Bến Tre là một trong 13 tỉnh thành của đồng bằng sông Cửu Long được hình thành bởi 3 cù lao lớn: An Hoá, Bảo, Minh do phù sa của bốn nhánh sông Cửu Long (sông Tiền, Ba Lai, Hàm Luông và Cổ Chiên) bồi tụ qua nhiều thế kỷ



tải về 2.07 Mb.
trang2/16
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích2.07 Mb.
#30676
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   16

II. CÁC TÀI LIỆU SỬ DỤNG


Các tài liệu tham khảo để xây dựng báo cáo Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng tỉnh Bến Tre giai đoạn 2012 – 2020, bao gồm:

  • Kết quả điều tra hiện trạng tài nguyên rừng và đất lâm nghiệp tỉnh Bến Tre do Phân viện Điều tra Quy hoạch rừng Nam bộ thực hiện từ tháng 6 năm 2011 đến tháng 2 năm 2012.

  • Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện dự án 661 (1998 – 2010) tỉnh Bến Tre, do Phân viện Điều tra Quy hoạch rừng Nam bộ phối hợp với Vụ Phát triển rừng thực hiện năm 2010.

  • Các báo cáo và bản đồ rà soát quy hoạch 3 loại rừng tỉnh Bến Tre do Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bến Tre thực hiện năm 2007.

  • Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre (tháng 3 năm 2011). Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Bến Tre đến năm 2020.

  • Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre báo cáo số 216/BC-UBND ngày 29/9/2011. Báo cáo Tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 9 tháng đầu năm và nhiệm vụ, giải pháp thực hiện trong những tháng cuối năm 2011.

  • UBND tỉnh Bến Tre, báo cáo số 312/BC ngày 22/12/2010. Tình hình thực hiện Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh về phát triển kinh tế xã hội năm 2010 và nhiệm vụ, giải pháp thực hiện năm 2011.

  • Và các quy hoạch ngành khác như quy hoạch sử dụng đất, giao thông, du lịch…

Phần II

ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ XÃ HỘI
I. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ TÀI NGUYÊN RỪNG

1. Khái quát đặc điểm tự nhiên

1.1. Vị trí địa lý

Bến Tre là một trong 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích tự nhiên là 236.062 ha, được hình thành bởi cù lao An Hoá, cù lao Bảo, cù lao Minh và do phù sa của 4 nhánh sông Cửu Long bồi tụ mà thành (gồm sông Tiền dài 83 km, sông Ba Lai 59 km, sông Hàm Luông 71 km, sông Cổ Chiên dài 82 km)1.

Điểm cực bắc của Bến Tre nằm trên vĩ độ 9048' bắc, điểm cực nam nằm trên vĩ độ 10020' bắc, điểm cực đông nằm trên kinh độ 106048' đông, điểm cực tây nằm trên kinh độ 105057' đông.

Phạm vi, ranh giới: Phía bắc giáp tỉnh Tiền Giang, có ranh giới chung là sông Tiền, phía tây và nam giáp tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh, có ranh giới chung là sông Cổ Chiên, phía đông giáp biển Đông với chiều dài bờ biển 65 km. Bốn con sông lớn: Tiền Giang, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên bao bọc và chia Bến Tre thành ba phần: cù lao An Hoá, cù lao Bảo và cù lao Minh.



1.2. Địa hình địa thế và tình hình bồi tụ và xói lở bờ biển

Tỉnh Bến Tre có dạng hình rẻ quạt gần như một tam giác cân có trục Tây Bắc – Đông Nam, cạnh đáy tiếp giáp với biển Đông có chiều dài khoảng 65 km, hai cạnh hai bên là sông Tiền và sông Cổ Chiên.

Tỉnh Bến Tre được hình thành từ những cồn đất ở vùng cửa sông Cửu Long, do phù sa của 4 nhánh sông: sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên bồi tụ nên. Địa hình nhìn chung là bằng phẳng, mức chênh về độ cao tuyệt đối giữa điểm thấp nhất và điểm cao nhất là 3,5 m với các dạng địa hình từ cao đến thấp như sau:

- Dạng địa hình hơi cao: độ cao tuyệt đối có nơi đạt trên 5 m, bình quân từ 3 đến 3,5 m. Phân bố từ Chợ Lách đến Châu Thành, nằm về phía bắc và tây bắc của thành phố Bến Tre. Đây là khu vực của cồn sông cổ bị lũ hằng năm đem phù sa phủ lấp lên. Một phần đất cao nữa nằm theo các bờ biển cổ, với những gờ bờ biển (gọi là giồng) với độ cao tuyệt đối từ 2 đến 5 m.

- Dạng địa hình thấp: có độ cao từ 1 đến 1,5 m thường bị ảnh hưởng của thuỷ triều. Dạng địa hình này bao gồm các lòng máng của những dòng sông cổ và mới, đã bị lấp toàn phần hoặc từng phần bởi trầm tích lũ hiện nay như Phước An, Phước Tú ở huyện Châu Thành, hoặc Phong Phú, Phú Hoà ở huyện Giồng Trôm; và những vũng mặn cổ, nay đã được lấp đầy từng phần như xóm Chợ Cũ của huyện Ba Tri; Bình Quới, Mỹ Hòa ở huyện Giồng Trôm.

- Dạng địa hình trũng rất thấp: độ cao tuyệt đối bình quân dưới 0,5 m. Dạng địa hình này luôn luôn ngập nước mực triều trung bình, gồm có đất đầm lầy mặn và bãi thuỷ triều phân bố ở ven biển.

Xen kẽ giữa những vùng đồng bằng, lầy mặn là những giồng cát cao hơn địa hình chung quanh từ 3 – 5 m. Hệ thống kênh rạch chằng chịt, ăn thông với nhau và nối liền với các sông lớn: Mỹ Tho, Ba Lai, Hàm Luông và Cổ Chiên, không chỉ thuận cho giao thông thuỷ mà còn là nguồn tài nguyên nước dồi dào quanh năm cho sản xuất nông lâm nghiệp.

Các nghiên cứu về địa chất địa mạo cũng đã xác định được những đặc trưng của các vùng đất thấp ven biển, đây là đối tượng cần được quan tâm trong sản xuất lâm nghiệp. Vùng đất thấp ven biển có các bãi thuỷ triều khá bằng phẳng, bao gồm các bãi cát thuỷ triều hoặc bãi bùn thuỷ triều. Bãi thuỷ triều mỗi năm tiến ra biển, nhờ có bồi tích liên tục. Các bãi thuỷ triều của cửa Đại hàng năm lấn ra biển khoảng 50 m. Bãi thuỷ triều sẽ lộ ra khi thuỷ triều xuống thấp ở cửa sông nước lợ là nơi thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của các loài hải sản như hàu, ngao, nghêu, sò huyết và các loài tôm biển. Tỉnh Bến Tre có nhiều bãi nghêu lớn có giá trị xuất khẩu: Thừa Đức, Thới Thuận (huyện Bình Đại), Bảo Thuận, An Thuỷ (huyện Ba Tri)...

Các thông tin quan sát trên ảnh vệ tinh viễn thám và quan sát ở thực địa cho thấy tình trạng bồi tụ ở một số vị trí như sau:


  1. Tại tiểu khu 6 xã Thới Thuận (huyện Bình Đại) với chiều dài khoảng 9 km (kéo dài từ tọa độ X: 692.160 - Y: 1.112.750 đến X: 684.880 - Y: 1.109.950), tốc độ bồi tụ khoảng 30 m/năm. Điểm bồi nhiều nhất khoảng 45 m/năm điểm bồi ít nhất khoảng 10 m/năm. Loại đất ở khu vực này chủ yếu là bùn loãng.

  2. Tại tiểu khu 9 xã Bảo Thuận, tiểu khu 10 và 11 xã An Thuỷ với chiều dài khoảng 8 km (kéo dài từ tọa độ X: 685.000 - Y: 1.107.938 đến X: 679.356 - Y: 1.102.677) tốc độ bồi tụ hàng năm khoảng 30 m/năm. Điểm bồi nhiều nhất khoảng 50 m/năm, điểm bồi ít nhất khoảng 10 m/năm. Loại đất ở khu vực này chủ yếu là đất cát và bùn loãng. Đất cát bồi tụ chủ yếu ở xã Bảo Thuận, bùn loãng phần lớn bồi tụ ở xã An Thuỷ.

  3. Tiểu khu 19 xã Thạnh Phong (huyện Thạnh Phú) với chiều dài khoảng 7 km kéo dài từ tọa độ X: 692.160 - Y: 1.112.750 đến X: 684.880 - Y: 1.109.950 tốc độ bồi tụ hàng năm khoảng 30 m/năm. Điểm bồi nhiều nhất khoảng 50 m/năm, điểm bồi ít nhất khoảng 10 m/năm. Tại tiểu khu 18 xã Thạnh Hải khu vực bồi tụ có chiều dài khoảng 3 km (kéo dài từ tọa độ X: 683.262 - Y: 1.089.897 đến X: 681.430 - Y: 1.086.939) với tốc độ bồi hàng năm khoảng 10 m/năm. Loại đất ở khu vực này chủ yếu là bùn loãng.

Trái lại, tình trạng xói lở bờ biển diễn ra nghiêm trọng ở nhiều địa phương trong vùng ven biển. Các đoạn bị xói lở nghiêm trọng thuộc các xã Thừa Đức (10 m/năm), Thới Thuận (25 m/năm), Bảo Thuận (30 m/năm), Tân Thuỷ (20 m/năm), An Thuỷ (20 m/năm), Thạnh Hải (20 m/năm).

Tình trạng xói lở bờ biển đã quan sát được tại thực địa kết hợp với so sánh trên ảnh vệ tinh ở một số vị trí điển hình như sau:



  1. Tại cửa sông Cống Bể thuộc tiểu khu 4 xã Thừa Đức (huyện Bình Đại) và tiểu khu 5 xã Thới Thuận với chiều dài khoảng 4 km (từ tọa độ VN-2000 X: 695.759 - Y: 1.121.330 đến X: 696.082 - Y: 1.171.872). Qua 10 điểm điều tra trong khu vực kết hợp với so sánh trên ảnh vệ tinh cho thấy trung bình mỗi năm tốc độ sạt lở khoảng 25 m/năm. Nơi bị lở nặng nhất có tốc độ sạt lở 40 m/năm. Nơi bị lở nhẹ nhất khoảng 15 m/năm. Loại đất ở khu vực này chủ yếu là đất bùn và đất sét.

  2. Tại tiểu khu 15 và 16 xã Thạnh Hải với chiều dài hơn 3 km (từ tọa độ VN-2000 X: 683.640 - Y: 1.093.518 đến X: 684.640 - Y: 1.090.681). Qua điểm điều tra kết hợp với so sánh trên ảnh vệ tinh cho thấy trung bình mỗi năm tốc độ sạt lở khoảng 25 m/năm. Điểm lở nặng nhất có tốc độ sạt lở 40 m/năm điểm lở nhẹ nhất khoảng 10 m/năm. Loại đất ở đây chủ yếu là đất bùn và đất sét thuộc khu vực rừng Đước.

Tình trạng xói lở trên địa bàn tỉnh 5 năm gần đây xảy ra với tốc độ mạnh và ngày càng nghiêm trọng, gây nhiều tổn thất cho vùng ven biển, đặc biệt là tình trạng mất đất, mất rừng và làm thiệt hại các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng. Việc nghiên cứu quá trình bồi tụ và xói lở bờ biển cho thấy việc trồng rừng lấn biển và hạn chế xói lở bờ biển là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, công tác trồng lại rừng ở những vùng này là rất khó khăn, cần các nghiên cứu một cách toàn diện và đầu tư xây dựng các công trình giảm sóng, phá sóng, gây bồi, bảo vệ cây con sau khi trồng.

1.3. Khí hậu, thời tiết và biến đổi khí hậu

1.3.1. Khí hậu

Tỉnh Bến Tre có nền nhiệt trung bình tương đối cao và ổn định, không có sự phân hoá mạnh theo không gian. Nhiệt độ bình quân hàng năm 26 – 270C và không có sự chênh lệch giữa tháng nóng nhất (tháng 5: 29,20C) và tháng mát nhất (tháng 11: 25,20C). Trong năm, không có tháng nào nhiệt độ trung bình 200C; nhiệt độ cao nhất tuyệt đối trong ngày khoảng 35,80C và thấp nhất 17,60C.

Tổng số giờ nắng cao, đạt khoảng 2.650 giờ/năm, trong đó mùa khô có lượng nắng trung bình 8 – 9 giờ/ngày, mùa mưa bình quân 5,5 – 7 giờ/ngày.

Lượng mưa phân hoá thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 – 11 và mùa nắng từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình thấp (1.210 – 1.500 mm/năm) và giảm dần theo hướng đông, trong đó mùa khô lượng mưa chỉ vào khoảng 1 – 6% tổng lượng mưa cả năm.

Vào mùa khô, lượng bốc hơi bình quân từ 4 – 6 mm/ngày, vào mùa mưa bốc hơi giảm còn 2,5 – 3,5 mm/ngày.

Độ ẩm tương đối nhìn chung khá cao, trung bình 76 – 86%, trong đó các huyện ven biển có độ ẩm tương đối trong khoảng 83 – 91%; độ ẩm phân hoá mạnh theo mùa với chênh lệch giữa tháng ẩm nhất và tháng khô nhất khoảng 15%.

Địa bàn của tỉnh chịu ảnh hưởng của 2 loại gió chính: gió mùa Tây – Tây Nam thường xuất hiện trong mùa mưa (tháng 5 – 9), tốc độ trung bình 1,0 – 1,2 m/s; gió Đông – Đông Bắc (gió chướng) thổi theo hướng từ biển vào từ tháng 10 – 4, có tác động làm dâng mực nước triều, đẩy mặn xâm nhập sâu vào nội đồng, tốc độ trung bình < 3 m/s.

Bến Tre nằm ngoài vùng chịu ảnh hưởng chính của bão, vào cuối mùa mưa (tháng 9 – 11) thường bị ảnh hưởng của các cơn bão cuối mùa, phần lớn các trận bão không gây thiệt hại đáng kể. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian từ 15 năm trở lại đây, tình hình khí hậu thuỷ văn diễn biến khá phức tạp tạo nên tình trạng ngập lũ, bão lốc, xâm nhập mặn sâu và rộng, điển hình là cơn bão số 5 năm 1997 đã gây thiệt hại nặng về của cải vật chất và con người.



1.3.2. Tác động của biến đổi khí hậu

Những năm vừa qua, theo nhiều dự báo của các tổ chức nghiên cứu khí tượng thuỷ văn, đồng bằng sông Cửu Long là một trong 5 vùng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu ở trên trái đất. Tỉnh Bến Tre cũng được xác định là một trong những tỉnh chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông Cửu Long. Theo Trung tâm quốc tế về Quản lý môi trường (ICEM), khi nước biển dâng cao 1 mét, thì khoảng 50,1% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh Bến Tre sẽ bị ngập mặn [2].

Năm 2010 những tác động của biến đổi khí hậu đã thể hiện rõ nét trên trên địa bàn Bến Tre, mùa nắng nóng đến sớm hơn bình thường gần 1 tháng. Nhiều đợt nắng nóng xảy ra liên tục, số giờ nắng đạt từ 9 ÷ 11 giờ/ngày làm cho tình hình khô hạn diễn ra gay gắt trên diện rộng. Hiện tượng thời tiết khắc nghiệt gây nhiều bất lợi cho sản xuất và đời sống của nhân dân, ngay trong mùa nắng đã xuất hiện áp thấp nhiệt đới.

Vào những ngày triều cường trong mùa khô, mực nước trên các triền sông và kênh rạch thấp hơn mức trung bình nhiều năm khoảng 10 cm. Nước mặn theo các cửa sông chính xâm nhập vào đất liền sớm hơn nửa tháng so với năm 2009. Gió chướng thổi mạnh, kết hợp với triều cường đẩy nước mặn lấn sâu vào đất liền, nhiều nơi nước mặn 4‰ xâm nhập vào đất liền cách cửa sông chính 60 km, và độ mặn 1‰ gần như phủ trùm trên toàn bộ địa bàn của tỉnh gây nhiều bất lợi cho sản xuất, làm đảo lộn lịch mùa vụ và sinh hoạt của người dân. Điều này đòi hỏi đầu tư cao hơn cho các công trình ngăn mặn, kiểm soát mặn.

Theo đánh giá của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong những tháng mùa nắng, Bến Tre chịu ảnh hưởng và thiệt hại trực tiếp từ áp thấp nhiệt đới và hạn, mặn. Áp thấp nhiệt đới gây mưa trái mùa, có 500 ha đất trồng cây ăn trái không ra hoa theo ý muốn, đọt non phát triển, rụng hoa, rụng trái và phát sinh dịch bệnh, 10.000 chậu hoa nở sớm, 972 ha đất muối chuẩn bị thu hoạch bị thất trắng và 480 ha đất muối đang vào vụ phải làm lại từ đầu… Tổng thiệt hại khoảng 19,2 tỷ đồng.

Còn hạn và mặn làm 1.575,2 ha lúa gieo sạ vụ Đông Xuân giảm năng suất, 3.500 ha đất không đủ nước sản xuất phải bỏ trống, 10.162,32 ha cây ăn trái giảm năng suất và 515,8 ha ảnh hưởng sinh trưởng và phát triển gây hiện tượng rụng trái, rụng hoa… Ước thiệt hại 198,1 tỷ đồng.



1.4. Thuỷ văn

Tỉnh Bến Tre chịu ảnh hưởng 2 chế độ thuỷ văn: triều biển và nguồn nước từ các nhánh sông của hệ thống sông Cửu Long. Với hệ thống sông rạch phát triển với 4 nhánh sông lớn của hệ thống sông Tiền là sông Mỹ Tho (sông Tiền), Ba Lai, Hàm Luông và Cổ Chiên, tổng chiều dài khoảng 300 km. Ngoài ra, còn có hệ thống kênh rạch nối các sông lớn với nhau thành mạng lưới sông rạch chằng chịt với tổng chiều dài hơn 2.367 km. Tổng lưu lượng nước các sông thuộc hệ thống sông Tiền lên đến 30 tỷ m3/năm trong đó mùa lũ chiếm đến 80%.

- Sông Mỹ Tho (sông Tiền): chạy suốt theo chiều dọc của tỉnh, chiều dài khoảng 83 km, lưu lượng mùa lũ khoảng 6.480 m3/s; mùa kiệt 1.598 m3/s.

- Sông Ba Lai: tổng chiều dài khoảng 59 km, lưu lượng mùa lũ khoảng 240 m3/s; mùa kiệt 59 m3/s.

- Sông Hàm Luông: tổng chiều dài khoảng 71 km, là con sông lớn nằm trọn vẹn trong tỉnh giới tỉnh Bến Tre, lòng sông rộng và sâu, lưu lượng lớn nhất so với các sông khác, vào mùa lũ lưu lượng khoảng 3.360 m3/s; mùa kiệt khoảng 828 m3/s.

- Sông Cổ Chiên: nằm về phía nam của tỉnh, có chiều dài khoảng 82 km, là ranh giới tự nhiên giữa Bến Tre với các tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, lưu lượng mùa lũ khoảng 6.000 m3/s; mùa kiệt khoảng 1.480 m3/s.

Hệ thống kênh rạch chính nối các sông lớn trên với nhau thành một mạng lưới chằng chịt với 46 kênh rạch chính có tổng chiều dài trên 300 km, trong đó quan trọng nhất là các kênh Giao Hoà (Châu Thành – Bình Đại), Mỏ Cày, Cái Cấm, Vàm Thơm (Mỏ Cày), Băng Cung, Eo Lói, Khém Thuyền (Thạnh Phú), Bến Tre, Sơn Đốc (Thành phố Bến Tre – Giồng Trôm), Vàm Hồ, Cây Da, Mương Đào (Ba Tri)…

1.5. Đặc điểm đất đai

Các kết quả nghiên cứu của Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp và Chương trình điều tra cơ bản tổng hợp đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn II (1984 – 1985), đã cho thấy đất đai của tỉnh Bến Tre có thể chia làm 5 nhóm đất chính. Đó là nhóm đất cát, nhóm đất phù sa, nhóm đất phèn, nhóm đất mặn chua và nhóm đất mặn. Trong lâm nghiệp, nhóm đất mặn dưới rừng ngập mặn là nhóm đất cần được quan tâm. Các nghiên cứu về địa chất địa mạo cũng đã xác định được những đặc trưng của các vùng đất thấp ven biển, đó cũng là đối tượng cần được quan tâm trong các hoạt động lâm nghiệp.



1.5.1.

Nhóm đất cát

Các cồn cát phân bố chủ yếu ở các huyện ven biển như Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú, có dạng hình vòng cung hay rẻ quạt, thường chạy song song với bờ biển. Nhóm đất này có đặc tính chung là tơi xốp, dễ thoát nước, giữ nước và giữ phân kém, nghèo chất dinh dưỡng. Đây là nhóm đất được sử dụng lâu đời nhất, là địa bàn cư trú chủ yếu của nhân dân trong tỉnh.



1.5.2. Nhóm đất phù sa

Là nhóm đất trồng lúa chủ yếu ở tỉnh Bến Tre, tập trung ở huyện Chợ Lách, Châu Thành và rải rác ở Mỏ Cày, Giồng Trôm, thành phố Bến Tre. Đây là loại đất thích hợp nhất cho cây lúa. Đất có thành phần chủ yếu là sét, có xác thực vật phân huỷ tương đối nhiều, lượng dinh dưỡng khá, ít chua. Nhóm đất này được chia thành 3 loại: đất phù sa được bồi, đất phù sa “glây”, đất phù sa loang lổ có "glây".

Hầu hết đất phù sa ở tỉnh Bến Tre hình thành từ trầm tích của các cồn sông cổ và các lòng sông cổ. Đây là những địa điểm quần cư đầu tiên trong lịch sử khai hoang đất đai Bến Tre. Đất phù sa ở Bến Tre có thành phần cơ giới chủ yếu là sét (50 – 60%), trong đó nhiều nhất là khoáng sét Kaolinite (60 – 65%) và Illite (15 – 35%). Đất thường hơi chua ở tầng mặt, càng về phía biển tầng đất sâu càng có phản ứng trung tính hơn. Độ phì vào loại thấp, nguồn đạm tốt, nhưng nguồn dự trữ lân không đủ. Ở một số khu vực, đất đang có biểu hiện suy thoái, cần được lưu ý bảo vệ và bồi dưỡng.

1.5.3. Nhóm đất phèn

Nhóm đất này với 2 dạng chủ yếu: dạng có hữu cơ xen kẽ trong các tầng đất thường xuất hiện ở các khu vực thấp, trũng ven sông lớn hay kênh rạch chằng chịt; dạng có ít hữu cơ thường gặp ở các khu vực hơi cao nơi có nhiều giồng cát. Hầu hết đất phèn ở đây đều thuộc loại phèn hoạt động, tầng phèn sâu từ 50 cm đến trên 1 m. Các hoạt động canh tác nông nghiệp, đào mương, lên liếp, xẻ kênh để lập vườn, trồng lúa, đã làm cho các khu vực đất phèn ở đây trở nên thoáng khí, khô ráo thích hợp cho cây trồng nông nghiệp.



1.5.4. Nhóm đất mặn chua

Đây là nhóm đất có diện tích khá lớn, phân bố tập trung ở 4 huyện bị nhiễm mặn là Thạnh Phú, Bình Đại, Ba Tri và Mỏ Cày. Đất mặn chua ở Bến Tre có diện tích khoảng 36.253 ha, ít khi tập trung thành những vùng rộng lớn, thường là những khu vực nhỏ khoảng vài trăm hécta, độ chua thấp. Nhóm đất này thường có 2 dạng, dạng ít hữu cơ và dạng có nhiều hữu cơ trong các tầng đất sâu. Do ảnh hưởng của triều, đất thường vừa bị chua vừa bị mặn, gây hạn chế đến khả năng sử dụng cho nông nghiệp.



1.5.5. Nhóm đất mặn

Phân bố tập trung ở các huyện ven biển của tỉnh. Đất bị mặn chủ yếu do tác động của nước triều và nước ngầm mặn, thường xảy ra vào mùa khô, do đó hầu hết diện tích đất mặn chỉ canh tác được một vụ lúa vào mùa mưa. Nhóm đất mặn chiếm diện tích lớn nhất so với các nhóm đất khác ở Bến Tre, hình thành chủ yếu từ trầm tích hỗn hợp sông – biển trong quá trình lấn biển, do đó mang dấu ấn sâu sắc của tác động biển trong thành phần và tính chất của mỗi loại đất.

Các loại đất mặn ít và trung bình thường xuyên phân bố ở địa hình trung bình từ 0,8 đến 1,2 m cách xa biển và sông lớn. Loại đất này được canh tác khá lâu đời, mùa khô kiệt bị bỏ trống, chế độ bốc hơi rất mạnh nên đất đã bị kết vón ở độ sâu từ 80 – 100 cm (Ba Tri, Thạnh Phú...).

Loại đất mặn nhiều, mặn từng thời kỳ thường phân bố ở địa hình thấp, khi triều cường nước tràn lên khiến tầng đất mặt có độ mặn cao rất khó rửa nhanh vào đầu mùa mưa. Ở tầng đất sâu 50 – 80 cm thường có lớp cát xám xanh của bãi thuỷ triều, có chứa mica và nhiều mảnh vỡ vôi gốc biển.

Loại đất mặn nhiều thường xuyên dưới rừng ngập mặn, phân bố thành dải dọc ven biển Bến Tre, dưới các thảm rừng sú, vẹt, mắm mà ngày nay đã bị tàn phá nhiều, bị ngập thường xuyên do triều, đất thường có độ mặn rất cao, lầy thụt, không thuận lợi cho các loại cây trồng nông nghiệp, phân bố hầu hết ở các huyện ven biển Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú.

2. Hệ động vật và thực vật rừng


Hệ thực vật và động vật rừng của tỉnh Bến Tre có mối liên hệ chặt chẽ với các yếu tố môi trường, đặc biệt là điều kiện đất đai, chế độ thuỷ văn và chất lượng nước.

- Ở những vùng cách xa biển, đất phù sa chịu nước ngọt từ sông Cửu Long, các loài thực vật thân gỗ điển hình là cà na, chiếc, gừa, săng máu, bần chua, bình bát, gáo, dứa gai... xen lẫn ở tầng dưới có các loài chuối nước, dây choại, dây cương, bòng bong, mây nước, mua, tràm bột, dành dành, lau sậy, lác hến, lúa ma, tâm bức, rau dừa, rau mác, sen, súng...

- Những vùng giao thoa giữa nước ngọt và nước mặn tạo nên vùng nước lợ là nơi phân bố của loài dừa nước/dừa lá (Nipa frutican). Ở những vùng này dừa nước chiếm ưu thế xen lẫn bần chua. Một phần diện tích này đã được đắp đê rửa mặn, biến thành những ruộng lúa hoặc được người dân đào mương, lên liếp để lập các vườn dừa.

- Vùng ven biển tỉnh Bến Tre được bồi đắp phù sa từ sông Cửu Long, bờ biển nông, ít chịu tác động của sóng gió lớn. Do hoạt động tương tác của nước sông Cửu Long và sóng biển, tốc độ dòng chảy ở vùng gần cửa sông chậm, phù sa lắng đọng nhanh, tạo ra những cồn cửa sông. Môi trường nước có sự tương tác giữa nước sông và nước biển tạo môi trường nước lợ. Trong mùa khô, đất và nước chịu tác động mạnh của thuỷ triều, nồng độ muối cao, nước biển từ phía cửa sông lan truyền sâu vào nội địa, nồng độ muối cao nhất vào tháng 4. Các quần xã thực vật gồm cả các cây nước mặn và cây nước lợ, bao gồm các quần xã thực vật điển hình sau:



  • Quần xã tiên phong Bần chua (Sonneratia caseolaris) phân bố trên các bãi bồi ở cửa sông.

  • Quần xã Mắm trắng (Avicennia alba), Đưng (Rhizophora mucronata) hình thành sau ưu hợp cây tiên phong, ngoài ra có loài Sú (Aegiceras corniculatum) mọc rải rác.

  • Quần xã Mắm lưỡi đồng (Avicennia officinalis), Bần ổi (Sonneratia ovata) phân bố dọc theo các kênh rạch, nơi có độ mặn cao hơn vùng cửa sông, các loài khác có Dà quánh (Ceriops decandra), Đưng (Rhizophora mucronata), Chà Là (Phoenix paludosa)...

  • Quần xã Dừa nước (Nipa frutican), Mái dầm (Cryptocoryne ciliata) mọc theo các bờ sông lớn, trong vùng phân bố tự nhiên của các ưu hợp này còn có các loài Bần chua (Sonneratia caseolaris), Ô rô gai (Acanthus ilicifolius), Cóc kèn (Derris trifoliata)...

  • Các quần thụ rừng trồng ở vùng cửa sông chủ yếu là Bần chua (Sonneratia caseolaris) ở các bãi bồi ven cửa sông giáp ranh các tỉnh Tiền Giang, Trà Vinh và Vĩnh Long.

  • Rừng Đước (Rhizophora apiculata) trồng ở vùng này sinh trưởng chậm hơn so với các vùng khác ở ven biển đồng bằng sông Cửu Long.

Hệ thực vật tự nhiên của tỉnh Bến Tre có vai trò đặc biệt trong việc che phủ và bảo vệ đất, chống rửa trôi, lở bờ sông, bờ biển, điều hoà khí hậu, cung cấp dinh dưỡng cho hệ động vật thuỷ sinh và hải sản ở ven bờ, tạo nơi trú ngụ và sinh sống của nhiều loài động vật hoang dã... còn là nguồn cung cấp tài nguyên rất quý phục vụ đời sống nhân dân và phát triển kinh tế của tỉnh.

Công dụng và lợi ích của rừng và thảm thực vật nói chung đối với cuộc sống con người rất lớn và đa dạng. Việc tích cực bảo vệ các hệ sinh thái rừng ở vùng ven biển và cửa sông là rất cần thiết. Nhận thức được điều này tỉnh Bến Tre đã xây dựng Khu bảo tồn thiên nhiên Thạnh Phú và hệ thống rừng phòng hộ khép kính vùng ven biển và cửa của các sông. Nhiều năm qua, hệ thống rừng phòng hộ và khu rừng đặc dụng này đang được quản lý bảo vệ rất nghiêm ngặt.


3. Hiện trạng sử dụng đất đai trên địa bàn của tỉnh Bến Tre


Theo số liệu của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre, tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh Bến Tre năm 2010 là 236.062 ha, gồm các dạng sử dụng đất như sau:

3.1. Đất nông nghiệp


- Diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 197.672 ha (chiếm 77% diện tích tự nhiên), trong đó 80% diện tích là đất canh tác nông nghiệp; 17% là đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản. Diện tích cây hàng năm chiếm tỷ trọng thấp với 48.104 ha (chiếm 20% diện tích tự nhiên; 27% diện tích đất nông nghiệp); Đất trồng cây lâu năm chiếm tỷ trọng cao với 95.082 ha (40% diện tích tự nhiên; 53% diện tích đất nông nghiệp). Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản khoảng 30.289 ha (13% diện tích tự nhiên; 17% diện tích đất nông nghiệp), trong đó nuôi trồng thuỷ sản khu vực ven biển chiếm ưu thế (28.629 ha).

- Đất lâm nghiệp có rừng năm 2010 là 3.570,5 ha, chủ yếu là rừng ngập mặn (chiếm 1,5% diện tích tự nhiên; 1,8% diện tích đất nông nghiệp), trong đó có 1.916 ha rừng đặc dụng; 1.376,8 ha rừng phòng hộ và 277,6 ha rừng rừng sản xuất.

- Đất làm muối có diện tích 1.757 ha tại khu vực ven biển.

Bình quân đất nông nghiệp/đầu người là 1.580 m2, trong đó có 423 m2 đất cây hàng năm; 836 m2 đất cây lâu năm; 266 m2 đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản, thuộc vào loại thấp so với bình quân chung của đồng bằng sông Cửu Long.



3.2. Đất phi nông nghiệp

Diện tích đất phi nông nghiệp khoảng 55.982 ha (chiếm 24% diện tích tự nhiên), trong đó 14% diện tích là đất ở; 18% là đất chuyên dùng và 66% là sông rạch.

- Đất ở chiếm gần 7.712 ha (3% diện tích tự nhiên và 14% diện tích phi nông nghiệp). Bình quân đất ở/người là 57 m2, trong đó bình quân đất ở đô thị/người chỉ có 22 m2; bình quân đất ở nông thôn/người 64 m2.

- Đất chuyên dùng chiếm 10.216 ha (4% diện tích tự nhiên và 18% diện tích phi nông nghiệp) trong đó 203 ha là đất trụ sở cơ quan; 1.145 ha đất quốc phòng an ninh; 432 ha đất sản xuất kinh doanh; 8.436 ha đất công trình công cộng. Gồm: đất giao thông chiếm 3.108 ha, bình quân/người 23 m2; đất thuỷ lợi và mặt nước chuyên dùng chiếm 4.698 ha, tỷ lệ diện tích đất thuỷ lợi/đất nông nghiệp là 2,6%, thuộc vào loại trung bình. Các loại đất phi nông nghiệp khác: 308 ha là đất tôn giáo; 763 ha đất nghĩa trang nghĩa địa; 39.981 ha sông rạch và mặt nước chuyên dùng.



3.3. Đất chưa sử dụng

Đất chưa sử dụng chiếm 408 ha, chủ yếu là khu vực ven biển. Ngoài ra, trên địa bàn còn có 2.344 ha đất mặt nước ven biển.


3.4. Nhận xét chung về việc sử dụng quỹ đất


Nhìn chung, trong giai đoạn 2006 – 2010, đất nông nghiệp có khuynh hướng giảm (1.580 ha); trong nội bộ, cây hàng năm giảm 3.300 ha; đất cây lâu năm tăng 9.690 ha, đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản giảm 6.000 ha. Trong khi đó đất chuyên dùng tăng 2.049 ha.

Hầu hết quỹ đất (trên 99%) đều được đưa vào khai thác sử dụng, đất chưa sử dụng còn rất ít và có khuynh hướng giảm nhanh. Nhóm đất nông nghiệp còn khá lớn, chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu diện tích đất tự nhiên (77%), tuy nhiên do mật độ dân số nông thôn cao nên các chỉ số đất nông nghiệp/đầu người chỉ vào mức độ thấp. Trong cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp, cây lâu năm chiếm ưu thế (53% đất nông nghiệp) với đặc trưng kinh tế vườn (dừa và trái cây); cây hàng năm chiếm tỷ trọng thấp (27% đất nông nghiệp) với cây trồng chính là lúa và mía, đất nuôi trồng thuỷ sản vùng mặn lợ chiếm vị trí khá quan trọng (17% đất nông nghiệp).

Do đô thị và kinh tế công thương nghiệp chậm phát triển, các loại đất phi nông nghiệp có tỷ trọng trung bình trong cơ cấu sử dụng đất, trong đó đất ở đô thị và đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp chiếm tỷ trọng rất khiêm tốn; các chỉ số đất dân dụng/đầu người thuộc vào loại trung bình thấp.

Những vùng đất thấp ven biển là những vùng đất tiếp giáp với đai rừng phòng hộ ven biển hiện chưa được thống kê đầy đủ. Đặc biệt, những vùng bồi tụ có nhiều tiềm năng cho quá trình tái sinh, phát triển rừng ngập mặn thì việc quy hoạch và các chính sách quản lý sử dụng loại đất này còn chưa được thực hiện chặt chẽ. Nếu các chính sách quản lý sử dụng đất bãi bồi ven biển được thực hiện tốt thì tiềm năng cho việc trồng rừng sẽ được mở rộng, tạo điều kiện thực hiện các phương hướng phát triển rừng của tỉnh.




tải về 2.07 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   16




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương