá rùng rợn, quá đồng nhất hay quá nhiều đòi hỏi.


Каталог: upload
upload -> -
upload -> 1. Most doctors and nurses have to work on a once or twice a week at the hospital
upload -> TrầnTrang EnglishTheory Phonetics
upload -> BỘ khoa học và CÔng nghệ TÀi liệu hưỚng dẫN
upload -> TÀi liệu hưỚng dẫn sử DỤng dịch vụ HỘi nghị truyền hình trực tuyếN
upload -> BỘ thông tin truyềN thông thuyết minh đỀ TÀi xây dựng quy chuẩn kỹ thuật thiết bị giải mã truyền hình số MẶT ĐẤt set – top box (stb)
upload -> CHỦ TỊch nưỚC
upload -> CHỦ TỊch nưỚC
upload -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
upload -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014

tải về 2.25 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   24




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương