BỘ giáo dục và ĐÀo tạo bộ NÔng nghiệp và ptnt viện chăn nuôi ngô thành vinh nghiên cứu sinh trưỞNG, sinh sảN, cho thịt và MỘt số giải pháp nâng cao năng suất thịt của cừu phan rang luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệP



tải về 1.46 Mb.
trang18/26
Chuyển đổi dữ liệu25.07.2016
Kích1.46 Mb.
#5133
1   ...   14   15   16   17   18   19   20   21   ...   26

5.4. Thảo luận

5.4.1. Thảo luận về khẩu phần ăn và tăng trọng hàng ngày của cừu


Với phương thức chăn nuôi dựa chủ yếu vào đồng cỏ tự nhiên thì khả năng sản xuất và chất lượng thịt thấp do chất lượng và số lượng thức ăn từ đồng cỏ dao động theo mùa không đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng. Việc sử dụng hiệu quả các nguồn thức ăn sẵn có tại địa phương mang lại lợi ích kinh tế là cơ sở để xác định những giống vật nuôi thích hợp nhằm mang lại hiệu quả hơn (Terrill và Maijala, 1991).

Kết quả các bảng 5.5 và 5.8 cho thấy ADG g/ngày, chất khô ăn vào g/kg chất khô, tổng ME thu nhận (Mcal/con/ngày), hiệu quả sử dụng thức ăn ăn vào Mcal/con/ngày cao nhất ở lô KP3 (50% cỏ + 50% thức ăn tinh) và thấp nhất ở lô KP1 (70 % cỏ + 30 % thức ăn tinh). Tuy nhiên hệ số FCR (kg DM/kg tăng trọng lại cao nhất ở lô KP1 và chi phí/ kg tăng trọng thấp nhất, trong khi đó lô KP3 hệ số FCR (kg DM/kg tăng trọng lại thấp nhất và chi phí/ kg tăng trọng cao nhất cho cả hai thí nghiệm. Việc trộn tỷ lệ thức ăn tinh ở các mức ăn 30; 40 và 50% trong khẩu phần đã làm tăng khối lượng trung bình hàng ngày ở lô KP1(ĐC); KP2 và KP3 lần lượt là 116,7; 150,6 và 181,0 gam/ngày, cao nhất ở khẩu phần KP3 tương đương tăng được: 3,5; 4,52 và 5,4kg sau 8 tuần nuôi vỗ béo có khối lượng giết mổ tương ứng: 22,23; 24,07 và 25,37 kg lúc 6 tháng tuổi. Việc tăng ADG g/ngày của các khẩu phần ăn đạt được độ chênh lệch ngắn hơn so kết quả của (Adu và Brinckman, 1981) ADG đạt được từ 78 - 183g/ngày khi cho ăn vỗ béo cừu với mức độ khác nhau bằng cỏ ghine, ngô và bánh khô dầu lạc có giá trị khác nhau.

Theo nghiên cứu của (Kassahun Awgichew, 2000) trên cừu Menz và cừu Horro ở Ethiopia kết quả thu được lượng chất khô ăn vào của cừu Menz là 802 g; tương đương với lô KP1(ĐC) nhưng thấp hơn lô KP2 và KP3. Còn ở cừu Horro lượng chất khô ăn vào là 879g cao hơn lô KP1 nhưng thấp hơn so với lô KP2 và KP3.

Ở thí nghiệm 2: khẩu phần ăn ở các lô tăng khối lượng trung bình hàng ngày lần lượt: 130,8; 154,9 và 169,2 g/ngày tương đương khối lượng tăng được lần lượt là 7,8; 9,2 và 10,14kg sau hai tháng nuôi vỗ béo có khối lượng giết mổ tương ứng: lô KP1 (26,43 kg); Lô KP2 (27,72 kg) và lô KP3 (28,4 kg). Đồng thời bổ sung khẩu phần ăn ở các mức khác nhau làm tăng khối lượng cơ thể cao nhất ở lô (50% cỏ + 50% thức ăn tinh), tiếp sau đến lô (60% cỏ + 40 % thức ăn tinh) và thấp nhất lô (30% thức ăn tinh + 60% cỏ). Theo (Muhammad và cs., 2008) kết quả vỗ béo sử dụng cám gạo theo tỷ lệ 15; 30; 45% trong khẩu phần ăn cho cừu Uda – Nigeria, khối lượng ban đầu thí nghiệm lần lượt: 19,5; 19,63; 19,7kg gần tương tự như thí nghiệm 1 của chúng tôi, khối lượng kết thúc thí nghiệm lần lượt: 26,44; 28,81; 26,0 kg. Khối lượng tăng trung bình hàng ngày ở tỷ lệ 30% cám gạo xay là tốt nhất nhưng đều thấp hơn kết quả của chúng tôi (130,8; 154,9; 169,2 gam/ngày). Theo Muhammad và cs., 2008 khi sử dụng cám gạo thay thế cám mì để vỗ béo cừu đực Uda – Nigeria với mức ăn khác nhau: 15; 30; 45(%), khẩu phần ăn mức 30% cám gạo là tốt nhất về VCK ăn vào, khối lượng tăng và chi phí của sản phẩm, lợi ích kinh tế tốt nhất khi sử dụng cám gạo không quá 30% trong khẩu phần ăn. Lượng VCK ăn vào tính theo khối lượng cơ thể ở mức ăn cám gạo 15; 30 và 45% lần lượt 4,21; 4,53; 4,44 %, tương đương kết quả của chúng tôi (bảng 5.2 và 5.5)

Qua bảng 5.6 và 5.9 cho thấy thức ăn tiêu thụ cho mỗi khẩu phần tăng lên cho cả hai thí nghiêm làm tăng khối lượng giết mổ sau 8 tuần nuôi. Cho nên trong giai đoạn sinh trưởng được bổ sung đầy đủ dinh dưỡng cừu có tốc độ sinh trưởng cao có thể nuôi vỗ béo cừu với thời gian phù hợp để đem lại hiệu quả kinh tế.

Theo (Muhammad và cs., 2008) kết quả vỗ béo sử dụng cám gạo theo tỷ lệ 15; 30; 45% trong khẩu phần ăn cho cừu Uda – Nigeria, khối lượng ban đầu thí nghiệm lần lượt là 19,5; 19,63 và 19,7kg, khối lượng kết thúc thí nghiệm lần lượt là 26,44; 28,81 và 26,0kg. Tác giả nhận thấy có sự khác nhau giữa các mức ăn, mức ăn KP có tỷ lệ 15% cám gạo có khối lượng tương đương so với cừu ở lô KP1 (26,43 kg); ở lô cừu ăn KP có tỷ lệ 30% cám gạo cũng có khối lượng tương đương so với khối lượng cừu ăn KP3 (28,4kg) nhưng cao hơn so với cừu ở lô KP2 (27,72kg), thấp nhất mức ăn 45% cám gạo. Cho nên cùng một giống cừu được cho ăn khẩu phần có tỷ lệ cám khác nhau thì cũng làm tăng khối lượng khác nhau. Chính vì vậy việc trộn tỷ lệ thức ăn tinh thô khác nhau như ở KP1, KP2,KP3 cũng làm giá trị khối lượng khác nhau.

(Muhammad và cs., 2008) cho rằng trung bình tăng khối lượng hàng ngày (ADG) thu được cho động vật trên ăn KP 30% cám gạo xay (109.37g) là tốt hơn so với ADG 53g/ngày khi thay thế bánh hạt bông, ngô với cám lúa mì trong chế độ ăn của cừu. chính vì vậy trong thí nghiệm của chúng tôi khẩu phần (50% cỏ + 50% thức ăn tinh) tăng khối lượng trung bình hàng ngày có giá trị cao nhất (181gam/ngày). Theo (Adu và Brinckman, 1981) cũng cho rằng ADG là 65g khi ông thay thế ngô bằng hạt khô trong khẩu phần ăn của cừu sinh trưởng, thấp hơn so với ADG ở khẩu phần cám gạo xay mức ăn 45% (75.89g/ngày); hoặc ADG tăng từ 68g đến 93g khi họ thay thế đậu đũa trấu với chất chứa dạ cỏ trong khẩu phần ăn của cừu sinh trưởng. Cũng theo (Adu và Brinckman, 1981) ADG đạt được từ 78 - 183g/ngày khi cho ăn vỗ béo cừu với các mức ăn khác nhau bằng cỏ Ghinê, ngô và bánh khô dầu lạc cũng có giá trị khác nhau. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả của chúng tôi khi nuôi vỗ béo cừu ở 3 khẩu phần (KP1, KP2 và KP3) có giá trị khác nhau về (ADG) tương ứng là 116,7; 150,6 và 181,0 gam/ngày.

Theo Faruk, (2007) nuôi vỗ béo trên cừu đực Karayaka – Thổ nhĩ Kỳ khối lượng giết mổ khác nhau (35, 40 và 45 kg) tương ứng tăng trọng trung bình là 195; 203,1 và 214,5 g/ngày, tuy nhiên không có sự khác biệt giữa các nhóm về tăng trọng hàng ngày nhưng thức ăn tiêu thụ cho mỗi kg tăng lên khi khối lượng giết mổ lớn hơn (P<0,05) đối với vấn đề tiêu thụ thức ăn, khi khối lượng giết mổ tăng lên thì tăng trọng trung bình hàng ngày giảm.

(Devendra và Mc Leroy, 1982) cho biết dê và cừu hậu bị có tốc độ tăng trưởng cao trong pha giai đoạn sinh trưởng cho nên hệ số chuyển hóa thức ăn/kg tăng khối lượng là 5,07-7,28 kg VCK. Theo (Sultana và cs., 2010) tỷ lệ chuyển hóa thức ăn của cừu ở Bangladesh dao động tối đa 15,6 và tối thiểu 4,7 kg. Sultana và cs., 2010 cho rằng lượng chất dinh dưỡng ăn vào, tăng trưởng và chi phí thức ăn để sản xuất 1 kg thịt cừu ở giai đoạn 6-8 tháng tuổi sẽ kinh tế hơn ở giai đoạn các tháng tuổi về sau. Davis, (2003) đã chứng minh cừu 8 - 12 tháng đạt hiệu quả hơn trong chuyển đổi thức ăn so với cừu 6-7 tháng tuổi. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng nằm trong giới hạn trên.

Theo (Cristobal, 2004) đã sử dụng 4 khẩu phần ăn khác nhau cho cừu đực Manchega – Tây Ban Nha bao gồm BO (mạch không lên men), BM (mạch có lên men), CO (ngô không lên men), CM (ngô có lên men) cho thấy số lượng thức ăn ăn vào (kg DM/ngày) ở các lô BO, BM, CO, CM lần lượt là 0,948; 0,923; 0,913; 0,844, thấp nhất ở lô CM (p<0,05) và cao nhất ở lô BO. Lượng thức ăn ăn vào kg/DM/ngày cao hơn so với khẩu phần ăn cỏ voi và thức ăn tinh trong các lô KP1; KP2; KP3 của nghiên cứu này. Có thể là do khi sử dụng các loại thức ăn khác nhau kể cả ngũ cốc, thô xanh các loại dẫn đến lượng thức ăn vào (kg/DM/ngày) là khác nhau. Khi so sánh BO và BM có khác nhau về ADG, g/ngày và FCR (tỷ lệ chuyển đổi thức ăn đối với tăng trọng), tuy nhiên giữa lô CO và CM lại không có sự khác nhau. Nhận xét của tác giả này về ADG, g/ngày ở các lô CO và CM là giống nhau tương tự như lô KP2 và KP3 của chúng tôi. Tác giả cho rằng ADG g/ngày không làm ảnh hưởng đến ngày giết mổ.

Theo (Grarín và cs., 2001) nuôi vỗ béo cừu bằng lúa mạch có trộn malate và men, làm giảm đáng kể lượng thức ăn ăn vào 11% và 7% chuyển đổi thức ăn nhưng không tăng (ADG). Chính vì vậy đến thời điểm này người chăn nuôi cần xem xét để đưa ra quyết định phù hợp trong giết mổ. Ở thí nghiệm khác tác giả sử dụng malata trong khẩu phần ăn lúa đại mạch và ngô, giữa lô BO (0,954 kg/DM/d) và CM (0,834 kg/DM/d) (P<0,05) và CO (0,916 kg/DM/d) có sự khác nhau (P<0,05) so CM (0,944 kg/DM/d) và các lô khác. Sử dụng malate làm tăng lactate trong dạ cỏ, ngoài cung cấp năng lượng, latale là chất dẫn truyền làm giảm acidocis trong dạ cỏ và lactate tập trung trong máu, cho nên bổ sung malate làm nồng độ lactac trong huyết tương ảnh hưởng đến thức ăn ngũ cốc, bổ sung mantale với lúa mạch và ngô là có ý nghĩa.

Còn (Idris và Salih, 2010) đã sử dụng 3 khẩu phần ăn và đối chứng trên cừu Su Đăng. Khẩu phần CTL (đối chứng chăn nuôi truyền thống); khẩu phần A (GNC- 99% bách khô lạc cả vỏ); khẩu phần B (GNC- 89% Bánh hạt lạc); khẩu phần C (RS-M- 89% hạt giống Roselle). Bổ sung các khẩu phần trên ở 2 giai đoạn: (45 ngày tại thời điểm phối giống) và thời gian trước (45 ngày thời gian trước khi cừu đẻ). Cho ăn 0,45 kg trong hai giai đoạn trên, đã ảnh hưởng rõ rệt đến điểm thể trạng lúc phối giống, đẻ lứa đầu và giữa thời kỳ mang thai và không làm ảnh hưởng đến các tính trạng sinh sản lứa đẻ, giới tính, kiểu sinh, thời gian mang thai, góp phần cải thiện năng suất sinh sản tốt nhất.

Hiện tại trong nghiên cứu này chỉ thiết lập xác định tác động về độ tuổi của cừu Phan Rang trong pha giai đoạn sinh trưởng: về thức ăn ăn vào, sinh trưởng, mức dinh dưỡng khác nhau, đặc điểm thịt và thị trường độ tuổi giết mổ của cừu Phan Rang 6 tháng và 9 tháng tuổi. Chất dinh dưỡng, chế độ ăn uống ME và Pr là những yếu tố quan trọng chính ảnh hưởng đến sản xuất thịt ở dê cừu (Shajalal và cs., 1992). Tiềm năng sinh trưởng có thể bị khai thác, sử dụng với khẩu phần có năng lượng cao. Cừu Phan Rang nuôi theo phương thức chăn nuôi truyền thống là chủ yếu phụ thuộc vào đồng cỏ tự nhiên, nuôi để lấy thịt, thời gian kéo dài, chất lượng thịt xẻ không cao, khối lượng giết mổ dưới 30kg giống như khối lượng giết mổ của một số giống cừu bản địa như: cừu Uda-Nigeria, cừu Menz; Horro – Ethiopia, một số giống cừu địa phương Ấn độ, Pakistan có khối lượng nhỏ 15-25kg (Mtenga và Kitalyi, 1990; Mukherjee, 2000). Cừu Ấn Độ đạt trung bình 40-50g hàng ngày đạt được trong pha sinh trưởng để giết mổ ở độ tuổi 9-12 tháng có 20-22 kg (Singh và Karim, 2003). Các tác giả cho rằng cần giảm tuổi giết mổ, tăng chất lượng thịt, xác định độ tuổi thích hợp để tránh mỡ dắt nhiều trong thân thịt và lợi ích kinh tế.

(Scammell và Jolly, 2006) cho rằng nuôi vỗ béo ở cừu Merino khối lượng bình quân tăng lên từ tháng nuôi đầu sang đến tháng thứ 2 nhưng đến tuần cuối tăng trọng trung bình hàng ngày có xu hướng giảm đi theo độ tuổi. Theo (Sultana và cs., 2010) lượng chất dinh dưỡng ăn vào, tăng trưởng và chi phí thức ăn để sản xuất kg thịt cừu tăng trọng lượng cơ thể ở giai đoạn (6-8 tháng tuổi) sẽ kinh tế hơn ở giai đoạn tháng tuổi về sau, thị trường tối ưu khoảng 8 tháng cho cừu bản địa phù hợp điều kiện nuôi dưỡng và quản lý. (Davis, 2003) đã chứng minh cừu (8-12 tháng) đạt hiệu quả hơn trong chuyển đổi thức ăn so với cừu 6-7 tháng tuổi. Chính vì vậy chúng tôi lựa chọn nuôi vỗ béo cừu Phan Rang ở độ tuổi 6 tháng và 9 tháng tuổi để đánh giá khảo sát chất lượng thịt, tiêu tốn thức ăn và hiệu quả kinh tế.

5.4.2.Thảo luận một số vấn đề về đặc điểm thịt xẻ và chất lượng thịt


5.4.2.1. Về đặc điểm tỷ lệ thịt xẻ và các bộ phận nội tạng

Tỷ lệ thịt tinh (%) so với kết quả mổ khảo sát của (Đinh Văn Bình và Nguyễn Kim Lin, 2007) cho thấy ở lô KP1(31,71%) tương đương tỷ lệ thịt tinh của cừu thế thệ 1 (32,05%), ở thế hệ 3 (31,7%) cao hơn tỷ lệ thịt tinh cừu thế hệ 2 (30,67%) . Ở lô KP2 tỷ lệ thịt tinh (32,08%) cao hơn tỷ lệ thịt tinh cừu thế hệ 2 (30,67%) nhưng tương đương với tỷ lệ thịt tinh của thế hệ 1 và thế hệ 3.

Tỷ lệ % phần đầu ở các lô KP1; KP2; KP3 lần lượt: 6,33; 6,63; 4,83% thấp hơn so với kết quả của (Đinh Văn Bình và Nguyễn Kim Lin, 2007) ở 3 thế hệ 9 tháng tuổi lần lượt thế hệ 1;2;3 là: 7,07; 6,37;7,12% có thể do tháng tuổi khác nhau khi mổ khảo sát. Khi so sánh tỷ lệ da lông ở 3 lô KP1; KP2; KP3 lần lượt: 9,31; 9,93; 8,29% so với kết quả tỷ lệ da lông trên 3 thế hệ cừu lần lượt: 7,21;7,17; 7,55% thấp hơn kết quả trong nghiên cứu này. Tỷ lệ xương % ở 3 lô thí nghiêm KP1; KP2; KP3 lần lượt: 12,3; 11,74, 11,84% so với kết quả của (Đinh Văn Bình và Nguyễn Kim Lin, 2007) tỷ lệ xương của cừu 9 tháng tuổi ở 3 thế hệ lần lượt: 11,54; 11,11; 11,39% tương tự nhau chỉ có lô KP1 có tỷ lệ cao hơn.

Theo kết quả mổ khảo sát của (Đinh Văn Bình và Nguyễn Kim Lin, 2007) trên cừu ở 3 thế hệ lúc 9 tháng tuổi khối lượng dao động 22.3 kg đến 22.5kg, khối lượng này thấp hơn khối lượng mổ khảo sát của chúng tôi ở giai đoạn 9 tháng tuổi lần lượt KP1; KP2; KP3 là: 26.41; 27.74; 28.4 kg. Tỷ lệ thịt xẻ cao nhất lô KP3 (45.11%), lô KP2 (44.17 %) và thấp hơn là KP1 (42.73%). Lô ăn KP1 tương đương tỷ lệ thịt xẻ cừu ở thế hệ 3 (40.5%) nhưng thấp hơn cừu thế hệ 1 (43.6%) cao hơn ở thế hệ 2 (40.7%). Còn lô ăn KP2 và KP3 tỷ lệ thịt xẻ đều cao hơn so với kết quả mổ khảo sát của 3 thế hệ cừu của (Đinh Văn Bình và Nguyễn Kim Lin, 2007) có thể do cừu được nuôi bằng khẩu phần vỗ béo, khối lượng giết mổ lớn hơn cho nên có tỷ lệ thịt xẻ khác nhau. Theo (Sultana và cs., 2010) cừu ở Banglades ở độ tuổi 9-12 tháng tuổi có tỷ lệ thịt xẻ cao hơn độ tuổi <9 tháng. Các tỷ lệ phần đầu kết quả của chúng tôi đều thấp hơn nhưng tỷ lệ da lần lượt: 9.55; 10.32; 10.0% cao hơn nhiều so với kết quả mổ khảo sát trên cừu ở 3 thế hệ (Đinh Văn Bình và Nguyễn Kim Lin, 2007). Cũng theo (Sultana và cs., 2010) tỷ lệ % máu cừu bản địa ở giai đoạn 6-9 tháng tuổi, 9-12 tháng tuổi và 12-15 tháng tuổi không có sự khác nhau về tỷ lệ máu phù hợp với kết quả của chúng tôi, tỷ lệ da đối với cừu bản địa Banglades ở độ tuổi 6-9 tháng tuổi (8.7%) và 9-12 tháng tuổi (8,0%) có sự khác nhau so với tỷ lệ da của 3 lô mổ khảo sát đều có tỷ lệ cao hơn (bảng 5.7 và 5.10) nhưng so tỷ lệ da của cừu Shahabade - Ấn Độ (Sandip Banerjee, 2011) là 10,16% tương đương kết quả của 3 lô mổ khảo sát của thí nghiệm này. Còn về tỷ lệ thịt xẻ kết quả mổ khảo sát của ba nhóm KP1; KP2 và KP3 đều có tỷ lệ cao hơn so với cừu Shahabade (39,07%), khối lượng giết mổ 15,46 kg ở tháng tuổi <6 tháng. Sự khác nhau này do tháng tuổi khác nhau và khối lượng giết mổ, cho nên tỷ lệ thịt xẻ khác nhau tháng tuổi nhiều hơn thì tỷ lệ thịt xẻ cao hơn. Khối lượng giết thịt khác nhau thì tỷ lệ thịt xẻ khác nhau.

(Sandip Banerjee, 2011; Abdul Aziz và cs., 1999 cho rằng tỷ lệ thịt xẻ cừu cái không khác nhau nhưng cừu đực nuôi bằng chăn thả ăn cỏ tự nhiên có tỷ lệ thịt xẻ cao hơn cừu được ăn thức ăn bổ sung. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả của (Mioè và cs., 2007) khi nuôi cừu Shahabade bổ sung 30% bánh dầu ô liu. Theo (Dani và cs., 1985) tỷ lệ thịt xẻ phụ thuộc vào khối lượng giết mổ và có thể thay đổi từ 37 đến 45%, tỷ lệ thịt xẻ của cừu Phan Rang cũng nằm trong giới hạn này. Kết quả của (Sandip Banerjee, 2011) cũng phù hợp với nhận xét của (Gopalkrishnan và Morleymohanlal, 1985; Roque và cs.,1999) trên cừu Madras đỏ và cừu Coimbatore. (Bhat và cs., 1978) cho rằng cừu Chokla có tỷ lệ thịt xẻ tương tự như báo cáo (Roque và cs., 1999) trên cừu Romanov, giống khác nhau thì có tỷ lệ thịt xẻ khác nhau, tuy nhiên có thể nâng cao tỷ lệ thịt xẻ bằng nuôi dưỡng và quản lý. Theo (Srivastava và Roy, 1971) tính trạng thịt đối cừu ăn cỏ tự nhiên sinh trưởng chậm và có tỷ lệ bộ phận nội tạng lớn hơn cừu ăn thức ăn bổ sung. Theo (Gaili và cs., 1972) phương pháp cắt thịt hay lọc thịt do nhiều người thực hiện cũng làm ảnh hưởng đến tỷ lệ thịt xẻ và gia súc không nuôi vỗ béo có tỷ lệ thịt xẻ thấp hơn gia súc nuôi vỗ béo.

Theo (Alper Yilmaz, 2009) các giống cừu của vùng Tây Bắc-Turkey như Merio, Ramlic, Kivicik, Chios và Imroz nuôi vỗ béo ở gia đoạn 6 tháng tuổi có tỷ lệ % phần đầu lần lượt là 6,10; 6,1; 5,9; 6,56; 6,3 % và tỷ lệ da lần lượt là 11,14; 11,49; 9,76; 10,58 và 10,89%. Kết quả này cũng tương đương với kết quả nuôi vỗ béo cừu Phan Rang.

Các giá trị liên quan tỷ lệ đầu theo (%) khối lượng sống không thay đổi nhiều giữa giới tính và nhóm tuổi, các giá trị thu được theo (Sandip Banerjee, 2011) thấp hơn so với kết quả của (Charray và Leif, 1992) ở cừu đen đầu Ogaden và cừu Washera. Theo (Tafa và cs., 2009) tỷ lệ đầu của cừu đực, cái < 1 năm tuổi lần lượt là 9,8; 9,89%; khối lượng thịt xẻ 10,9kg và 11 kg; tỷ lệ (%) da và chân lần lượt là 16,7; 16,9% cho cừu Arsi Bale ở phía Nam Ethiopia. Theo (Kefyalew Berihun, 2013) tỷ lệ thịt xẻ cho cừu đực cái Arsi Bale lần lượt là 45,28 và 44,31%. Kết quả cho cừu dưới 1 năm tuổi không khác nhau, ở độ tuổi 1- 2 năm lần lượt 45,98; 43,13%, không khác nhiều so với kết quả ở bảng 5.5. Còn về tỷ lệ da và chân đối với cừu đực, cừu cái dưới 1 năm tuổi, dưới 2 năm tuổi cũng tương tự như kết quả của chúng tôi.

Các giá trị khối lượng thu được thấp hơn có thể do ảnh hưởng nuôi dưỡng cừu trên đồng cỏ tự nhiên không bổ sung thêm thức ăn (Tafa và cs., 2009). Theo (Kefyalew Berihun, 2013) cho rằng tỷ lệ khối lượng đầu của cừu Arsi Bale cao hơn so với kết quả của (Banerjee và Mousa, 2011) trên cừu Shahabade có tỷ lệ đầu là 7,05%, tỷ lệ da 10,16%, tỷ lệ xương 9,56%, tỷ lệ ruột 9,39% và tỷ lệ thịt xẻ 39,07%. So sánh tỷ lệ đầu, tỷ lệ da của cừu Shahabade - Ấn Độ, cừu Phan Rang có tỷ lệ thấp hơn. So sánh tỷ lệ xương, tỷ lệ thịt xẻ, cừu Phan Rang có các tỷ lệ này cao hơn. Điều này có thể do giống khác nhau thì có tỷ lệ khác nhau.

Khối lượng của da, lông phụ thuộc vào giống cừu và kiểu lông phủ ngoài ngắn nhẹ hơn so với cừu cho lông. Da của động vật nhai lại nhỏ là rất quan trọng ở Ethiopia (Abadi, 2000; Mahmud, 2000; Abebe và cs., 2010). Tỷ lệ % về khối lượng da ở cừu Shahabadi trưởng thành tương tự như cừu Awassi và cừu lai (Awassi X Romanov) nuôi ở Jordan (Mousa, 2011; Sandip Banerjee, 2011; Momani Shakeret và cs., 2002). Tỷ lệ (%) da phù hợp với các kết quả thu được của (Gopal Krishna và Morleymohandas, 1985) trên cừu đực cho Nellore và Mandya và cừu ở vùng Nam Ấn Độ. Tỷ lệ (%) thịt xẻ phụ thuộc vào khối lượng giết mổ và có thể dao động từ 37-45% kết quả này cũng sát với kết quả trên cừu Red Madras Coimbatore (Bhat và cs., 1978, Chokla Roque và cs., 1999. Romanov Gaili và cs., 1972) cũng cho rằng cừu không nuôi vỗ béo thì toàn bộ đầu, da, chân, lông, tiết có tỷ lệ phần trăm thấp hơn so với những cừu đã được vỗ béo.

Các giá trị khác nhau cho rằng có thể là do sự khác biệt về giống cừu (Mousa, 2011). Tỷ lệ da, lông, đầu, chân, tiết của cừu đực, cái ở các nhóm tuổi khác nhau được (Kefyalew Berihun, 2013) đánh giá thấp hơn so với kết quả của Snowder và cs., 1994 cho các giống cừu Rambouillet, Targhee, Columbia và Polypay. Theo (Mioè và cs., 2007; Burke và Apple, 2007; Abd El-AAL và Suliman, 2008) giống cừu Katahdin có các chỉ tiêu trên đều thấp hơn so với Dorper và Sufflok. (Banerjee, 2011) ​​cho rằng tỷ lệ da lông các giống khác nhau thì khác nhau và có ảnh hưởng đến sản lượng da lông.

5.4.2.2. Về chất lượng thịt

Giá trị cơ thăn giữa các lô KP, KP2, KP3 tương ứng có độ pH3 giờ là tương đương nhau 5,96; 6.05; 5,97; ngay cả cơ bán nguyệt (bảng 5.11) giữa các lô cũng không khác nhau nhiều cho nên khẩu phần ăn không ảnh hưởng nhiều đến độ pH thịt sau 3 giờ, cũng như khối lượng giết mổ cũng không có chênh lệch nhau điều này cũng phù hợp với nhận xét trên cừu cái Karayaka – Thổ Nhĩ Kỳ (Sen và cs., 2011; Ugur Sen và cs., 2013).

Sản xuất thịt cừu có thay đổi theo mùa về số lượng và chất lượng, đó là thấp trong mùa thu và cao vào cuối mùa xuân và mùa hè, do thông thường cừu đẻ theo mùa (Chemineau và cs., 2008). Cừu sinh vào mùa thu có hàm lượng cao các chất béo bắp trong LD và ST cơ bắp hơn so với sinh vào mùa đông. Do đó, đặc điểm chất lượng thịt của cừu sinh vào mùa thu đã được thay đổi bởi hàm lượng chất béo ở cơ bắp. Cơ bắp, chất béo, độ pH (Atay và cs., 2009) và thành phần sợi cơ bắp (Lefaucheur, 2006; Sirin và cs., 2011) ảnh hưởng đến chỉ số màu thịt, mà là một đặc điểm quan trọng của chất lượng thịt. Hơn nữa, một số lượng lớn chất béo trong cơ bắp có thể làm tăng độ sáng nhẹ và giảm giá trị đỏ, ngay cả khi chỉ số mầu sắc tố tăng (Brzostowski và cs., 2006). Sự gia tăng trong L * và giảm trong a * tham số của các cơ bắp LD và ST của cừu sinh vào mùa thu trên cừu Karayaka có thể là do hàm lượng chất béo tích tụ trong cơ bắp cao hơn các cơ bắp. Theo (Ugur Sen và cs. 2013) giá trị pH 24 mùa đông và mùa thu có: LD lần lượt: 5,61; 5,5 và ST lần lượt 5,6; 5,5, kết quả này tương đương kết quả trên cừu Phan Rang (bảng 5.12). Các tác giả cũng cho biết giảm giá trị mầu sắc của màu thịt được coi là sai lầm vì giảm chất lượng thịt. Ở cừu Karayaka, sự khác biệt màu sắc và thấp hơn giá trị mầu sắc 24 giờ sau khi giết mổ trong LD và ST của cừu sinh ra vào mùa thu có thể do độ sáng từ nhẹ và thay đổi giá trị đỏ gây ra bởi hàm lượng chất béo trong cơ bắp cao.

Khả năng giữ nước (WHC) là một chỉ số về chất lượng thịt ở cấp độ thương mại. Nước bình thường ở trong heldin của các myofibrils giữa sợi và một phần nhỏ của nước này gắn kết với protein bằng lực tĩnh điện thu hút (Miranda-de la Lama và cs., 2009). Mức độ WHC thịt cũng là liên quan chặt chẽ với pH thịt cuối cùng và tốc độ suy giảm pH trong quá trình phát triển rigor mortis (Hopkins và cs., 2006); Atay và cs., 2009). Giá trị mất nước bảo quản và mất nước chế biến được sử dụng để xác định khả năng giữ nước của thịt sống và chín. Lực cắt và giá trị pH của thịt ảnh hưởng đến các thông số chất lượng thịt như cơ bắp, chất béo, thành phần sợi cơ và số lượng của các mô đệm (Hopkins và cs., 2006); Esenbuga và cs., 2009).

Theo (Dunshea và cs., 2005) sự sụt giảm chất béo trong cơ bắp, làm tăng mất nước bảo quản, lực cắt và giá trị pH của thịt. cừu sinh vào mùa thu có tỷ lệ cao chất béo trong thịt xẻ và chất béo giắt trong cơ bắp. Do đó cũng đã có mất nước bảo quản thấp và giá trị lực cắt trong ST và cơ LD so với cừu sinh vào mùa đông, nhưng không có sự khác biệt đáng kể giữa cừu Karayaka ở cả hai nhóm về giá trị pH trong cả cơ bắp. Mất nước chế biến chủ yếu xảy ra do phản ứng nước hydrat hóa gắn kết với protein (Miranda-de la Lama và cs., 2009). Ở cừu Karayaka trong cả hai nhóm có hàm lượng protein tương tự mặc dù có sự giảm mất nước chế biến gây tổn thất vào mùa thu sinh con. Sự mất nước chế biến cũng phụ thuộc vào số lượng mô liên kết, và chất béo sẽ tan chảy và nhỏ giọt ra trong nấu ăn (Hopkins và cs., 2006). Theo (Ugur Sen và cs., 2013) mất nước chế biến của cừu Karayaka sinh ra vào mùa Đông và mùa Thu lần lượt LD: 24,16;21,75%; ST lần lượt 23.21; 21,13% kết quả này đều thấp hơn kết quả của chúng tôi (bảng 5.12).

Độ pH3 của cơ thăn so với pH24 giờ có chiều hướng giảm đi, bình thường độ pH cao trong trường hợp gia súc bị stress nhưng trong điều kiện của chúng tôi chỉ số pH là bình thường. kết quả phù hợp nhận xét: Cừu dường như ít bị ảnh hưởng bởi stress và không cho thấy giá trị pH thịt giảm bất thường. Theo (Brazal và Boccard, 1977) cho thấy không có khác biệt đáng kể giá trị trung bình pH của cơ thăn cừu bị stress.

Kết quả bảng 5.12, cho thấy không có sự khác biệt về thành phần sắc tố và L*, a* và b* ở cơ bán nguyệt. (Alper Yilmaz, 2009) đã đánh giá chất lượng thịt của các giống cừu: Merino, Ramlic, Kivircik, Chios lần lượt thấy L*: 69,4; 68,08; 67,64; 67;4; a* lần lượt: 4,59; 4,65; 4,68; 5,31; b* lần lượt: 7,74; 8,23; 8,72; 9,20 các chỉ số này tương tự như nhau giữa các giống. Tuy nhiên giá trị L* cao hơn kết quả của cừu Phan Rang, còn giá trị a* (độ đỏ) lại thấp hơn kết quả của chúng tôi, chỉ có b* (độ vàng) là tương đương với kết quả của chúng tôi. Theo (Horcada và cs., 1998) không có khác biệt về màu sắc thịt của cừu đực và cái Rasa Aragonesa và Lacha, nuôi dưỡng giống nhau và được giết mổ ở cùng lứa tuổi. (Sañudo và cs., 1998) cho thấy các sắc tố và giá trị độ sáng (L*) nhiều hơn ở thịt cừu Merino có khối lượng giết mổ từ 28-30 kg hơn so với thịt những cừu này khi giết mổ có khối lượng từ 23-25 kg. Điều này có thể các giống khác nhau thì giá tri L* khác nhau. Dinh dưỡng đặc trưng bởi lượng glycogen dự trữ trong cơ bắp thấp và tăng giá trị pH thịt (Bray và cs., 1989) trong khẩu phần nuôi vỗ béo cừu chế độ dinh dưỡng đảm bảo cho nên giá trị pH không tăng đối với cừu mổ khảo sát trong nghiên cứu này.

Theo (Ugur Sen và cs., 2013) đặc điểm L* trong cơ LD và ST của cừu Karayaka sinh vào mùa Đông và mùa Thu lần lượt là 34.58; 40.53 và 38,24; 40,84%. Đặc điểm L* trong cơ ST của cừu Phan Rang trong 3 nhóm mổ khảo sát lần lượt: 45,38; 41,15; 40,82% đều cao hơn chỉ có LD và ST mùa Thu là tương tự như ở nhóm 3. Tuy nhiên a* (độ đỏ) ở cừu Karayaka trong cơ LD và ST ở mùa Đông và mùa Thu lần lượt: 21,78; 19,04 và 22,01; 19,68% cao hơn so với cừu Phan Rang cho cả 3 lô: 17,22; 16,69;18,18% tương ứng. Về độ vàng b* kết quả của chúng tôi cao hơn so với b*(độ vàng) của cừu Karayaka. Những điểm khác biệt này có thể do giống khác nhau và độ tuổi giết mổ khác nhau cho nên có kết quả khác nhau về các giá trị trên. Sự khác nhau một số đặc điểm về thành phần thịt và chất lượng thịt có thể do đặc điểm khác biệt của giống cừu Phan Rang, điều kiện nguồn thức ăn sẵn có và điều kiện khí hậu.


Каталог: uploads -> files -> Luan%20van
files -> Btl bộ ĐỘi biên phòng phòng tài chíNH
files -> Bch đOÀn tỉnh đIỆn biên số: 60 -hd/TĐtn-tg đOÀn tncs hồ chí minh
files -> BỘ NÔng nghiệP
files -> PHỤ LỤC 13 MẪU ĐƠN ĐỀ nghị HỌC, SÁt hạch đỂ CẤp giấy phép lái xe (Ban hành kèm theo Thông tư số 46/2012/tt-bgtvt ngày 07 tháng 11 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ gtvt) CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> TRƯỜng cao đẲng kinh tế KỸ thuật phú LÂm cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
files -> CHƯƠng trình hoạT ĐỘng lễ HỘi trưỜng yên năM 2016 Từ ngày 14 17/04/2016
files -> Nghị định số 79/2006/NĐ-cp, ngày 09/8/2006 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Dược
files -> MỤc lục mở ĐẦU 1 phần I. ĐIỀu kiện tự nhiêN, kinh tế, XÃ HỘI 5
files -> LỜi cam đoan tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận án này là trung thực, khách quan và chưa được ai bảo vệ ở bất kỳ học vị nào

tải về 1.46 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   14   15   16   17   18   19   20   21   ...   26




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương