BỘ giáo dụC ĐÀo tạo bộ y tế viện dinh dưỠng quốc gia tiếp thị XÃ HỘi vớI việc bổ sung sắt cho phụ NỮ CÓ thai dân tộc mưỜng ở HÒa bìNH



tải về 1.49 Mb.
trang3/34
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích1.49 Mb.
#20006
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   34

Danh mục bảng và sơ đồ



Bảng biểu


Hình/sơ đồ


MỞ ĐẦU


Suy dinh dưỡng bà mẹ và trẻ em là một vấn đề không mới nhưng theo Richard Horton – chủ biên tờ The Lancet đây là một khía cạnh của sức khỏe bà mẹ và trẻ em bị bỏ rơi một cách trầm trọng [76]. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh thiếu dinh dưỡng thể thấp còi, thiếu dinh dưỡng thể gày còm nặng và thiếu dinh dưỡng bào thai là những vấn đề quan trọng nhất [47]. Với cách tiếp cận của “dinh dưỡng theo vòng đời”, can thiệp dinh dưỡng sớm sẽ giúp tác động vào vòng xoắn của suy dinh dưỡng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Các can thiệp vào giai đoạn trước mang thai và trong khi mang thai của người phụ nữ được chứng minh là có thể giảm tới 50% thấp còi ở trẻ em. Các can thiệp này bao gồm chế độ ăn đầy đủ khi có thai, bổ sung sắt, axit folic, canxi và một số vi chất khác [116].

Trong các vấn đề dinh dưỡng ở phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ, thiếu máu thiếu sắt là vấn đề sức khỏe phổ biến và trên thế giới đã có rất nhiều nỗ lực trong hàng thập kỷ qua để triển khai các chương trình nhằm cải thiện tình trạng này. Tuy nhiên so với các vi chất dinh dưỡng khác (như Vitamin A và Iốt) thì những tiến bộ trong lĩnh vực này còn chưa nhiều. Sự hạn chế không phải do chúng ta thiếu những kiến thức khoa học về tỷ lệ mắc bệnh, nguyên nhân và hậu quả của thiếu máu thiếu sắt mà là do thiếu sự triển khai các can thiệp có hiệu quả và hoạt động truyền thông còn chưa đáp ứng được nhu cầu. Việc bổ sung sắt cho phụ nữ có thai và phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ muốn có hiệu quả thì không chỉ đơn thuần là cấp viên sắt cho đối tượng. Điều quan trọng là phải làm cho đối tượng hiểu và thực hành bổ sung viên sắt hợp lý. Đó là những thách thức đặt ra cho công tác truyền thông.

Ở các nước đang phát triển, việc triển khai các chương trình can thiệp trong đó có bổ sung viên sắt cho phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ thường là trách nhiệm của Nhà nước với sự hỗ trợ của các chương trình dự án và các tổ chức quốc tế về ngân sách, trang thiết bị và kỹ thuật. Tuy nhiên, trên thực tế, sự vận hành chương trình can thiệp này chưa được gắn kết chặt chẽ với nghiên cứu và truyền thông do đó hiệu quả của can thiệp phòng chống thiếu máu còn hạn chế. Có khá nhiều nghiên cứu tập trung vào các vấn đề như loại sắt bổ sung, liều sắt bổ sung, hay tần suất bổ sung, nhưng không nhiều nghiên cứu chú ý đến tìm giải pháp để có thể tăng cường hiệu quả của can thiệp như tăng độ bao phủ hay tuân thủ phác đồ bổ sung viên sắt [132]. Hơn thế nữa, các chương trình bổ sung viên sắt từ trước tới nay chủ yếu là cấp miễn phí do đó độ bao phủ không cao vì ngân sách hạn chế, chủ yếu tập trung ở những vùng khó khăn hoặc có dự án. Cách này không bền vững vì chỉ duy trì trong thời gian có dự án. Đứng trước những thách thức đó, cần có chương trình can thiệp huy động được các nguồn lực khác ngoài nguồn trợ cấp của Nhà nước và viện trợ, đó chính là vai trò của việc nâng cao nhận thức và thực hành của các đối tượng cần được bổ sung sắt cũng như gia đình của họ, và xây dựng được mô hình can thiệp bằng Tiếp thị xã hội, đây là một chiến lược cần thiết với chủ trương xã hội hóa công tác y tế của Nhà nước.

Ở Việt Nam có 54 dân tộc. Dân tộc đông nhất là dân tộc Kinh (Việt), chiếm 86,2% dân số. Các dân tộc thiểu số đông dân nhất là Tày, Thái, Mường, Hoa, Khmer, Nùng. Hmông, Dao, Giarai, Êđe. Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Mê kông [32].

Nói về mức độ nghèo, 75% dân tộc thiểu số phải đối mặt với nạn nghèo đói, so với 31% dân tộc Kinh. Trong các dân tộc thiểu số, phụ nữ thường bị ảnh hưởng bởi nạn nghèo đói nhiều hơn nam giới, do không có quyền ra quyết định, trình độ học thức còn thấp và ít có cơ hội, và điều này khiến họ trở thành những người nghèo nhất trong số những người nghèo [20]. Theo kết quả giám sát thường niên của Viện Dinh dưỡng, tỷ lệ suy dinh dưỡng còn rất cao ở các tỉnh miền núi, nơi tập trung đông đồng bào dân tộc thiểu số (vùng miền núi Tây bắc, Tây nguyên) với tỷ lệ nhẹ cân từ 25% đến 32% và thấp còi từ 37% đến 47% (14 tỉnh có tỷ lệ cao nhất)[4]. Tại Hòa Bình, dân tộc Mường chiếm tỷ lệ 63% dân số, cao nhất trong những dân tộc sinh sống ở đây. Những khó khăn về điều kiện địa lý, kinh tế xã hội và các yếu tố văn hoá đã ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng của người Mường nói chung và của phụ nữ có thai, trẻ em dưới 5 tuổi nói riêng. Vì vậy, các chương trình can thiệp dinh dưỡng quốc gia cần có sự quan tâm đặc biệt đến nhóm dân cư này.

Trong các giải pháp thực hiện, truyền thông giáo dục dinh dưỡng được coi là hoạt động trọng tâm và điểm nhấn mạnh là công tác này cần thực hiện theo đặc thù của vùng địa lý, dân tộc và dựa vào các bằng chứng hoặc nghiên cứu về dinh dưỡng và tập quán dinh dưỡng của từng địa phương và dân tộc [5]. Tuy nhiên ở Việt Nam, các nghiên cứu áp dụng mô hình tiếp thị xã hội lấy truyền thông thay đổi hành vi làm trọng tâm còn lẻ tẻ và chưa đưa ra được mô hình tiếp thị xã hội có tính khả thi và hiệu quả, đặc biệt với những vùng khó khăn, có dân tộc thiểu số. Vì đề tài nghiên cứu “Tiếp thị xã hội với việc bổ sung sắt cho phụ nữ có thai dân tộc Mường” được tiến hành nhằm thực hiện các mục tiêu sau:



  1. Mô tả các hành vi liên quan đến dinh dưỡng của phụ nữ có thai dân tộc Mường và tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến độ bao phủ và tuân thủ phác đồ bổ sung viên sắt của phụ nữ có thai dân tộc Mường.

  2. Đánh giá hiệu quả can thiệp tiếp thị xã hội và truyền thông dinh dưỡng đến chăm sóc dinh dưỡng và bổ sung sắt của phụ nữ có thai dân tộc Mường.


Giả thuyết nghiên cứu

Phụ nữ có thai dân tộc Mường cải thiện kiến thức và thực hành trong việc phòng chống thiếu máu thiếu sắt khi mang thai thông qua tiếp thị xã hội.


CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Thiếu máu dinh dưỡng do thiếu sắt và các giải pháp can thiệp

      1. Tầm quan trọng và nguyên nhân của thiếu máu dinh dưỡng do thiếu sắt


Thiếu máu là vấn đề sức khoẻ cộng đồng mang tính phổ biến. Nó liên quan chặt chẽ với gia tăng nguy cơ tử vong và bệnh tật, đặc biệt là ở phụ nữ có thai và trẻ nhỏ [130]. Trong hàng loạt các yếu tố nguyên nhân dẫn đến thiếu máu, cả từ dinh dưỡng (như thiếu các vitamin và khoáng chất) và không từ dinh dưỡng (như nhiễm khuẩn và các bệnh máu), thì thiếu sắt là nguyên nhân hàng đầu. Sắt đóng vai trò quan trọng trong tạo máu và tình trạng thiếu sắt còn phổ biến trong chế độ ăn của nhiều cộng đồng trên toàn thế giới, vì vậy người ta đánh giá thiếu máu thiếu sắt là một trong những yếu tố nguyên nhân chính dẫn đến thiếu máu chung trên toàn cầu [98].

        1. Каталог: FileUpload -> Documents
          Documents -> BỘ khoa học và CÔng nghệ
          Documents -> HÀ NỘI – 2013 BỘ giáo dụC ĐÀo tạo bộ y tế viện dinh dưỠNG
          Documents -> Phụ lục về cấp hạng khách quốc tế
          Documents -> CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam qcvn 01 78: 2011/bnnptnt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia thứC Ăn chăn nuôi các chỉ tiêu vệ sinh an toàn và MỨc giới hạn tốI Đa cho phép trong thứC Ăn chăn nuôI
          Documents -> TỔng cục dạy nghề
          Documents -> BỘ giáo dụC ĐÀo tạo bộ y tế viện dinh dưỠng nguyễn thị thanh hưƠng thực trạng và giải pháP
          Documents -> Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o bé y tÕ ViÖn dinh d­ìng Ph¹m hoµng h­ng HiÖu qu¶ cña truyÒn th ng tÝch cùc ®Õn ®a d¹ng ho¸ b÷a ¨n vµ
          Documents -> TỜ khai xác nhận viện trợ HÀng hóA, DỊch vụ trong nưỚC
          Documents -> Phụ lục I mẫU ĐƠN ĐỀ nghị ĐĂng ký LƯu hàNH

          tải về 1.49 Mb.

          Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   34




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương