BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị



tải về 4.74 Mb.
trang49/67
Chuyển đổi dữ liệu18.07.2016
Kích4.74 Mb.
#1917
1   ...   45   46   47   48   49   50   51   52   ...   67

Trả lời:

Đo đạc lập bản đồ địa chính là 01 trong 13 nội dung của quản lý nhà nước về đất đai và là công việc điều tra cơ bản ban đầu không thể thiếu để phục vụ việc đánh giá tình hình sử dụng đất để hoạch định chính sách đất đai, quy hoạch sử dụng đất, giao đất cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, lập hồ sơ địa chính, thanh tra, kiểm tra giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai... Do ý nghĩa quan trọng đó, ngày 26 tháng 11 năm 2007, Quốc hội khóa XII đã có Nghị quyết số 07/2007/NQ-QH, trong đó yêu cầu phải “Bằng nhiều nguồn vốn (thu từ đất đai, ODA...) ưu tiên đầu tư kinh phí thỏa đáng cho công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, đo đạc lập bản đồ địa chính, hồ sơ địa chính - căn cứ quan trọng, trước tiên để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…” và hoàn thành nhiệm vụ này trên phạm vi cả nước vào năm 2010.

Trong thời gian qua, do điều kiện Ngân sách nhà nước còn nhiều khó khăn, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã trình Chính phủ chỉ đạo thực hiện nhiều giải pháp đo đạc khác để tạm thời đáp ứng yêu cầu quản lý đất đai theo Chỉ thị số 299/CT-TTg, Chỉ thị số 10/1998/CT-TTg và Chỉ thị số 05/2006/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Trong năm 2007, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thực hiện rà soát, sửa đổi định mức kinh tế, kỹ thuật thành lập bản đồ địa chính và đã ban hành tại Quyết định số 12/2007/QĐ-BTNMT ngày 02 tháng 8 năm 2007, kết quả là chi phí lao động và vật tư kỹ thuật thực hiện đo đạc lập bản đồ địa chính đã giảm nhiều so với trước đây.

28/ Cử tri tỉnh Bắc Giang kiến nghị: Cử tri phản ánh thực trạng đất đai trên địa bàn có nhiều biến động, các bản đồ địa chính được đo vẽ từ thời điểm trước đến nay không còn phù hợp. Do đó, có nhiều khó khăn trong việc quản lý đất đai, đặc biệt trong việc giải quyết tranh chấp, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, đa số cử tri đề nghị Nhà nước đầu tư kinh phí để đo vẽ lại bản đồ địa chính nhằm nâng cao hiệu quả quản lý đất đai.

Trả lời:

Kiến nghị của cử tri là rất hợp lý, phù hợp với yêu cầu của quản lý nhà nước về đất đai. Tuy nhiên, việc đo vẽ lại bản đồ địa chính là công việc kỹ thuật đòi hỏi nhiều kinh phí, trong khi điều kiện Ngân sách nhà nước ở nhiều địa phương còn hạn chế, do đó tiến độ thực hiện còn rất chậm so với yêu cầu.

Để tháo gỡ khó khăn này, trong năm 2007, Bộ Tài nguyên và Môi trường thừa ủy quyền của Chính phủ đã có báo cáo Quốc hội khóa XII tại kỳ họp thứ 2 (Báo cáo số 93/BC-BTNMT về tình hình và giải pháp đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất); trên cơ sở đó Quốc hội đã có Nghị quyết số 07/2007/QH12, trong đó yêu cầu phải “ưu tiên đầu tư kinh phí thỏa đáng cho công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, đo đạc lập bản đồ địa chính, hồ sơ địa chính - căn cứ quan trọng, trước tiên để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Thực hiện Nghị quyết số 07/2007/QH12, Chính phủ đã có Nghị quyết số 02/2008/NQ-CP ngày 09 tháng 01 năm 2007 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán Ngân sách nhà nước năm 2008, trong đó đã giao cho UBND các tỉnh, thành phố “Bố trí tối thiểu 10% tổng số thu từ tiền sử dụng đất để thực hiện công tác đo đạc, lập cơ sở dữ liệu hồ sơ địa chính và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2008; phấn đấu đến năm 2010 cơ bản hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với tất cả các loại đất trên phạm vi toàn quốc.”. Thực hiện yêu cầu này, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang chỉ đạo các địa phương rà soát xác định cụ thể nhu cầu khối lượng phải thực hiện và dự toán kinh phí cần thiết để hoàn thành việc đo đạc bản đồ, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các địa phương; trên cơ sở đó Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ thống nhất với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ xem xét việc hỗ trợ cụ thể cho từng địa phương.

Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung thực hiện việc đo vẽ bản đồ địa chính mà không quan tâm, chú trọng việc quản lý biến động đất đai, chỉnh lý thường xuyên bản đồ địa chính và hồ sơ địa chính theo quy định của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì mọi sự cố gắng của Nhà nước để hoàn thành việc đo vẽ bản đồ địa chính sẽ nhanh chóng trở nên vô giá trị và sẽ gây nên sự lãng phí rất lớn cho xã hội. Vì vậy, Bộ Tài nguyên và Môi trường mong muốn cử tri quan tâm, có ý kiến với chính quyền địa phương và tham gia kiểm soát việc thực hiện quản lý biến động đất đai, chỉnh lý bản đồ và hồ sơ địa chính ở địa phương nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng bản đồ địa chính, hạn chế và đi đến chấm dứt tình trạng đo lại bản đồ địa chính như ở một số nơi hiện nay.



29/ Cử tri thành phố Hà Nội kiến nghị: Cử tri cho rằng khái niệm “nơi ở mới phải bằng hoặc hơn nơi ở cũ” trong đền bù giải phóng mặt bằng là khái niệm trừu tượng khó thực hiện trong thực tiễn, đây là nguyên nhân gây khó khăn cho công tác đền bù, giải phóng mặt bằng. Đề nghị Chính phủ giải thích khái niệm này.

Cử tri đề nghị giải thích về quy định “diện tích quá 300 m2 thì được coi là diện tích vườn liền kề”. Hiện nay một số gia đình thừa kế đất thổ cư có nhiều hơn 300 m2; có người mua hơn 300 m2 thì có được coi là đất liền kề không?

Cử tri cho rằng quy định các dự án không dùng tiền ngân sách khi thuê đất phải tự thỏa thuận với người dân là không khả thi. Đề nghị Nhà nước nghiên cứu sửa đổi quy định này.

Trả lời:

a) Điều 42 Luật Đất đai năm 2003 quy định khu tái định cư phải có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ. Quy định này nhằm đảm bảo ổn định đời sống cho người có đất bị thu hồi mà phải di chuyển chỗ ở. Việc đảm bảo ổn định cuộc sống phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: vị trí, điều kiện cơ sở hạ tầng, điều kiện tự nhiên, điều kiện sản xuất kinh doanh, môi trường, mức độ thụ hưởng công trình phúc lợi công cộng… Mức độ quan trọng của các yếu tố này phụ thuộc vào từng đối tượng sử dụng đất cụ thể (do nghề nghiệp, phong tục tập quán, quan niệm về chỗ ở khác nhau). Vì vậy, để quy định chi tiết được khái niệm “nơi ở mới bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ” phải được cụ thể hoá bằng các văn bản dưới Luật (Nghị định, Thông tư…).

Cụ thể là, để hướng dẫn thực hiện quy định trên, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, trong đó quy định: trước khi bố trí đất ở cho các hộ gia đình, cá nhân, khu tái định cư phải xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ (trong đó phải đảm bảo: cở sở hạ tầng về đường giao thông, đường điện, đường nước và các hạ tầng xã hội khác như nhà trẻ, trường học…) tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ; phương án tái định cư phải lấy ý kiến của người có đất bị thu hồi trước khi phê duyệt; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương quyết định các biện pháp và mức hỗ trợ cụ thể để ổn định đời sống và sản xuất tại khu tái định cư.

b) Trường hợp cử tri nêu có thể hiểu diện tích đất “vườn liền kề” là diện tích đất vườn, ao (đất nông nghiệp) trong cùng thửa đất có nhà ở thuộc khu dân cư nhưng không được công nhận là đất ở. Nếu người nhận chuyển nhượng đất vườn, ao không được công nhận là đất ở thì phải sử dụng đất vào mục đích sản xuất nông nghiệp.

c) Về việc nhà đầu tư phải tự thỏa thuận với người sử dụng đất để nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất đối với trường hợp thực hiện dự án không thuộc diện Nhà nước thu hồi đất: vấn đề này đang được nghiên cứu để xem xét, sửa đổi trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai trình Quốc hội khóa XII xem xét, thông qua.

BỘ QUỐC PHÒNG

1/ Cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị: Cử tri đề nghị xem xét, bổ sung thêm những người đã tham gia các đơn vị vũ trang chiến đấu chống ngoại xâm giải phóng dân tộc, làm nhiệm vụ quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn sau 30/4/1975 được hưởng quyền lợi như cựu chiến binh; chế độ bảo hiểm mai táng phí… được quy định trong Nghị định 150/2006/NĐ-CP ngày 12/12/2006 về hướng dẫn thi hành một số điều pháp lệnh cựu chiến binh.

Trả lời (tại công văn số 4334/BQP-VP ngày 25/8/2008 của Bộ Quốc phòng):

Pháp lệnh Cựu chiến binh đã được triển khai thực hiện; Bộ Quốc phòng xin ghi nhận ý kiến, kiến nghị của cử tri về việc cần có chế độ, chính sách đối với những người trực tiếp tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế giai đoạn sau 30/4/1975 để tiếp tục phối hợp với các cơ quan chức năng nghiên cứu, đề xuất nhà nước xem xét.



2/ Cử tri tỉnh Quảng Trị kiến nghị: Quyết định số 188/2007/QĐ-TTg ngày 06/12/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 290/2005/QĐ-TTg ngày 08/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ, chính sách đối với một số đối tượng trực tiếp tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước nhưng chưa được hưởng chính sách của Đảng và Nhà nước, tại khoản 3, Điều 1 có bổ sung đối tượng dân quân tập trung trực tiếp tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước thuộc 7 xã giáp ranh bên bờ sông Bến Hải và 5 xã nằm trong khu quân sự thuộc huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị được nhân dân rất hoan nghên nhưng xã Vĩnh Khê, một xã nằm giữa xã Vĩnh Ô và xã Vĩnh Hà lại chưa được hưởng chế độ này. Đề nghị Bộ Quốc Phòng trình Thủ tướng Chính phủ cho bổ sung thêm cho đối tượng dân quân tập trung của xã Vĩnh Khê cũng được hưởng chế độ trên.

Trả lời (tại công văn số 4335/BQP-VP ngày 25/8/2008 của Bộ Quốc phòng):

Theo quy định tại Quyết định số 188/2007/QĐ-TTg ngày 16/12/2007 của Thủ tướng Chính phủ, đối với đối tượng dân quân tập trung của xã Vĩnh Khê, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, Bộ Quốc phòng đề nghị cấp ủy, chính quyền tỉnh Quảng Trị chỉ đạo BCHQS tỉnh Quảng Trị và các cơ quan liên quan xác minh, đề xuất và báo cáo bằng văn bản về Bộ Tư lệnh Quân khu 4 và Ban chỉ đạo 38B Bộ Quốc phòng để Liên bộ Quốc phòng – Lao động – Thương binh xã hội nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.



3/ Cử tri tỉnh Hải Dương kiến nghị: Đề nghị Nhà nước giải quyết chế độ cho những quân nhân trong chiến đấu đã được hưởng huân chương nhưng chưa được hưởng chế độ.

Nghị định 159 ngày 28/12/2006 của Chính Phủ qui định cho quân nhân tham gia chiến đầu có thời gian từ 20 năm trở lên chưa được hưởng chế độ gì thì được hưởng chế độ hưu trí. Tuy nhiên qua điều tra thực tế, số quân nhân tham gia chiến đấu từ 15 năm đến 19 năm chiếm rất nhiều, song theo qui định của Nghị định 159 thì không được hưởng. Đề nghị Chính phủ nghiên cứu sửa thời gian được hưởng trong Nghị định, để quân nhân này được hưởng chế độ hưu trí.

Cũng theo Nghị định 159 ngày 28/12/2006 của Chính Phủ, qui định quân nhân nhập ngũ trước ngày 30/4/1975 được hưởng chế độ bảo hiểm y tế và mai táng phí khi từ trần. Song hiện nay chế độ này mai táng phí vẫn chưa được hưởng. Đề nghị Chính phủ quan tâm.

Trả lời (tại công văn số 4336/BQP-VP ngày 25/8/2008 của Bộ Quốc phòng):

- Về ý kiến đề nghị Nhà nước giải quyết chế độ cho những quân nhân trong chiến đấu đã được hưởng huân chương nhưng chưa được hưởng chế độ, Bộ Quốc phòng xin được ghi nhận để phối hợp với các cơ quan chức năng đề nghị Nhà nước xem xét;

- Quân nhân tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ 15 đến 20 năm công tác trong quân đội không thuộc đối tượng thực hiện chế độ hưu trí theo quy định tại Nghị định số 159/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của Chính phủ. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị (tại Thông báo số 186-TB/TƯ ngày 01/6/2005 của Ban chấp hành Trung ương); Bộ Quốc phòng đã chủ trì, phối hợp với các Bộ ngành chức năng nghiên cứu, hoàn chỉnh và đang trình Chính phủ và Bộ Chính trị về đề án chính sách đối với quân nhân tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước có dưới 20 năm công tác trong quân đội đã phục viên, xuất ngũ về địa phương (trong đó xác định cụ thể chế độ cho từng đối tượng) và sẽ được ban hành trong thời gian tới.

- Chế độ mai táng phí quy định tại Nghị định số 159/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của Chính phủ nói riêng và các văn bản quy định khác nói chung chỉ được thực hiện sau khi đối tượng từ trần.

Trường hợp đối tượng đã từ trần mà chưa được giải quyết chế độ mai táng phí, đề nghị cử tri phản ánh với chính quyền địa phương nơi cư trú và ngành Lao động, Thương binh và xã hội để được giải quyết theo quy định của Chính phủ.

4/ Cử tri tỉnh Nam Định kiến nghị: Một số địa phương đề nghị Bộ Quốc phòng nghiên cứu chỉ đạo cho các đơn vị nhận giao quân sớm hơn, không nên để thời gian giao nhận quân qúa dài như vừa qua, gây khó khăn cho cơ sở xã, phường, thị trấn trong công tác quản lý quân tại địa phương.

Trả lời (tại công văn số 4345/BQP-VP ngày 25/8/2008 của Bộ Quốc phòng):

Tại Điều 21, Luật Nghĩa vụ quân sự quy định: “Hàng năm việc gọi công dân nhập ngũ và số lượng gọi nhập ngũ trong năm do Chính phủ quy định. Việc gọi công dân nhập ngũ được tiến hành theo lệnh của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng”.

Từ năm 2005 trở về trước, cơ bản cả nước thực hiện tuyển quân một đợt/năm, thời gian giao, nhận quân thường từ ngày 14 – 20 tháng giêng âm lịch (sau Tết Nguyên Đán khoảng 14 – 15 ngày). Từ năm 2006 đến nay, thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2005, cả nước thực hiện tuyển quân 2 đợt/năm (cấp tỉnh 2 đợt, cấp huyện 1 đợt).

Từ năm 2008 trở đi thời gian giao quân đợt 1 vào đầu tháng 3, đợt 2 vào đầu tháng 9 dương lịch, so với các năm trước, thời gian giao nhận quân đợt 1 cách xa Tết Nguyên Đán khoảng 1 tháng (hoặc 1,5 tháng nếu năm đó có tháng nhuận), đợt 2 vào đầu tháng 9 (cũ là tháng 10). Những địa phương được giao chỉ tiêu tuyển quân đợt 2 gặp khó khăn hơn về thời tiết (mùa bão lụt) và cả việc tập trung thanh niên đi làm ăn xa về để khám tuyển, gọi nhập ngũ. Thời gian cần và đủ để thực hiện công tác tuyển quân mỗi đợt khoảng từ 2 – 2,5 tháng.

Qua 3 năm thực hiện tuyển quân 2 đợt/năm, cơ bản các địa phương trong cả nước nhận thấy quỹ thời gian đang thực hiện là phù hợp. Tùy theo tình hình cụ thể của từng địa phương, lấy thời điểm giao quân để tính toán thời gian làm công tác chuẩn bị cho phù hợp và thực hiện đúng quy trình theo quy định của pháp luật. Mặt khác, thời gian tuyển quân, thời điểm giao nhận quân như trên là phù hợp với nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị trong quân đội.

5/ Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Đề nghị nghiên cứu điều chỉnh một số nội dung quy định đối tượng được hưởng chế độ theo Nghị định 290. Vì thực tế hiện nay, áp dụng theo quy định này thì bỏ sót rất nhiều trường hợp tham gia kháng chiến nhưng chưa được hưởng chế độ đãi ngộ nào. Đề nghị Nhà nước xem xét có chế độ chính sách phù hợp với các đối tượng bộ đội chống Pháp, chống Mỹ không thuộc diện hưởng chính sách và đối tượng 176 hiện nay đời sống gặp rất nhiều khó khăn. Đề nghị nâng chế độ 202 và chế độ tiền tuất.

Trả lời (tại công văn số 4337/BQP-VP ngày 25/8/2008 của Bộ Quốc phòng):

- Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính tri (tại Thông báo số 186-TB/TƯ ngày 01/6/2005 của Ban Chấp hành Trung ương), Bộ Quốc phòng đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành chức năng trình Chính phủ và Bộ Chính trị cho chủ trương về đề án chính sách đối với quân nhân tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước có dưới 20 năm công tác trong quân đội và đã phục viên, xuất ngũ về địa phương (trong đó xác định cụ thể cho từng đối tượng) và sẽ được ban hành trong thời gian tới.

- Về nghiên cứu, đề xuất chính sách đối với đối tượng về thôi việc theo chế độ 176 và đề nghị nâng chế độ 202, chế độ tiền tuất không thuộc chức năng của Bộ Quốc phòng. Đề nghị Bộ Lao động, thương binh và xã hội xem xét giải quyết theo phạm vi chức năng.

6/ Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị: Đề nghị điều chỉnh, bổ sung một số chế độ, chính sách đối với bộ đội phục viên như: sớm có chế độ quân nhân phục viên có dưới 20 năm phục vụ trong quân đội nhân dân; tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho sỹ quan quân đội nghỉ hưu; chế độ mai táng phí cho cựu chiến binh hiện nay chưa thực hiện được vì quy định phải có huân, huy chương. Mà đại đa số cựu chiến binh mới chỉ được cấp giấy chứng nhận được cấp huân, huy chương chưa chưa được cấp huân huy chương, mặc dù đã kê khai từ lâu.

Trả lời (tại công văn số 4338/BQP-VP ngày 25/8/2008 của Bộ Quốc phòng):

- Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị (tại Thông báo số 186-TB/TƯ ngày 01/6/2005 của Ban chấp hành Trung ương); Bộ Quốc phòng đã chủ trì, phối hợp với các Bộ ngành chức năng nghiên cứu, hoàn chỉnh và đang trình Chính phủ và Bộ Chính trị về đề án chính sách đối với quân nhân tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước có dưới 20 năm công tác trong quân đội đã phục viên, xuất ngũ về địa phương (trong đó xác định cụ thể chế độ cho từng đối tượng) và sẽ được ban hành trong thời gian tới.

- Cán bộ quân đội nghỉ hưu đã có chế độ bảo hiểm y tế, đề nghị các đồng chí trực tiếp khám sức khỏe thường xuyên tại các bệnh viện theo quy định.

- Về vướng mắc trong việc thực hiện chế độ mai táng phí đối với Cựu chiến binh, Bộ Quốc phòng xin ghi nhận và sẽ sớm có ý kiến phản ánh với Hội Cựu chiến binh các cấp và các cơ quan chức năng liên quan xem xét, giải quyết.



7/ Cử tri thành phố Đà Nẵng kiến nghị: Cử tri trong quân đội phản ánh và đề nghị Bộ Quốc phòng nghiên cứu giải quyết:

+ Chính sách thanh toán chế độ tàu xe khi nghỉ phép cho sĩ quan, chiến sĩ trong quân đội còn nhiều bất cập, chỉ thanh toán có cự ly đường dài từ 500km trở lên, còn cự ly dưới 500km không được thanh toán.

+ Việc phong quân hàm cần quy định rõ: trường hợp nào được phong và trường hợp nào được vận dụng để phong quân hàm nhằm tránh sự vận dụng tùy tiện trên thực tế. Quân hàm theo Luật sĩ quan năm 1999 thấp hơn Luật sĩ quan năm 1982 là 01 bậc; cấp quân hàm cho cùng vị trí tương đương ở lực lượng Công an cao hơn quân đội (ví dụ: cấp bậc hàm của Trưởng Công an huyện là Thượng tá; cấp bậc quân hàm của Huyện đội là Trung tá) trong khi nhiệm vụ triển khai của lực lượng của lực lượng quân đội rất nặng nề như các lực lượng vũ trang khác.

Trả lời (tại công văn số 4323/BQP-VP ngày 25/8/2008 của Bộ Quốc phòng):

1/ Về chính sách thanh toán chế độ tàu xe khi nghỉ phép cho sĩ quan, chiến sĩ trong quân đội còn nhiều bất cập, chỉ thanh toán có cự ly đường dài từ 500km trở lên, còn cự ly dưới 500km không được thanh toán.

a/ Đối với người hưởng lương:

- Điều 8, Nghị định số 25/CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ quy định: “Bãi bỏ các chế độ bù tiền điện, tiền nhà ở, tiền học… và đi phép hàng năm (trừ một số đối tượng, giao cho liên Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội – Tài chính – Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ hướng dẫn cụ thể)”.

- Thông tư số 108 TC/HCVX ngày 30/12/1993 của Bộ Tài chính về chế độ phụ cấp tiền tàu xe cho công nhân viên chức nhà nước đi nghỉ phép hàng năm quy định: “Công chức, viên chức hành chính sự nghiệp, công nhân viên chức trong các doanh nghiệp nhà nước; quân nhân và công an nhân dân (thuộc diện hưởng lương) đang công tác ở miền núi và hải đảo có được nghỉ lao động hàng năm theo chế độ quy định; hoặc nghỉ phép đi thăm người thân trong một số trường hợp đặc biệt được thanh toán tiền tàu xe cả lượt đi và lượt về theo giá cước thông thường của nhà nước”.

- Căn cứ vào quy định trên và đặc điểm hoạt động của quân đội, Bộ Quốc phòng đã có hướng dẫn: “Người hưởng lương nghỉ phép thăm gia đình mà đơn vị đóng quân xa gia đình từ 500 km trở lên; trường hợp cá biệt gia đình ở đồng bằng mà đóng quân ở miền núi xa xôi hẻo lánh hoặc gia đình ở miền núi xa xôi hẻo lánh mà đóng quân ở đồng bằng từ cự ly 300 km trở lên cũng được vận dụng thanh toán vé tàu xe cả lượt đi và về.

Trường hợp nghỉ phép đặc biệt được thanh toán tiều tàu xe cả đi và về”.

b/ Đối với hạ sĩ quan, binh sĩ:

Khi nghỉ phép được thanh toán tiền vé tàu, vé xe và tiền phụ cấp thời gian đi trên đường theo chế độ quy định hiện hành. Trường hợp đủ tiêu chuẩn đi phép nhưng do yêu cầu nhiệm vụ không thể nghỉ phép được thì thủ trưởng từ cấp trung đoàn trưởng và tương đương trở lên xét duyệt, quyết định cho thanh toán bằng tiền. Mức thanh toán một ngày không nghỉ phép bằng tiền ăn một ngày của hạ sỹ quan, binh sỹ bộ binh.

Như vậy, việc thanh toán tiền tàu xe đi phép cho sỹ quan, chiến sỹ trong quân đội là đúng với chế độ quy định hiện hành.

2/ Việc phong quân hàm cần quy định rõ: trường hợp nào được phong và trường hợp nào được vận dụng để phong quân hàm nhằm tránh sự vận dụng tùy tiện trên thực tế. Quân hàm theo Luật sĩ quan năm 1999 thấp hơn Luật sĩ quan năm 1982 là 01 bậc; cấp quân hàm cho cùng vị trí tương đương ở lực lượng Công an cao hơn quân đội

a/ Quyết định phong quân hàm lần đầu vào đội ngũ sĩ quan:

Theo Quyết định số 64/ĐUQHTW ngày 15/7/1993 và Nghị quyết số 187/ĐUQSTW ngày 04/9/2003 đối tượng được phong quân hàm sĩ quan là:

- Học viên tốt nghiệp đào tạo sĩ quan;

- QNCN, CCQP giữ chức diện bố trí là sĩ quan;

- Sĩ quan dự bị tuyển dụng từ sinh viên tốt nghiệp đại học vào phục vụ trong quân đội.

Vào đội ngũ sĩ quan lần đầu nên được xét duyệt rất chặt chẽ, phải đảm bảo tiêu chuẩn không có vận dụng.

b/ Thăng hàm cho sĩ quan:

Căn cứ theo bậc quân hàm cao nhất của chức vụ sĩ quan đang đảm nhiệm (trần quân hàm), nếu có trần và đủ điều kiện tiêu chuẩn theo quy định thì được đề bạt quân hàm. Tuy nhiên, trong xem xét, Thường vụ ĐUQSTW có xét vận dụng đối với các đồng chí đến hạn nâng lương lần 2 (8 năm giữ cấp) chất lượng tốt hoặc những đồng chí quá trình công tác có nhiều thành tích xuất sắc đã trải qua chiến đấu.

c/ Về cấp hậc quân hàm của Chỉ huy trưởng huyện đội:

Tại khoản 1, Điều 15, Luật sĩ quan năm 1999 quy định Chỉ huy trưởng huyện đội có bậc quân hàm cao nhất là Trung tá. Nhưng tại khoản 3, Điều 15, Luật sĩ quan năm 1999 quy định: “Sĩ quan ở đơn vị có nhiệm vụ đặc biệt hoặc ở lực lượng quân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trọng yếu theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thì cấp bậc quân hàm cao nhất, cao hơn một bậc so với cấp bậc quân hàm cao nhất của chức vụ tương ứng quy định tại khoản 1, điều này.” Vì vậy, trong những năm qua, Thường vụ ĐUQSTW đã xét Chỉ huy trưởng huyện đội ở các tỉnh trọng yếu được đề bạt quân hàm cao hơn một bậc là Thượng tá.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sĩ quan năm 1999 được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3 thông qua, có hiệu lực từ ngày 01/7/2008 quy định: Chỉ huy trưởng, Chính trị viên Ban CHQS huyện, Trung đoàn trưởng, Chính ủy trung đoàn cấp bậc quân hàm cao nhất là Thượng tá.



8/ Cử tri tỉnh Hà Tây (cũ) kiến nghị: Cử tri huyện Mỹ Đức phản ánh đất tại xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức trước đây giao cho Quân chủng Phòng không không quân để xây dựng sân bay Miếu Môn nhưng đến nay vẫn chưa triển khai sử dụng theo kế hoạch. Cử tri đề nghị nếu các đơn vị không triển khai xây dựng đúng mục đích sử dụng đất thì giao đất lại cho nhân dân địa phương để canh tác.

Trả lời (tại công văn số 4321 /BQP-VP ngày 25/8/2008 của Bộ Quốc phòng):

Sân bay Miếu Môn được quy hoạch thuộc hệ thống sân bay toàn quốc đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 911/1997/QĐ-TTg ngày 24/10/1997, diện tích chiếm đất khoảng 208 ha, nằm về phía Tây Nam Thủ đô Hà Nội với mục tiêu xây dựng thành sân bay quân sự cấp I; thực hiện nhiệm vụ Bộ Quốc phòng giao, Quân chủng phòng không – không quân đã tiến hành lập quy hoạch tổng thể và được Bộ Quốc phòng phê duyệt tại Quyết định số 83/QĐ-BQP ngày 17/01/2006. Sau quy hoạch tổng thể, Quân chủng Phòng không – không quân đã phối hợp với các sở, ban ngành của tỉnh Hà Tây xác định xong mốc giới theo các biên bản cắm mốc giới đã được lập ngày 30/7/2007 và ngày 30/9/2007; căn cứ quy hoạch tổng thể được duyệt, Quân chủng Phòng không – không quân đang thực hiện quy hoạch chi tiết để triển khai đền bù giải phóng mặt bằng, thu hồi đất theo Luật Đất đai trong chỉ giới dự án quy hoạch và triển khai xây dựng theo tiến độ cấp vốn. Tuy nhiên, hiện nay do chưa lập xong quy hoạch chi tiết, chưa thực hiện đền bù giải phóng mặt bằng với nhân dân địa phương nên nhân dân địa phương vẫn tiếp tục canh tác bình thường nhưng không được trồng cây lâu năm và xây dựng các công trình vĩnh cửu trong khu vực dự án.



9/ Cử tri tỉnh Hà Nam kiến nghị: Cử tri đề nghị nghiên cứu, xem xét chính sách đối với người tham gia Bộ đội từ 30/4/1975 trở về trước, nhưng chưa đủ 20 năm hiện nay sức khỏe yếu, bệnh tật đang gặp khó khăn.

Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn số: 1588

tải về 4.74 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   45   46   47   48   49   50   51   52   ...   67




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương