4.2 Đánh giá về khía cạnh kinh tế
Trong phạm vi đề tài, đề tài chỉ tiến hành điều tra, phân tích sinh kế của người dân 2 thôn Xuân Tự 1 và 2, đây là 2 thôn trực tiếp tham gia quản lý KBTB Rạn Trào. Do hai thôn này trước đây là Xuân Tự, vào tháng 3 năm 2007, được chia đôi ra; để tiện việc tính toán đề tài sẽ gộp số liệu của cả hai thôn Xuân Tự 1 và 2.
4.2.1. Sinh kế của người dân
Trong 80 hộ dân đã được phỏng vấn: Số thành viên trong mỗi hộ từ 2 đến 10 người, trung bình 4 người/hộ. Số lao động trung bình của mỗi hộ là 3.
Qua bảng 4.1, ta thấy hộ tham gia nuôi trồng thủy sản chiếm tỷ lệ lớn, trong đó số hộ nuôi tôm hùm là rất đáng kể 41,25% , còn hộ nuôi tôm sú là 23,75% Bên cạnh đó 22,5% hộ tham gia hoạt động khai thác thủy sản. Ngoài ra còn có các hộ, đi làm thuê, làm đầu nậu, buôn bán nhỏ, các hộ có thành phần lao động chính là cán bộ công nhân viên chức 12,5% . Điều này cho thấy nghề nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh tại thôn Xuân Tự, đặc biệt là nghề nuôi tôm hùm lồng. Và khoảng 87,5% các hộ có nghề nghiệp phụ thuộc vào tài nguyên biển, môi trường biển và ven biển; và như vậy với một biến động về tài nguyên, môi trường biển thì các hộ này sẽ bị ảnh hưởng đến sinh kế đầu tiên.
Bảng 4. 1. Cơ Cấu Nghề Nghiệp của Các Hộ Dân
Chỉ tiêu
|
Số hộ
|
Tỷ lệ %
|
Nuôi tôm hùm
|
33
|
41,25
|
Nuôi tôm sú
|
19
|
23,75
|
Đánh bắt thủy sản
|
18
|
22,5
|
Khác (làm thuê, đầu nậu, công nhân viên chức…)
|
10
|
12,5
|
Tổng
|
80
|
100
|
Nguồn: Điều tra và tính toán tổng hợp
Xét về cơ cấu thu nhập theo ngành nghề thì nghề nuôi trồng thủy sản – Nghề nuôi tôm sú và nuôi tôm hùm lồng – đem lại hiệu quả cao và chiếm tỷ trọng chủ yếu trong cơ cấu thu nhập của thôn, nuôi tôm sú chiếm 57,78% và tôm hùm là 16,95%. Chính sự phát triển của nghề nuôi tôm hùm và tôm sú đã đưa thôn Xuân Tự 1 và 2 – là những thôn nghèo – trở thành thôn giàu có nhất xã. Bên cạnh đó các hộ làm những ngành nghề khác như làm thuê, buôn bán nhỏ, công chức chiếm tỷ lệ khá lớn 23,80% trong cơ cấu thu nhập, nghề khai thác thủy sản chỉ chiếm 1,47%.
Bảng 4. 2. Thu Nhập Trung Bình/Hộ/Năm ở Thôn Xuân Tự
Chỉ tiêu
|
Số lượng (đ)
|
Tỷ lệ %
|
Nuôi tôm hùm
|
237.600.000
|
16,95
|
Nuôi tôm sú
|
810.000.000
|
57,78
|
Đánh bắt thủy sản
|
20.656.620
|
1,47
|
Khác (làm thuê, buôn bán nhỏ, viên chức…)
|
333.600.000
|
23,80
|
Tổng
|
1.401.856.620
|
100
|
Thu nhập TB/hộ/năm
|
17.523.207,75
|
|
Thu nhập TB/người/năm
|
4.380.801,938
|
|
Nguồn: Điều tra và tính toán tổng hợp
Trong 80 hộ được phỏng vấn, thì theo quan sát có khoảng gần 80% hộ đã có nhà ngói và nhà mái bằng. Đây chủ yếu là các hộ nuôi trồng thủy sản, đánh bắt thủy sản, buôn bán, khai thác thủy sản, công chức.
Bảng 4. 3. Đời Sống của Người Dân So Với Trước Khi Có Khu Bảo Tồn Biển
Chỉ tiêu
|
Số hộ
|
Tỷ lệ %
|
Có thay đổi
|
57
|
71,25
|
Không thay đổi
|
23
|
28,75
|
Tổng
|
80
|
100
|
Nguồn: Điều tra và tính toán tổng hợp
Đa số hộ dân (71,25%) cho rằng so với trước đây thì thu nhập của họ có thay đổi so với khoảng thời gian trước đây. Đa số các hộ trả lời “có” là các hộ nuôi trồng thủy sản, còn phần lớn các hộ trả lời “không” là các hộ khai thác thủy sản. Đời sống, thu nhập của người dân khá lên, đó là lời khẳng định của các cán bộ thôn, xã. Và các cán bộ này cũng cho rằng việc xuất hiện của Khu bảo tồn biển (KBTB) Rạn Trào và các dự án, chính sách kéo theo nó là nhân tố chính tác động đến đời sống, thu nhập của người dân nơi đây.
Đối với các hộ gia đình, thì 76,25% hộ dân cho rằng KBTB tác động tích cực đến sinh kế của mình; trong khi đó số hộ nghĩ rằng KBTB không tác động, hay tác động tiêu cực đến sinh kế của họ lần lượt là 15%, 8,75%.
Bảng 4. 4. Ảnh Hưởng của Khu Bảo Tồn Biển đến Sinh Kế Người Dân
Chỉ tiêu
|
Số hộ
|
Tỷ lệ %
|
Ảnh hưởng tích cực
|
61
|
76,25
|
Không ảnh hưởng
|
12
|
15
|
Ảnh hưởng tiêu cực
|
7
|
8,75
|
Tổng
|
80
|
100
|
Nguồn: Điều tra và tính toán tổng hợp
Ảnh hưởng tích cực đến sinh kế: dự án KBTB làm các hộ dân thay đổi, phát triển sinh kế bền vững hơn. Điều đó dẫn đến thu nhập của họ tăng lên, cuộc sống khá giả hơn. Ở đây có 61 số hộ lựa chọn đáp án này. KBTB xuất hiện đã đem lại những hệ quả sau:
-
Các cuộc hội thảo về chuyển đổi sinh kế, phát triển sinh kế được tổ chức với sự có mặt của cộng đồng. Trong đó tiêu biểu các lớp tập huấn, hướng dẫn nuôi trồng thủy sản thân thiện với môi trường: thực hiện các mô hình nuôi trồng ít gây ảnh hưởng môi trường nhưng đạt được các chỉ tiêu kinh tế; các buổi hướng dẫn kỹ thuật nuôi trồng thủy sản, khai thác thủy sản; những buổi đưa cộng đồng đi thực tế ở những vùng có nghề nuôi trồng thủy sản đạt hiệu quả… Tất cả những điều đã giúp các hộ chủ động hơn trong việc phát triển bền vững nghề nuôi trồng thủy sản của mình: chủ động về kỹ thuật nuôi, nắm bắt rõ về các mô hình nuôi hiệu quả.
-
Khu bảo tồn biển xuất hiện; các cơ chế đơn giản, thuận tiện cho cộng đồng được ban hành. Vì vậy việc vay vốn ngân hàng để đầu tư, phát triển cho sinh kế của cộng đồng rất dễ dàng.
-
Các nguồn tài nguyên biển như các loại cá, tôm hùm, cá ngựa, hải sâm, các loại ốc… được tái tạo nhanh, số lượng đàn lớn; điều này tạo thuận lợi cho việc khai thác thủy sản. Môi trường Khu bảo tồn được bào đảm, môi trường nước vùng nuôi trồng thủy sản được cải thiện, điều này đã giảm đáng kể rủi ro trong việc nuôi trồng thủy sản, đảm bảo cuộc sống của các hộ nuôi trồng thủy sản.
Khu bảo tồn biển Rạn Trào không ảnh hưởng đến sinh kế của người dân: phần lớn hộ trả lời là các hộ có các thành viên lao động chủ yếu là công nhân viên chức, bán buôn nhỏ, đi làm thuê, sữa chữa xe máy, thợ hồ, đi làm công nhân xa … Điều này cũng dễ hiểu vì tính chất nghề nghiệp của họ không liên quan hay phụ thuộc đến tài nguyên biển. Và số hộ như vậy chiếm 15%.
Ảnh hưởng của KBTB là tiêu cực đến sinh kế người dân: Tất cả các hộ lựa chọn phương án này là các hộ đã hay đang làm nghề khai thác thủy sản, tỷ lệ hộ chọn phương án này là 8,75%. Theo họ việc xuất hiện KBTB đã đem đến cho họ những bất lợi sau:
-
Quy chế KBTB Rạn Trào ra đời, ban hành những quy định về đánh bắt như: cấm các phương pháp khai thác hủy diệt, khai thác quá mức, làm tổn hại đến nơi cư trú của các loài thủy sản (như rạn san hô, thảm cỏ …); cấm các nghề như xiếc điện, lưới điện, thuốc nổ, hóa chất, giã cào; cấm khai thác san hô; bên cạnh đó là các quy định về kích cỡ, chủng loại đánh bắt thủy sản. Chính những quy định này đã ảnh hưởng đến sinh kế của các hộ khai thác thủy sản. Các hộ này phải thay đổi thói quen khai thác hay chuyển đổi nghề, các việc này ảnh hưởng đến thu nhập của họ. Thay đổi thói quen khai thác: các hộ phải khai thác theo đúng quy định, vì vậy năng lực khai thác thủy sản giảm xuống. Chuyển đổi nghề: một số hộ chuyển sang nuôi trồng thủy sản nhưng do ít kinh nghiệm, hay nuôi trồng vào đúng thời điểm bệnh dịch tôm hoành hành đã khiến các hộ này rơi vào tình trạng lỗ vốn, và giờ họ đã trở lại với nghề khai thác.
-
Ngoài ra những quy định về vùng đánh bắt – tuyệt đối không được phép khai thác trong vùng lõi – cũng đã ảnh hưởng đến sinh kế người dân. Các hộ cho rằng với quy đinh này họ phải thay đổi ngư trường, như vậy các chi phí khai thác như xăng, dầu, thức ăn sẽ phải thay đổi, và nó có chiều hướng tăng. Chi phí tăng trong khi sản lượng khai thác là không thay đổi nhiều khiến các hộ này gặp khó khăn về kinh tế.
4.2.2. Nghề nuôi tôm hùm lồng
Nghề nuôi tôm hùm lồng ở thôn Xuân Tự 1 và 2 phát triển nhanh, từ 2.000 lồng (năm 2002) lên đến 3.300 lồng ( năm 2006) với mật độ 100 tôm hùm con trong mỗi lồng 4 x 6m. Sản lượng tăng từ 60 lên 225 tấn. Trong 80 hộ được phỏng vấn có 33 hộ nuôi tôm hùm lồng. Mỗi hộ có số lồng nuôi dao động từ 1 đến 12 lồng, trung bình thì 4 lồng 1 hộ.
Vụ nuôi tôm hùm lồng bắt đầu từ tháng 11 âm lịch kéo dài từ 20 – 24 tháng thì có thể xuất tôm thịt thương phẩm. Tùy thuộc vào nguồn vốn, người nuôi tôm sẽ nuôi khoảng 20 – 24 tháng rồi bán hay chỉ sau 6 tháng sẽ bán lại cho người khác nuôi tiếp. Tôm hùm giống có thể được mua trên thị trường.Ngoài ra địa phương có nghề lặn bắt để khai thác tôm hùm giống nhưng chỉ đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu; 80% còn lại phải mua từ nguồn ở Quy Nhơn, Phú Yên, Ninh Thuận, Bình Thuận để đáp ứng nhu cầu về con giống. Thức ăn cho tôm hùm, do tôm hùm là loài khỏe vả ăn tạp cho nên thức ăn của tôm rất dễ kiếm, hiện tại các hộ đang sử dụng các nguồn như các loài tôm, cua, ốc, cá nhỏ … để làm thức ăn.
Bảng 4. 5. Nghề Nuôi Tôm Hùm Lồng Trong Thôn
|
ĐVT
|
2002
|
2003
|
2004
|
2005
|
2006
|
Số lồng
|
lồng
|
2.000
|
2.330
|
3.070
|
3.000
|
3.300
|
Sản lượng
|
tấn
|
100
|
120
|
175
|
356
|
350
|
Nguồn: Niên giám thống kê huyện Vạn Ninh
Bảng 4. 6. Hiệu Quả Kinh Tế của việc Nuôi Tôm Hùm Lồng
Mục
|
Số lượng
|
ĐVT
|
Đơn giá (1.000đ)
|
Thành tiền (1.000đ)
|
Thu nhập
|
|
|
|
|
- Sản lượng
|
108
|
kg
|
550
|
59.400
|
Tổng
|
59.400
|
Chi phí
|
|
|
|
|
+ Chi phí cố định
|
|
|
|
|
- Lồng, lưới
|
1
|
Chiếc
|
3.000
|
3.000
|
- Công người chăm sóc
|
1 người x 20 tháng
|
1000đ/chiếc/người
|
600
|
12.000
|
+ Biến phí
|
|
|
|
|
- Con giống
|
100
|
1000đ/con
|
100
|
10.000
|
- Thức ăn
|
3kg/ngày*20tháng
*30ngày
|
1000đ/kg
|
7
|
12.600
|
- Vệ sinh lồng bè
|
4 công
|
1000đ/con
|
60
|
240
|
- Công thu hoạch
|
2 công
|
1000đ/con
|
60
|
120
|
- Chi phí khác
|
|
|
|
800
|
Tổng
|
38.760
|
Nguồn: Điều tra và tính toán tổng hợp
-
Tổng đầu tư là: 38.760.000 đồng
-
Tổng thu nhập: 59.400.000 đồng
-
Lợi nhuận: 20.640.000 đồng
-
Lãi trên đầu tư: 53,25%.
-
Thời gian hoàn vốn: 1,88 vụ
Với trung bình 4 lồng/hộ thì:
-
Thu nhập trung bình 1 hộ là 59.400.000*4 = 237.600.000 đồng
Bảng 4.6 là những tính toán đơn giản cho 1 lồng nuôi tôm thịt trong 20 tháng. Mật độ nuôi 1 lồng là 100 con. Sản lượng trung bình 1 lồng là 108 kg/vụ. Với giá tôm hùm thương phẩm (trung bình) hiện tại vào là khoảng 550.000 đ/kg. Các số liệu về các chi phí dựa vào phỏng vấn các hộ gia đình và các số liệu thực tế trên thị trường.
Qua bảng 4.6, ta thấy được hiệu quả nuôi tôm hùm lồng là cao, nó cho một khoản lợi nhuận tương đối lớn 23.280.000 đồng. Và chỉ cần 1,88 vụ là hoàn vốn.
4.2.3. Nghề nuôi tôm sú
Tổng diện tích nuôi tôm sú của toàn thôn vào khoảng 30ha, và diện tích nuôi tôm sú gần như không đổi qua thời gian vì không có thêm hộ tham gia do chi phí đầu tư cao, rủi ro lớn và diện tích chỉ có hạn. Sản lượng tôm trong toàn thôn tăng từ năm 2002 sang 2003, song giảm dần qua các năm 2004 và 2005, sỡ dĩ có việc giảm này là do dịch bệnh – chủ yếu là bệnh đốm trắng. Trong 80 hộ được phỏng vấn thì có 19 hộ nuôi tôm sú. Diện tích nuôi tôm sú dao động từ 0,5 ha đến 2 ha, trung bình 1 ha cho mỗi hộ gia đình.
Bảng 4. 7. Nghề Nuôi Tôm Sú trong Thôn
|
ĐVT
|
2002
|
2003
|
2004
|
2005
|
2006
|
Diện tích nuôi
|
ha
|
30
|
30
|
30
|
30
|
30
|
Sản lượng
|
tấn
|
60
|
67
|
52
|
63
|
81
|
Nguồn: Niên giám thống kê huyện Vạn Ninh
Tôm sú được nuôi thành 2 vụ/năm: vụ đầu tiên bắt đầu từ tháng 7 đến tháng 11 âm lịch, vụ sau bắt đầu từ tháng 1 đến tháng 5 âm lịch. Do kỹ thuật ương và nuôi con giống khá phát triển nên tôm sú giống với chất lượng tốt có thể mua dễ dàng trên thị trường địa phương cũng như các tỉnh lân cận. Thức ăn cho tôm sú rất phong phú với nguồn cung cấp và phân phối của các công ty Việt Nam, cũng như công ty liên doanh Việt Nam - Đài Loan.
Bảng 4. 8. Hiệu Quả Kinh Tế của việc Nuôi Tôm Sú
Mục
|
Số lượng
|
ĐVT
|
Đơn giá (1.000đ)
|
Thành tiền (1.000đ)
|
Thu nhập
|
|
|
|
|
- Sản lượng
|
2,7
|
tấn/ha/vụ
|
150
|
405.000
|
Tổng
|
405.000
|
Chi phí
|
|
|
|
|
+ Chi phí cố định
|
|
|
|
|
- Mua đìa
|
1
|
ha
|
|
100.000
|
- Lương người trông đìa
|
2 người x 5 tháng
|
1.000đ/tháng/người
|
600
|
6.000
|
- Quạt/ máy sục khí
|
2
|
chiếc
|
5000
|
10.000
|
- Đèn điện
|
10
|
chiếc
|
30
|
300
|
- Công cải tạo đìa
|
|
|
|
8.000
|
+ Biến phí
|
|
|
|
|
- Con giống
|
100.000
|
con
|
0.09
|
9.000
|
- Thức ăn
|
1,4 x 2,7 x 1.000
|
1.000đ/kg
|
16
|
60.480
|
- Thuốc bệnh
|
5
|
kg
|
800
|
4.000
|
- Thuốc bổ
|
8
|
kg
|
600
|
4.800
|
- Công thu hoạch
|
6 công
|
1.000đ/công
|
60
|
360
|
- Chi phí khác
|
|
|
|
2.000
|
Tổng
|
204.940.000
|
Nguồn: Điều tra và tính toán tổng hợp
Bảng 4.8 là những tính toán sơ bộ cho 1 ha nuôi tôm sú cho 1 vụ trong 5 tháng. Mật độ thả giống là 10 con/m2. Hệ số thức ăn theo hướng dẫn kỹ thuật là 1,4. Sản lượng 1 vụ là 2,7tấn/ha/vụ. Giá tôm sú thương phẩm (trung bình) trên thị trường hiện nay là 150.000 đ/kg. Các số liệu về các chi phí dựa vào phỏng vấn các hộ gia đình và các số liệu thực tế trên thị trường.
-
Tổng đầu tư là: 204.940.000 đồng
-
Tổng thu nhập: 405.000.000 đồng
-
Lợi nhuận: 200.060.000 đồng
-
Lãi trên đầu tư: 97,6%
-
Thời gian hoàn vốn: 1,02 năm
-
Với diện tích trung bình một hộ là 1ha, một năm nuôi 2 vụ thì:
-
Tồng thu nhập/hộ/năm = 405.000.000*2*1= 810.000.000 đồng
Cũng như nghề nuôi tôm hùm lồng, nghề nuôi tôm sú cũng đem lại một hiệu quả kinh tế cao, với 1 khoản lợi nhuận là 200.060.000 đồng Và chỉ sau khoảng 1,02 năm thì hoàn vốn. Tuy nhiên, khác với nuôi tôm hùm lồng thì chi phí đầu tư của nuôi tôm sú là rất lớn, chính điều này là một trong những nguyên nhân đem lại rủi ro cao cho nghề này.
Nguồn vốn cho đầu tư nuôi trồng thủy sản: nuôi tôm hùm và nuôi tôm lồng
Theo bảng 4.9 thì 48,1% số hộ là nguồn vốn có sẵn, các hộ này do vốn mạnh nên phần lớn đầu tư nuôi tôm sú hay nuôi tôm hùm lồng với số lượng lồng bè lớn; trong khi đó tỷ lệ số hộ đi vay mượn người quen và tỷ lệ số hộ vay Ngân hàng chính sách lần lượt là 19,2%, 32,7%.
Bảng 4. 9. Nguồn Vốn Vay Nuôi Trồng Thủy Sản
Chỉ tiêu
|
Số hộ
|
Tỷ lệ %
|
Tự có
|
25
|
48,1
|
Vay mượn người quen
|
10
|
19,2
|
Vay Ngân hàng chính sách
|
17
|
32,7
|
Tổng
|
52
|
100
|
Nguồn: Điều tra và tính toán tổng hợp
4.2.4. Khai thác thủy sản
Số liệu năm 2006 cho thấy, toàn thôn Xuân Tự có 428 hộ làm nghề khai thác thủy sản tuy nhiên chỉ có 60 hộ chuyên làm nghề khai thác, các hộ khác chỉ coi nghề khai thác là nghề phụ. Các nghề chủ yếu là lặn, lưới ghẹ, soi bộ, lưới bộ. Ngư trường của họ là trong vịnh Văn Phong và một số nơi khác thuộc vùng biển Khánh Hòa, những ngư dân này sử dụng tàu nhỏ công suất 5 – 24 CV hoặc không sử dụng tàu mà lội bộ ra các vùng nông để đánh bắt cá. Và tổng sản lượng khai thác hàng năm vào khoảng 100 tấn. Nói chung nghề khai thác ở Xuân Tự là khai thác nhỏ gần bờ.
Nghề lặn hiện nay đang có xu thế tăng tại thôn Xuân Tự. Trong tổng số 18 hộ được phỏng vấn làm nghề khai thác thủy sản, thì trong đó có đến 77,78% (14 hộ) số hộ làm nghề lặn, 22,22% còn lại làm nghề lưới.
Nghề lặn là một nghề rất nguy hiểm đối với ngư dân, họ lặn bắt hải sản bằng các dụng cụ thô sơ và không theo một phương pháp khoa học nào. Các ngư dân làm nghề lặn bắt các loại hải sản ở các rạn như cá mú, cá ngựa … đặc biệt là bắt tôm hùm lồng giống và các loại làm thức ăn cho tôm như cầu gai, các loại nhuyễn thể. Chính nghề nuôi tôm hùm phát triển đã làm tăng số lượng nghề lặn.
Nghề lặn tôm hùm giống thường bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 3 âm lịch hàng năm; nghề lặn cũng chỉ có thể hoạt động trong thời điểm nước biển êm, trong, ít sóng gió. Chi phí cho nghề lặn là không đáng kể. Tuy nhiên với giá tôm hùm giống là cao, dao động từ 70.000 – 150.000 đồng. Vì vậy, trung bình một ngày có thể thu được 205.556 đ/ngày. Và trung bình một tháng các hộ đi lặn có kết quả vào khoảng 21 ngày. Tuy nhiên họ chỉ khai thác trong 5 tháng. Trong 7 tháng còn lại, ngoài mùa tôm hùm, các hộ này đi lặn bắt các loại cá, ốc… làm thức ăn cho tôm và thu nhập trung bình vào khoảng 24.286 đ/ngày và số ngày lặn bắt trong tháng trung bình là 23.21 ngày.
Bảng 4. 10. Thu Nhập Trung Bình/Hộ/Năm của các Hộ Làm Nghề Lặn
Số tháng
|
Số ngày
|
Thu nhập trung bình/ngày (1000đ)
|
Thành tiền (1000đ)
|
5
|
21
|
205,556
|
21.583,38
|
5
|
23,214
|
24,286
|
2.818,88
|
Thu nhập trung bình/hộ/năm
|
24.402,26
|
Nguồn: Điều tra và tính toán tổng hợp
Với 4 hộ làm nghề lưới (22,22%) thì cuộc sống thu nhập bấp bệnh, và một ngày trung bình kiếm được khoảng 28.750 đ/ngày, đây là một khoảng không đáng kể, rất khó khăn trong việc nuôi sống gia đình. Việc khai thác hoạt động vào khoảng 10 tháng và số ngày đi khai thác vào khoảng 26.25 ngày. Vì vậy thu nhập trung bình vào khoảng 7.546.875 đ/năm.
Và như vậy thu nhập trung bình một hộ khai thác kiếm được một năm là 20.656.620 đ/năm.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |