BỘ giáo dục và ĐÀo tạo bộ NÔng nghiệp và ptnt viện chăn nuôi ngô thành vinh nghiên cứu sinh trưỞNG, sinh sảN, cho thịt và MỘt số giải pháp nâng cao năng suất thịt của cừu phan rang luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệP



tải về 1.46 Mb.
trang12/26
Chuyển đổi dữ liệu25.07.2016
Kích1.46 Mb.
#5133
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   ...   26

3.4. Thảo luận

3.4.1. Khối lượng sinh trưởng của cừu Phan Rang qua các tháng tuổi


Khối lượng sơ sinh là một tính trạng chịu ảnh hưởng di truyền của phẩm giống, các giống khác nhau có khối lượng sơ sinh khác nhau, khối lượng sơ sinh chịu ảnh hưởng số con sinh ra/lứa và lứa đẻ (Josefina và Combelle, 1980; Gonzalez, 1972; Valencia và cs., 1975). Khối lượng sơ sinh của cừu con còn chịu ảnh hưởng khối lượng mẹ lúc đẻ (Gonzalez, 1972). Khối lượng sơ sinh là một tính trạng phụ thuộc vào giống đực tham gia nhân giống. Khối lượng sơ sinh cao thường di truyền theo chiều hướng giống cừu cao sản. Theo kết quả của (Devendra và Faylon, 1989) giống cừu địa phương Philipine có khối lượng sơ sinh: 2,5; 2,0kg (đực và cái), (theo Pradhan, 1989) khối lượng sơ sinh của các giống cừu Nepan là Tibetian, Barwal, Kage, Lampuchhre lần lượt: 2,2; 2,4; 2,6 và 1,6-2,0kg. Qua đó chúng tôi thấy rằng giống cừu Phan Rang có khối lượng sơ sinh lớn hơn các giống cừu Lamuchhre, Tibetian của Nepan và có khối lượng tương đương với các giống nhiệt đới khác trong khu vực. Theo (Tibbo, 2006) khối lượng sơ sinh cừu Horro (Ethiopia) con đực 2,35 kg tương đương cừu đực Phan Rang (2,38 kg); con cái 2,26 kg có thấp hơn cừu cái Phan Rang (2,34 kg). Tuy nhiên khối lượng 3; 12 tháng tuổi của cừu Horro (Ethiopia) lần lượt đối với đực, cái tương ứng là 8,55 và 8,93 kg ; 15,5 và 16,8 kg đều thấp hơn cừu Phan Rang nuôi ở Ba Vì và Ninh Thuận 3 tháng tuổi tương ứng đối với cừu đực, cái là 13,02 và 12,04 kg, ở 12 tháng tuổi tương ứng là 23,34 và 21,02 kg.

Theo (Lê Viết Ly và cs., 1994) cừu Phan Rang nuôi ở Ninh Thuận có khối lượng lúc sơ sinh trung bình là 2,2 kg. (Đinh Văn Bình và Nguyễn Kim Lin, 2007) cho rằng cừu đực và cừu cái Phan Rang ở đời bố mẹ nuôi tại Ba Vì có khối lượng sơ sinh là 2,43 kg, ở đời con là 2,45 kg. Kết quả của chúng tôi cừu ở Ba Vì (2,32kg) và Ninh Thuận (2,41kg) đều nằm trong khoảng dao động trên. Sở dĩ có được kết quả khá ổn định trong nhiều năm qua về khối lượng sơ sinh của trên cừu Phan Rang nuôi tại Ninh Thuận và Ba Vì là do kết quả chọn lọc và nuôi dưỡng đàn cừu giống tại Trung tâm ngày càng tốt hơn. Kết quả nghiên cứu của (Đinh Văn Bình và Ngô Thành Vinh, 2010) cho biết khối lượng sơ sinh của cừu đực và cừu cái nuôi tại nông hộ ở Ninh Thuận và các tỉnh Ninh Bình, Hải Dương, Quảng Ninh là như nhau dao động từ 2,2 kg và 1,9 kg thấp hơn với kết quả nghiên cứu trên cừu nuôi ở hai trại Ba Vì và Ninh Thuận. (Đoàn Đức Vũ, 2006) thấy rằng cừu đực và cừu cái Phan Rang nuôi tại Ninh Thuận có khối lượng sơ sinh lần lượt là 2,4 kg và 2,6 kg, cao hơn so với cừu Phan Rang nuôi tại Ba Vì và Ninh Thuận. Sở dĩ có sự chênh lệch khác nhau về khối lượng sơ sinh của cừu Phan Rang tại các vùng khác nhau, cũng như thời gian nghiên cứu khác nhau, chế độ nuôi dưỡng khác nhau cho nên đã ảnh hưởng đến khác nhau về khối lượng sơ sinh. Vấn đề đặt ra là cần phải nâng cao chất lượng đàn cừu nền, cần cải tiến chế độ chăm sóc nuôi dưỡng đối với cừu cái nuôi con để đảm bảo nguồn sữa cung cấp cho cừu con trong thời kỳ bú sữa, nhằm phát huy tác dụng của các tính trạng sinh trưởng ở cừu con .

Theo kết quả của (Đinh Văn Bình và Ngô Thành Vinh, 2010) cho thấy khối lượng trung bình của cừu đực và cái Phan Rang 3 tháng nuôi tại các nông hộ ở Ninh Thuận và ở ba tỉnh Ninh Bình, Hải Dương, Quảng Ninh lần lượt là, con đực 12,4; 11,5; 12,4; 12,5 kg và con cái: 10,2; 10,4; 10,6; 10,8 kg. Kết quả này thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của chúng tôi (13,10; 12,23 kg) trên cừu Phan Rang nuôi ở hai trại, bởi vì cừu con đi theo mẹ khi chăn thả đang ở trong giai đoạn bú sữa, bãi chăn thả ở xa, việc chăn sóc chưa đầy đủ, lượng thức ăn trên đồng cỏ không nhiều cho nên ảnh hưởng đến sinh trưởng của cừu con trong giai đoạn này. (Lê Viết Ly, 1994) công bố cừu Phan Rang nuôi ở Ninh Thuận có khối lượng lúc 3 tháng tuổi là 13,98 kg. Đinh Văn Bình và cs. (2009) thấy rằng cừu đực và cừu cái Phan Rang đời bố mẹ nuôi tại Ba Vì có khối lượng lúc 3 tháng tuổi lần lượt là 14,48 kg và 13,36 kg. Theo (Trần Quang Hân, 2007) cho biết cừu đực và cừu cái nuôi tại Tây Nguyên tương ứng là 14,96 kg và 13,59 kg, đều có giá trị cao hơn so với kết quả nghiên cứu. Sự khác nhau là do phương thức nuôi ở các vùng là khác nhau. Ở Ninh Thuận nuôi theo phương thức chăn thả là chủ yếu, còn ở Ba Vì nuôi theo phương thức bán chăn thả có bổ sung thức ăn tại chuồng. Điều khác biệt nữa có thể là yếu tố con giống (do các đề tài của các tác giả trên đã chọn lọc đàn giống từ một số trang trại nuôi cừu trong tỉnh cho nên có tiềm năng sinh trưởng cao hơn). Khối lượng cai sữa là tính trạng có hệ số di truyền cao, khối lượng cai sữa phản ánh chất lượng giống, chế độ nuôi dưỡng chính vì vậy ở thời điểm 3 tháng tuổi cừu cái nuôi ở Ninh Thuận lớn hơn nuôi ở Ba Vì về mặt giá trị nhưng sự sai khác chưa rõ rệt.

Theo (Đinh Văn Bình và Ngô Thành Vinh, 2010) cừu đực và cái Phan Rang nuôi ở các nông hộ tại Ninh Thuận và 3 tỉnh Ninh Bình, Hải Dương, Quảng Ninh có khối lượng 6 tháng tuổi trung bình lần lượt: 18,0; 16,6; 15,8; 16,3kg; con cái lần lượt: 14,9; 14,9; 13,2; 13,2 kg. Kết quả này thấp hơn kết quả nghiên cứu trên cừu Phan Rang cùng được nuôi ở Ninh Thuận và Ba Vì (con đực: 17,83 và con cái 16,58 kg). Sở dĩ có các kết quả sinh trưởng khác nhau ở các giai đoạn nghiên cứu khác nhau là do sinh trưởng của cừu chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như: khí hậu, phương thức nuôi, chế độ nuôi dưỡng (Lê Viết Ly, 1991; Đinh Văn Bình và cs., 2009; Đoàn Đức Vũ và cs., 2006).

(Đinh Văn Bình và Ngô Thành Vinh, 2010) thấy rằng cừu nuôi ở Ba Vì ở thế hệ 3 không có sự khác nhau về khối lượng từ 6 tháng đến 12 tháng tuổi, khối lượng con đực tương ứng: 18,55; 29,32 kg; con cái: 16,83; 24,95kg đều tương đương với cừu nuôi ở Ninh Thuận. Còn về cừu đực và cừu cái Phan Rang nuôi tại các hộ ở Ninh Thuận và 3 hộ ở Ninh Bình, Hải Dương, Quảng Ninh cừu 9 tháng tuổi có khối lượng lần lượt con đực là 22,03; 20,8; 19,3; 19;5 kg và con cái 19,13; 18,3; 19,3; 19,5 kg có sự khác nhau rõ rệt so với kết quả của chúng tôi bảng 3.2. Theo kết quả nghiên cứu (Đoàn Đức Vũ, 2006) lúc 9 tháng tuổi cừu cái là 20,7 kg tương đương khối lượng nghiên cứu về cừu cái nuôi ở hai trại Ninh Thuận và Ba Vì có khối lượng không khác nhau.

Theo kết quả của (Đinh Văn Bình và Ngô Thành Vinh, 2010) về khối lượng lúc 12 tháng tuổi của cừu đực Phan Rang nuôi tại các hộ ở Ninh Thuận trung bình là 28,67 kg cao hơn cừu nuôi ở 3 tỉnh Ninh Bình, Hải Dương, Quảng Ninh lần lượt là 26,6; 27,4 và 26,5 kg nhưng thấp hơn so với kết quả nghiên cứu trên cừu đực Phan Rang (29,53 kg) nuôi ở hai trại Ninh Thuận và Ba Vì. Còn về cừu cái ở các hộ Ninh Thuận có khối lượng trung bình 26,8 kg cao hơn khối lượng cừu cái nuôi ở 3 hộ thuộc ba tỉnh trên lần lượt là: 24,5; 25,5 và 24,3 kg lúc 12 tháng tuổi. Còn về khối lượng cừu cái (24,74 kg) trong nghiên cứu tuy có khác nhau về giá trị nhưng không có sự sai khác nhiều.

Theo tác giả (Berhanu Bela và Aynalem Haile, 2011) đối với cừu (nhiệt đới) ở Ethiopia có khối lượng sơ sinh (đực, cái) là 2,53 và 2,41 kg; đến 6 tháng tuổi là 18,6 và 17,5 kg và khi 12 tháng tuổi là 28,3 và 25,7 kg, so với cừu Phan Rang khối lượng sơ sinh (đực, cái) là 2,38 và 2,34 kg, ở 6 tháng là 17,83 và 16,58 kg, và 12 tháng là 29,53 và 24,74 kg thì các giai đoạn tháng tuổi đều có giá trị về mặt khối lượng tương đương nhau. Tuy nhiên giống cừu bản địa nhiệt đới thường không có sự chênh lệch nhiều về khối lượng.

Về một số giống cừu trong khu vực, theo tác giả (Pradhan, 1989) cừu trưởng thành giống Tibetian, Barwal, Kage, Lampuchher cân nặng lần lượt: 29,8; 32; 23,7 và 20-40kg; cũng theo tác giả một số giống cừu lai ½ (Polwarth x Kage); ¾ (Polwarth x Kage); ½ (Borderleicerter x Kage); ½ (Rambuillet x Kage) có khối lượng lần lượt: 28,7; 29,2; 30,5 và 28,6 kg. Theo kết quả của (Devendra và Faylon, 1989) giống cừu địa phương Philipine, cừu thuần Babados Blackbelly và lai Babados Blackbelly lúc trưởng thành (đực, cái) có khối lượng: 31,8-25,41 kg; 46,83- 30,92 kg; 38,83- 28,59 kg, các giống cừu địa phương đều có tầm vóc nhỏ trung bình thậm chí còn nhỏ hơn cừu Phan Rang, tuy nhiên, các giống lai ở các cặp lai sử dụng giống có tầm vóc lớn cho lai với các giống địa phương đã cải thiện tầm vóc đáng kể.



Khi so sánh với giống cừu bản địa (đực, cái) như cừu Horro (Ethiopia), theo (Tibbo và cs., 2006) chiều đo 12 tháng tuổi là vòng ngực 58,0 và 58,1 cm; cao vây 59,9 và 59,2 cm; dài thân chéo 58,1 và 57,6 cm; các chỉ tiêu kích thước cơ thể đều thấp hơn nhiều so với giống cừu Phan Rang nuôi ở hai vùng (bảng 1) điều này chứng tỏ chiều đo đánh giá sinh trưởng cừu Phan Rang dài hơn cừu Horro (Ethiopia) có thể khối lượng cừu Phan Rang lớn hơn giống cừu Horro. Theo (Faylon, 1989) trên cừu bản địa Philipin có chiều đo dài chân chéo, cao vây và vòng ngực lần lượt là 58,01; 57,57 và 72,04 cm có khối lượng 28,6 kg. Qua đó cho thấy chiều đo dài thân chéo và cao vây của cừu Phan Rang (66,31; 62,86 cm) có số đo dài hơn cừu Philippin nhưng chiều đo vòng ngực 72,58 cm là tương đương nhau, tuy về khối lượng có thấp hơn không nhiều so với cừu Philipin. Tác giả cũng cho rằng có thể dự đoán khối lượng cừu gần đúng dựa vào các chiều đo vòng ngực, dài thân chéo và cao vây.

3.4.2. Sinh trưởng tuyệt đối của cừu Phan Rang qua các tháng tuổi


(Devendra và Faylon, 1989) cho thấy tăng trọng hàng ngày của giống cừu địa phương Philipine ở giai đoạn sơ sinh đến 3 tháng; 3 đến 12 tháng, sơ sinh 12 tháng tuổi con đực, cái lần lượt là 75; 65; 34,2; 53,1; 56,1; 43,5 gam/con/ngày. Theo (Berhanu Bela và Aynalem Haile, 2011) đối với cừu Ethiopia ở phía tây giai đoạn 0-60 ngày và 0-180 ngày có tốc độ tăng khối lượng cao nhất lần lượt 140; 92 gam/con/ngày và sau đó giảm xuống chỉ còn 68,3 gam/con/ngày lúc 360 ngày tuổi. Theo (Abdul Wahid, 1989) ở cùng thời gian trên 4 giống cừu nuôi ở Malaysia có tốc độ tăng khối lượng trước cai sữa lần lượt 121,2; 87; 81; và 71 gam/con/ngày và sau cai sữa lần lượt: 51,5; 59,0;51 và 38 gam/con/ngày đối với Dorset Horn, ½ Dorset Horn, 3/4 Dorset Horn và cừu Malin. Theo (Fourie và cs., 2002) cừu đực Dorper ở Nam Phi giai đoạn 4-6 tháng tuổi tăng khối lượng trung bình 147 gam/con/ngày. Qua các kết quả nghiên cứu về một số giống cừu nhiệt đới và giống cải tiến, cho thấy có sự tăng khối lượng theo các giai đoạn tuổi khác nhau giữa các giống cừu và tăng khối khối lượng cao nhất ở giai đoạn trước cai sữa đồng thời tuân theo qui luật sinh trưởng theo giai đoạn. Tại sao như vậy vì đây là thời kỳ khủng hoảng dinh dưỡng nhất trong quá trình phát triển của cừu bởi vì chúng chưa tự cung cấp dinh dưỡng từ nguồn thức ăn thô xanh ngoài bãi chăn thả dẫn đến có sự khác biệt ở hai thời điểm trên về sinh trưởng. Sau đó tốc độ tăng khối lượng tuyệt đối giảm dần theo tháng tuổi, cường độ sinh trưởng của cừu từ giai đoạn sơ sinh đến 12 tháng tuổi ở cừu đực cao hơn so với cừu cái. Kết quả này cũng phù hợp với quy luật phát triển không đồng đều của gia súc và kết quả nghiên cứu về cừu Phan Rang của (Hoàng Thế Nha, 2003); (Đinh Văn Bình và Ngô Thành Vinh, 2010) mức độ tăng trọng của cừu chọn lọc Phan Rang ở đời con, đời cháu giai đoạn sơ sinh đến 3 tháng tuổi là cao nhất còn sau đó mức độ tăng trọng của cừu nuôi tại trại Ba Vì có xu thế giảm dần, mức độ tăng trọng thấp và cừu chuyển dần sang giai đoạn thành thục về tính và thể vóc.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với quy luật phát triển sinh học về sinh trưởng của gia súc và cũng tương đồng với các kết quả nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước, cường độ sinh trưởng tuyệt đối của cừu Phan Rang từ sơ sinh đến 180 ngày và 360 ngày nuôi ở Ba Vì và Ninh Thuận tuy rằng có sự khác nhau không nhiều nhưng vẫn tuân theo qui luật sinh trưởng. (Hoàng Thế Nha, 2003) cho rằng ở giai đoạn theo mẹ 3 tháng tuổi cừu nuôi ở Ba Vì, cừu con có tăng trọng nhanh nhất cả về sinh trưởng tuyệt đối và tương đối, kết quả này phù hợp với kết quả của chúng tôi trên cừu nuôi ở Ba Vì và Ninh Thuận. Còn theo (Josefina và Combellas, 1980); Langlands, 1973) khối lượng sơ sinh các giống cừu nhiệt đới ít biến động, cường độ sinh trưởng và khối lượng cai sữa của cừu nhiệt đới thấp hơn cừu ôn đới. Kết quả nghiên cứu của (Lavvaf Noshari và Farahvash, 2012) đối với giống cừu chuyên thịt ở các nước có khối lượng lớn hơn rất nhiều so với cừu Phan Rang, như lúc 3 tháng tuổi cừu Afshari và cừu Zandi ở Iran con đực, cái có khối lượng lần lượt: 24,75 và 29,69 kg và 6 tháng: 41,63; 40,59kg. Còn theo (Berhanu Bela và Aynalem Haile, 2011) đã đánh giá sự sinh trưởng của cừu ở huyện Dedo và Seka của Ethiopia và thấy chúng có cường độ sinh trưởng tuyệt đối trung bình từ sơ sinh đến 120 ngày con đực, cái tương ứng là 111,0; 103,35 gam/con/ngày đến 180 ngày là 95,4; 80,8 gam/con/ngày và đến 360 ngày là 72; 65 g/ngày. Tốc độ tăng tuyệt đối của cừu đều giảm dần theo độ tuổi, kết quả của chúng tôi về tăng khối lượng được ghi nhận phù hợp các kết quả nghiên cứu về cừu nhiệt đới ở một số nước về mức tăng khối lượng hàng ngày cho giai đoạn sinh trưởng từ sơ sinh đến 6 tháng tuổi và cao hơn 69,6 gam/ngày cho giai đoạn sơ sinh-80 ngày và thấp hơn so với báo cáo của (El-Fadili và cs., 2003) cừu Timahdit 181 gam/ngày cho tăng khối lượng giai đoạn 30-90 ngày. Sự khác nhau về tốc độ sinh trưởng của cừu trong các kết quả trên và kết quả sinh trưởng về cừu Phan Rang có thể do yếu tố về quản lý, chăm sóc nuôi dưỡng, bản chất di truyền, bệnh tật và các yếu tố khác.



Chỉ số cấu tạo thể hình liên quan đến một số chiều đo của cơ thể, cân khối lượng cơ thể hầu hết được ghi lại liên quan đến nghiên cứu trên tất cả gia súc. Cách đo được sử dụng nhiều nhất để đánh giá sự sinh trưởng của gia súc là chiều đo vòng ngực thông thường được sử dụng nhiều nhất, chính xác hơn chiều đo khác (Benyi, 1997). Thông qua các chỉ số cấu tạo thể hình cho chúng ta xác định thiên hướng sản xuất của các giống về cho thịt, cho sữa hay kiêm dụng.., giống khác nhau thì có chỉ số cấu tạo thể hình khác nhau. Qua kết quả trên cừu Phan Rang có chỉ số cấu tạo thể hình ổn định.

Каталог: uploads -> files -> Luan%20van
files -> Btl bộ ĐỘi biên phòng phòng tài chíNH
files -> Bch đOÀn tỉnh đIỆn biên số: 60 -hd/TĐtn-tg đOÀn tncs hồ chí minh
files -> BỘ NÔng nghiệP
files -> PHỤ LỤC 13 MẪU ĐƠN ĐỀ nghị HỌC, SÁt hạch đỂ CẤp giấy phép lái xe (Ban hành kèm theo Thông tư số 46/2012/tt-bgtvt ngày 07 tháng 11 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ gtvt) CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> TRƯỜng cao đẲng kinh tế KỸ thuật phú LÂm cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
files -> CHƯƠng trình hoạT ĐỘng lễ HỘi trưỜng yên năM 2016 Từ ngày 14 17/04/2016
files -> Nghị định số 79/2006/NĐ-cp, ngày 09/8/2006 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Dược
files -> MỤc lục mở ĐẦU 1 phần I. ĐIỀu kiện tự nhiêN, kinh tế, XÃ HỘI 5
files -> LỜi cam đoan tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận án này là trung thực, khách quan và chưa được ai bảo vệ ở bất kỳ học vị nào

tải về 1.46 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   ...   26




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương