BỘ giáo dục và ĐÀo tạo bộ CÔng thưƠng viện nghiên cứu thưƠng mại nguyễn thị ĐƯỜng giải pháP ĐẨy mạnh xuất khẩu hàng nông sản việt nam vào thị trưỜng trung quốc luậN Án tiến sỹ kinh tế



tải về 1.85 Mb.
trang1/17
Chuyển đổi dữ liệu23.08.2016
Kích1.85 Mb.
#26554
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17




BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ CÔNG THƯƠNG

VIỆN NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI

NGUYỄN THỊ ĐƯỜNG

GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC
LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ CÔNG THƯƠNG

VIỆN NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI

NGUYỄN THỊ ĐƯỜNG
GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC

Chuyên ngành: Thương mại

Mã số: 62.34.10.01

LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ


Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Nguyễn Văn Lịch

2. GS.TS Đỗ Đức Bình
HÀ NỘI - 2012


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của Đề tài

Là một quốc gia Đông Nam Á, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, với dân số hơn 86 triệu người, trong đó hơn 70% là nông dân nên sản xuất nông nghiệp vẫn đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của đất nước.

Việt Nam có diện tích 330.363 km², trong đó diện tích đất nông nghiệp khoảng 10,5 triệu ha, chiếm 1/3 diện tích cả nước, bao gồm nhiều loại thổ nhưỡng có giá trị cao như đất đỏ Bazan, đất phù sa rất thích hợp để phát triển các loại cây công nghiệp, cây rau mầu và cây lương thực. Với tài nguyên đất đai, khí hậu và địa hình đa dạng là các lợi thế về điều kiện tự nhiên cho sản xuất và xuất khẩu nông sản.

Thực tiễn hoạt động kinh tế đối ngoại trong những năm gần đây cho thấy xuất khẩu nông sản có một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, chiếm 14 -15% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Xuất khẩu nông sản tạo ra nguồn vốn quan trọng để tiến hành công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sử dụng có hiệu quả nhất nguồn lực và lợi thế quốc gia, tạo công ăn việc làm, giữ ổn định nền kinh tế đất nước, mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại và tăng cường địa vị kinh tế của Việt Nam trên thị trường thế giới.

Trong các thị trường xuất khẩu nông sản Việt Nam, Trung Quốc có vai trò rất quan trọng. Đây là thị trường lớn với hơn 1,3 tỷ người tiêu dùng, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và đang trong quá trình chuyển đổi mạnh về cơ cấu kinh tế nên có nhu cầu ngày càng lớn về các loại nông sản để phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng. Xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ và Trung Quốc đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn và quan trọng của nông sản Việt Nam. Năm 2010, xuất khẩu các loại nông sản như: cao su, gạo, chè, cà phê, hạt điều, rau quả, sắn và các sản phẩm từ sắn vào Trung Quốc đạt giá trị 2,31 tỷ USD, chiếm 22,48% tổng kim ngạch xuất khẩu các loại nông sản trên của cả nước và chiếm 31,55% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá Việt Nam vào Trung Quốc. Một yếu tố cần lưu ý là thị phần cho các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam trong tổng kim ngạch nhập khẩu nông sản của Trung Quốc vẫn nhỏ nên không gian cho xuất khẩu nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc còn rất lớn.

Tuy nhiên, xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc thời gian qua còn nhiều tồn tại, hiệu quả xuất khẩu thấp do cơ cấu hàng xuất khẩu chậm được khắc phục, chủ yếu xuất khẩu nông sản dưới dạng thô, không thương hiệu nên giá trị gia tăng thấp, thậm chí ngay cả xuất thô cũng làm chưa tốt nên hiệu quả xuất khẩu không cao. Chất lượng hàng nông sản xuất khẩu còn nhiều tồn tại, vấn đề về giống và kỹ thuật canh tác mới còn thấp so với yêu cầu và thấp hơn nhiều quốc gia trên thế giới. Công nghệ chế biến và bảo quản sau thu hoạch rất lạc hậu, việc thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được giải quyết cơ bản. Hình thức xuất khẩu chưa hợp lý, chủ yếu theo đường biên mậu nên tiềm ẩn đầy rủi ro và luôn bị động đối phó với những thay đổi trong chính sách biên mậu của Trung Quốc. Các nhà xuất khẩu Việt Nam chủ yếu chạy theo lợi ích ngắn hạn, năng lực tiếp cận thị trường rất yếu, thiếu thông tin và không cập nhật được các thay đổi trong chính sách sau khi Trung Quốc gia nhập WTO nên không tận dụng được những ưu đãi thuế quan và khả năng mở rộng thương mại rất khó khăn. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên thì có nhiều, bao gồm cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó nguyên nhân khách quan chủ yếu là Trung Quốc và Việt Nam đã gia nhập WTO và việc hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đã đưa quan hệ thương mại giữa hai nước bước sang một giai đoạn mới, chứa đựng nhiều cơ hội cũng như đặt ra nhiều thách thức.

Để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam vào Trung Quốc trong những năm tới cần tận dụng tốt cơ hội từ sự phát triển của thị trường này với phương châm chia sẻ lợi ích theo nguyên tắc thị trường và các cam kết thương mại quốc tế, kinh doanh thương mại bình đẳng theo đúng khuôn khổ của WTO. Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, nâng cao hiệu quả xuất khẩu chủ yếu dựa vào gia tăng hàm lượng chế biến để nâng cao giá trị. Khai thác có hiệu quả lợi thế về vị trí địa lý gần kề để giảm chi phí vận chuyển, nâng cao sức cạnh tranh cho nông sản tại thị trường Trung Quốc.

Từ những phân tích trên đây, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc ” cho Luận án tiến sỹ của mình.



2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Ngoài nước: Quan hệ thương mại Việt - Trung là một chủ đề thu hút sự quan tâm của nhiều tổ chức và chuyên gia quốc tế, chủ yếu tập trung vào:

- Tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO tới nền kinh tế thế giới và các nước trong khu vực.

- Tác động của việc hình thành khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc.

- Tác động của việc Việt Nam và Trung Quốc tham gia vào các hiệp định thương mại khu vực, song phương và đa phương đối với lợi ích thương mại của hai nước.

Một số công trình tiêu biểu sau:

- Nhóm chuyên gia về Hợp tác kinh tế ASEAN - Trung Quốc (2001) nghiên cứu về Tác động của việc hình thành khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc đến lợi ích thương mại toàn cầu.

- Elena Ianchovichina, Suthiwart - Narueput và Min Zhao (2002) nghiên cứu Đánh giá về tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với giá trị xuất khẩu của các ngành hàng ở các nước châu Á, trong đó có Việt Nam trong giai đoạn 2001 - 2010.

- Toh Mun Heng and Vasudevan Gayathri (2004) nghiên cứu về Tác động của tự do hóa thương mại khu vực đối với các nền kinh tế mới nổi: trường hợp Việt Nam đăng tải trên Tạp chí ASEAN Economic Bulletin.



Trong nước: Trung Quốc là thị trường trọng điểm, có tính chiến lược của Việt Nam. Quan hệ chính trị, kinh tế, thương mại, đầu tư giữa hai nước đang ở vào giai đoạn phát triển mạnh. Chính vì vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp, các ngành về quan hệ thương mại Việt - Trung, điển hình là những nghiên cứu:

- PGS.TS. Nguyễn Văn Lịch với một số nghiên cứu như: Phát triển thương mại trên hành lang kinh tế trong điều kiện hình thành khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc (2004); Phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây (2005)...và một số công trình nghiên cứu về những điều kiện phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với khu vực Tây Nam Trung Quốc.

- TS. Trịnh Minh Anh (2003), “Tác động của việc hình thành khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc đến kinh tế thương mại Việt Nam” đã nghiên cứu về tác động của ACFTA đối với kinh tế Việt Nam và quan hệ hợp tác hai nước trên các lĩnh vực thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ.

- Ths. Đỗ Kim Chi (2004), “Tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với cạnh tranh của một số mặt hàng xuất khẩu Việt Nam” đã nghiên cứu những tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với sức cạnh tranh của một số nhóm hàng xuất khẩu Việt Nam như nông sản, dệt may...

- Vụ châu Á Thái Bình Dương - Bộ Thương Mại (2004), “Định hướng và giải pháp phát triển xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Trung Quốc giai đoạn 2006 - 2010” đã phân tích thực trạng xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Trung Quốc giai đoạn 2000 - 2005 và dự báo các mặt hàng xuất khẩu giai đoạn 2006 - 2010, đề xuất các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu.

- Dự án VIE/61/94: “Hỗ trợ xúc tiến thương mại và phát triển xuất khẩu tại Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do ITC và Cục xúc tiến thương mại thực hiện đã đề xuất định hướng xây dựng chiến lược xuất khẩu quốc gia, đánh giá tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam.

- Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2001): Với đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Nâng cao năng lực cạnh tranh hàng nông lâm sản” đã phân tích những yếu kém về phương diện sản xuất khiến hàng nông, lâm sản Việt Nam cạnh tranh kém trên thương trường.

- Ths. Trịnh Thị Thanh Thủy với đề tài “Các giải pháp để Việt Nam khai thác tối đa những lợi ích thương mại từ Chương trình thu hoạch sớm trong Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung quốc

- TS. Trần Công Sách (2005) (đề tài mã số KC.06.01 NN), “Nghiên cứu, điều tra và dự báo thị trường xuất khẩu cho một số chủng loại hàng nông lâm thủy sản

Như vậy, cho đến nay đã có nhiều đề tài nghiên cứu về thị trường Trung Quốc, tuy nhiên chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu riêng về xuất khẩu nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc trong bối cảnh mới khi Việt Nam gia nhập WTO, khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc có hiệu lực và Trung Quốc đang từng bước nâng cao yêu cầu về chất lượng hàng nông sản nhập khẩu, đặc biệt là vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm theo các chuẩn mực của WTO, đã có tác động bất lợi đến xuất khẩu nông sản Việt Nam vào thị trường này. Do vậy cần có nghiên cứu chi tiết về xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc để từ đó đề ra quan điểm, định hướng và các giải pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh xuất khẩu nông sản vào thị trường Trung Quốc trong bối cảnh mới. Chính vì vậy đề tài nghiên cứu của luận án là hết sức cần thiết.



3. Mục tiêu nghiên cứu của luận án

- Hệ thống hoá và làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản vào một quốc gia và sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc.

- Phân tích thực trạng đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc giai đoạn 2001 - 2010, rút ra những đánh giá về ưu, nhược điểm, hiệu quả kinh tế và phân tích nguyên nhân của những hạn chế để làm căn cứ cho việc đề xuất quan điểm, giải pháp và các kiến nghị nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc giai đoạn 2012 - 2020.

- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc giai đoạn 2012 - 2020



4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án

Đối tượng nghiên cứu của luận án là lý luận và thực tiễn việc xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc.

Phạm vi nghiên cứu của luận án là:

- Nghiên cứu tập trung vào một số loại nông sản chủ lực là gạo, cao su, hạt điều, cà phê, chè, hồ tiêu, rau quả. Là nhóm hàng nông sản mà Việt Nam có năng lực lớn trong sản xuất và xuất khẩu. Các nông sản này chiếm phần lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam vào Trung Quốc trong những năm qua. Đây là các loại nông sản mà Trung Quốc có nhu cầu nhập khẩu lớn và xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này hiện vẫn chiếm một thị phần rất nhỏ nên còn nhiều khả năng để mở rộng xuất khẩu trong những năm tới. Từ việc nghiên cứu nhóm hàng nông sản trên có thể khái quát thành mô thức chung ứng dụng cho các mặt hàng nông sản khác.

- Trọng tâm tập trung nghiên cứu việc xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc giai đoạn 2001 - 2010, trong bối cảnh Trung Quốc đang từng bước điều chỉnh chính sách thương mại theo các chuẩn mực quốc tế sau khi gia nhập WTO và việc hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đã có nhiều tác động đến xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam vào Trung Quốc. Từ đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị để đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản vào Trung Quốc giai đoạn 2012 - 2020.

5. Phương pháp nghiên cứu của luận án

Luận án áp dụng các phương pháp cơ bản sau đây:

- Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: Luận án sử dụng phương pháp này để phân tích, đánh giá mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng xuất khẩu với các hệ thống chính sách kinh tế của Chính phủ trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

- Phương pháp tiếp cận hệ thống: Xuất khẩu hàng hóa nói chung trong đó có nông sản là một hệ thống gắn kết hữu cơ và sự kết hợp hài hòa các mặt kinh tế, chính trị, xã hội.

- Phương pháp tiếp cận liên ngành: Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế liên ngành, chịu sự tác động của nhiều yếu tố thuộc nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau vì vậy cách tiếp cận nghiên cứu là gắn kết các mối quan hệ bên trong và bên ngoài, các ngành, các lĩnh vực khác nhau liên quan đến hoạt động xuất khẩu.

- Phương pháp nghiên cứu điển hình: Nông sản xuất khẩu gồm nhiều mặt hàng khác nhau, ở đây luận án chỉ tập trung nghiên cứu trên một số loại nông sản xuất khẩu chủ lực là gạo, cao su, hạt điều, cà phê, chè, hồ tiêu, rau quả. Từ việc nghiên cứu nhóm hàng nông sản này có thể khái quát hóa thành mô thức chung ứng dụng cho các hàng nông sản khác.

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu được sử dụng để thu thập thông tin, các công trình nghiên cứu trước đây, chủ chương chính sách của Đảng và Chính phủ, kinh nghiệm của các nước, các số liệu thống kê.

- Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, đối chiếu để cân nhắc, đánh giá các nhân tố thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu và các yếu tố kìm hãm thị trường.

- Phương pháp chuyên gia để đánh giá kết quả nghiên cứu.

6. Những đóng góp mới và ý nghĩa thực tiễn của luận án

Luận án chọn lĩnh vực nghiên cứu là thương mại hàng nông sản là lĩnh vực rất nhậy cảm trong thương mại quốc tế. Đây là một ngành hàng luôn chịu nhiều rủi ro vì bất trắc của thiên nhiên, của những biến động khó lường về giá cả trên thị trường do cung cầu chi phối và tác động của những yếu tố địa chính trị và kinh tế núp dưới bóng trợ cấp, bán phá giá, tự vệ...làm bóp méo cạnh tranh lành mạnh. Trong tiến trình hội nhập kinh tế toàn cầu, mỗi nước nhập khẩu đều cố gắng đưa ra những rào cản ngày càng tinh vi, phức tạp gây trở ngại đối với hàng nông sản nhập khẩu nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. Với mục đích, phạm vi và nhiệm vụ đã đặt ra, nội dung của luận án có những điểm mới như sau:

Nghiên cứu, phân tích, đánh giá một cách hệ thống các mặt tích cực, những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại trong xuất khẩu nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc những năm gần đây dưới tác động của các nhân tố mới xuất hiện trong bối cảnh Việt Nam và Trung Quốc gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO, việc hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) và Chương trình hợp tác Hai hành lang, Một vành đai kinh tế. Từ những phân tích này, luận án đưa ra dự báo các thuận lợi và khó khăn trong việc đẩy mạnh xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc những năm tới, từ đó đề xuất quan điểm, định hướng, các giải pháp và kiến nghị để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản vào thị trường Trung Quốc cho đến năm 2020.

Đóng góp mới về khoa học của luận án là: (1) Luận án đã phân tích về mối quan hệ gắn bó hữu cơ giữa ba lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu và cơ chế chính sách của Chính phủ để giải quyết vấn đề đẩy mạnh xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc trong bối cảnh chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. (2) Đề xuất xây dựng mối liên kết chặt chẽ, bền vững xuyên suốt từ khâu sản xuất, chế biến, thương mại (cả xuất khẩu) trên cơ sở tổ chức tốt các chuỗi giá trị ngành hàng, đảm bảo quyền lợi các tác nhân tham gia chuỗi giá trị bằng cách tăng cường môi trường cạnh tranh lành mạnh để khắc phục căn bệnh cố hữu trong sản xuất nông nghiệp hiện nay đó là tình trạng manh mún và tự phát.

Luận án được thực hiện ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO, do vậy những vấn đề đặt ra và giải quyết của luận án gắn bó mật thiết với thực tiễn sinh động trong việc điều chỉnh các chính sách kinh tế và thương mại của hai nước cho phù hợp với chuẩn mực của WTO.

7. Bố cục của luận án

Ngoài các trang bìa, mục lục, danh mục bảng, hình vẽ và biểu đồ, danh mục chữ viết tắt, mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả liên quan đến luận án, tài liệu tham khảo và phần phụ lục, luận án được bố cục với kết cấu 03 chương như sau:



Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản vào thị trường Trung Quốc trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc giai đoạn 2001 - 2010.

Chương 3: Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc giai đoạn 2012 - 2020.
CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN VÀO THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1.1. Khái niệm, các hình thức xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu nông sản

      1. Khái niệm và các hình thức xuất khẩu nông sản

        1. Khái niệm xuất khẩu

Theo Adam Smith, phân công lao động xã hội dẫn đến chuyên môn hóa sản xuất, quá trình chuyên môn hóa sản xuất sẽ tạo ra một khối lượng hàng hóa lớn không chỉ đáp ứng đủ nhu cầu trong nước mà còn có thể xuất khẩu ra nước ngoài. Còn theo học thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo thì khi một quốc gia sản xuất và đem trao đổi những mặt hàng có lợi thế tương đối của mình với một quốc gia khác thì cả hai quốc gia đều thu được lợi nhuận. Như vậy, xuất khẩu hàng hóa là một hoạt động tất yếu xảy ra khi phân công lao động xã hội đạt được một trình độ nhất định. Ta có nhiều cách hiểu khác nhau về xuất khẩu hàng hóa như:

Xuất khẩu hàng hóa là hoạt động đưa hàng hóa ra khỏi một nước (từ quốc gia này sang quốc gia khác) để bán trên cơ sở dùng tiền làm phương tiện thanh toán hoặc trao đổi lấy một hàng hóa khác có giá trị tương đương. Nói một cách khái quát, xuất khẩu hàng hóa là việc đưa hàng hóa ra nước ngoài để thực hiện giá trị sử dụng và giá trị của hàng hóa.

Theo luật pháp Việt Nam: Hoạt động xuất khẩu hàng hóa là hoạt động bán hàng của thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài theo hợp đồng mua bán hàng hóa, bao gồm cả hoạt động tạm nhập tái xuất và chuyển khẩu hàng hóa.

Tóm lại, xuất khẩu hàng hóa nói một cách đơn giản nhất là việc bán một sản phẩm ra thị trường nước ngoài. Xuất khẩu thuần túy là một chức năng của hoạt động thương mại.


        1. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu

Hoạt động xuất khẩu hàng hóa diễn ra vô cùng phong phú và đa dạng, những hình thức xuất khẩu hàng hóa chủ yếu là:

  • Xuất khẩu trực tiếp

Là hình thức xuất khẩu, trong đó người bán (người sản xuất, người cung cấp) và người mua quan hệ trực tiếp với nhau (bằng cách gặp mặt, qua thư từ, điện tín) để bàn bạc thỏa thuận về hàng hóa, giá cả và các điều kiện giao dịch khác.

Là hình thức mua bán quốc tế được thực hiện nhờ sự giúp đỡ của trung gian thứ ba và người thứ ba này sẽ được hưởng một khoản tiền nhất định. Người trung gian phổ biến trong các giao dịch quốc tế là đại lý và môi giới.

  • Xuất khẩu tại chỗ

Là hình thức xuất khẩu ngay tại đất nước mình. Đó là việc bán hàng và thực hiện các dịch vụ cho người nước ngoài. Hàng xuất khẩu tại chỗ có thể dùng ngay tại chỗ hoặc được người mua đem ra nước ngoài.

  • Hình thức tái xuất khẩu

Là hình thức thực hiện xuất khẩu trở lại sang các nước mua khác những hàng hóa đã mua ở nước ngoài nhưng chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Mục đích của thực hiện giao dịch tái xuất khẩu là mua hàng hóa ở nước này rồi bán hàng hóa với giá cao hơn ở nước khác và thu về số vốn lớn hơn số vốn bỏ ra ban đầu.

Hoạt động tái xuất khẩu có thể chia làm hai hình thức: hình thức tạm nhập - tái xuất và hình thức chuyển khẩu, trong đó:

Hình thức tạm nhập - tái xuất được hiểu là việc mua hàng của một nước để bán cho nước khác trên cơ sở hợp đồng mua bán ngoại thương, làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa vào, rồi sau đó làm thủ tục xuất khẩu mà không qua gia công chế biến.

Hàng hóa chuyển khẩu được chia thành hai loại. Một là, hàng hóa sau khi nhập cảnh được cơ quan hải quan cho vận chuyển đến một địa điểm hải quan khác để làm thủ tục hải quan nhập khẩu. Hai là, hàng hóa ở nơi vận chuyển ban đầu đã làm thủ tục hải quan xuất nhập khẩu vận chuyển đến một nơi xuất cảnh, do hải quan nơi xuất cảnh giám sát quản lý cho qua.



  • Gia công xuất khẩu

Là phương thức sản xuất hàng xuất khẩu, trong đó người đặt hàng gia công ở nước ngoài cung cấp: máy móc, thiết bị, nguyên phụ liệu hoặc bán thành phẩm theo mẫu và định mức cho trước. Người nhận gia công trong nước tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm theo nhu cầu của khách. Toàn bộ sản phẩm làm ra người nhận gia công sẽ giao lại cho người đặt gia công để nhận tiền công.

      1. Một số lý thuyết liên quan đến trao đổi thương mại

1.1.2.1. Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối

Adam Smith (1723 - 1790) là người đầu tiên đưa ra sự phân tích có tính hệ thống về nguồn gốc của thương mại quốc tế. Từ việc xây dựng mô hình thương mại đơn giản dựa trên ý tưởng về lợi thế tuyệt đối, ông đã giải thích lợi ích thu được từ thương mại quốc tế đối với các quốc gia. Ông cho rằng, lợi ích của thương mại quốc tế thu được do thực hiện nguyên tắc phân công lao động. Nguyên tắc này đòi hỏi mỗi quốc gia nên chuyên môn hóa, tập trung sản xuất những hàng hóa mà quốc gia đó có lợi thế tuyệt đối, thông qua đó cho phép quốc gia đó sản xuất sản phẩm với chi phí thấp hơn các quốc gia khác, sau đó tiến hành trao đổi với các quốc gia khác thì cả hai bên đều có lợi. Trong điều kiện đó, đòi hỏi quốc gia phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của mình. Các nguồn lực là đội ngũ lao động có tay nghề, được đào tạo thích hợp; là nguồn vốn; là tiến bộ khoa học công nghệ; là sự ưu đãi của thiên nhiên về địa lý, khí hậu, đất đai…Trong thương mại quốc tế, các nguồn lực sản xuất của cả thế giới sẽ được sử dụng một cách có hiệu quả nhất và do đó tổng sản phẩm của thế giới sẽ tăng lên.

Như vậy, lợi thế tuyệt đối đã mô tả được hướng chuyên môn hóa và trao đổi giữa các quốc gia và giải thích được một phần lý do của thương mại quốc tế đối với một số mặt hàng và giữa các nước đang phát triển với các nước phát triển.

Tuy nhiên, với mô hình này không thể giải thích được vấn đề tại sao thương mại quốc tế lại diễn ra đối với tất cả các mặt hàng và giữa các nước phát triển. Chẳng hạn, một quốc gia nếu có sự bất lợi trong việc sản xuất tất cả các loại sản phẩm, hoặc giữa các nước đó có điều kiện tương tự nhau về chi phí sản xuất các loại hàng hóa thì liệu có thương mại quốc tế không ? Để giải thích vấn đề này, lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricacdo (1772 - 1823) đã ra đời.



1.1.2.2. Lý thuyết về lợi thế so sánh

Nếu như lý thuyết về lợi thế tuyệt đối xây dựng trên cơ sở sự khác biệt lượng lao động thực tế được sử dụng ở các quốc gia khác nhau (nói cách khác là khác biệt về hiệu quả sản xuất tuyệt đối) thì lý thuyết lợi thế so sánh lại xuất phát từ hiệu quả sản xuất tương đối. Theo David Ricacdo, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong hầu hết các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích cho quốc gia mình, bằng cách chuyên môn hóa tập trung sản xuất và xuất khẩu những hàng hóa có lợi thế tương đối và nhập khẩu những hàng hóa mà việc sản xuất chúng gặp nhiều bất lợi nhất. Như vậy thương mại quốc tế vẫn có thể diễn ra cho mọi quốc gia trên thế giới, cho phép các quốc gia sử dụng hợp lý, có hiệu quả các nguồn lực của mình đồng thời mang lại lợi ích cho cả đôi bên, cũng như làm cho của cải thế giới tăng lên.

Lý thuyết về lợi thế so sánh cho rằng, nếu một quốc gia biết tập trung vào sản xuất, trao đổi những hàng hóa mà việc sản xuất chúng thể hiện mối tương quan thuận lợi giữa các mức chi phí cá biệt của quốc gia đó so với mức trung bình của thế giới, đồng thời biết lựa chọn và kết hợp hợp lý giữa ưu thế của quốc gia mình với ưu thế của quốc gia khác thì sẽ đạt được hiệu quả tối đa mặc dù nguồn lực có bị hạn chế. Vì một quốc gia mà việc sản xuất các loại hàng hóa và dịch vụ không có hiệu quả bằng các quốc gia khác nhưng trong nhiều trường hợp họ vẫn thu được lợi ích, thậm chí lợi ích cao hơn những quốc gia khác nếu quốc gia đó chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu những hàng hóa đòi hỏi nguồn lực tương đối rẻ và sẵn có trong nội địa, nhập khẩu những hàng hóa mà việc sản xuất ra chúng cần nhiều yếu tố đắt và khan hiếm trong nước.

Mặc dù lý thuyết lợi thế so sánh vẫn còn gặp một số bế tắc khi giải quyết các vấn đề phức tạp của thương mại quốc tế hiện đại, nhưng lý thuyết này đã đóng vai trò quan trọng trong việc chi phối sự phát triển của thương mại quốc tế, là cơ sở khoa học để mỗi quốc gia lựa chọn và xác định các sản phẩm xuất khẩu phù hợp dựa trên cơ sở phân tích các lợi thế so sánh về nguồn lực sản xuất, từ đó tham gia tích cực vào phân công và hợp tác quốc tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia và của thế giới.

Ngoài các học thuyết về lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh còn có nhiều học thuyết khác giải thích nguyên nhân của thương mại quốc tế như học thuyết về nhân tố của Neckschen - Ohlin, học thuyết về kinh tế theo quy mô về chu kỳ sống của sản phẩm…nhưng có lẽ học thuyết về lợi thế so sánh của David Ricacdo giải thích rõ ràng hơn nguyên nhân của Thương mại quốc tế. Theo học thuyết về lợi thế so sánh của David Ricacdo các hàng nông sản Việt Nam vẫn còn sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới trong đó có thị trường Trung Quốc. Việt Nam vẫn là một quốc gia nông nghiệp không có nguồn vốn tài chính dồi dào, thế mạnh của Việt Nam trong cạnh tranh quốc tế là nguồn lực lao động sẵn có và rẻ tiền.

1.1.2.3. Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh

Lý thuyết về lợi thế so sánh được áp dụng rộng rãi trong thương mại quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay để nghiên cứu quan hệ kinh tế, thương mại giữa các nước, các nhà nghiên cứu thường đề cập đến một số tiêu chí dùng để so sánh trình độ phát triển kinh tế giữa các nước với nhau như môi trường kinh doanh, chất lượng nguồn nhân lực, vai trò của thể chế, hệ thống tài chính, độ mở của nền kinh tế…Tổng hợp các yếu tố trên người ta thường dùng khái niệm lợi thế cạnh tranh hay tính cạnh tranh của quốc gia. Đó là năng lực của nền kinh tế quốc dân để đạt và duy trì được mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế và đặc trưng kinh tế khác. Theo M.Porter thì lợi thế cạnh tranh của một quốc gia phụ thuộc vào các yếu tố như: (1) Điều kiện hay tình trạng về nhân tố sản xuất thể hiện vị thế quốc gia về nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, vốn, kết cấu hạ tầng, tiềm năng khoa học kỹ thuật…(2) Tình trạng về nhu cầu trong nước phản ánh bản chất của nhu cầu thị trường tại quốc gia đó đối với sản phẩm và dịch vụ một ngành; (3) Chiến lược, cơ cấu công ty và đối thủ cạnh tranh thể hiện cách thức, môi trường mà trong đó công ty được thành lập, tổ chức và quản lý cũng như trạng thái, bản chất của các đối thủ cạnh tranh trong nước; (4) Thực trạng các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan có khả năng cạnh tranh quốc tế; (5) Các yếu tố bất thường như: phát minh khoa học, công nghệ sinh học, đột biến chi phí đầu vào như cú sốc tiền tệ, thị trường tài chính tiền tệ, tăng cầu đột biến, các sự việc bất khả kháng như đảo chính, chiến tranh…và (6) Vai trò của Chính phủ trong việc tác động lên các nhân tố xác định lợi thế cạnh tranh quốc gia.

Để đánh giá khả năng cạnh tranh thường căn cứ vào Chỉ số khả năng cạnh tranh. Theo Diễn đàn kinh tế Thế giới (WEF), chỉ số khả năng cạnh tranh bao gồm 2 chỉ số quan trọng là Chỉ số khả năng cạnh tranh tăng trưởng (Growth Competitiveness Index) và Chỉ số khả năng cạnh tranh hiện tại (Current Competitiveness Index). Thông qua việc xếp hạng này, có thể đánh giá được năng lực cạnh tranh của quốc gia này so với các quốc gia khác. Theo WEF, năm 2008 Việt Nam được xếp thứ 70 trên tổng số 134 nước được xem xét.

Nghiên cứu quan hệ hợp tác kinh tế thương mại về thực chất là nghiên cứu quan hệ cạnh tranh. Do đó khi nghiên cứu về mối quan hệ thương mại hàng nông sản giữa Việt Nam và Trung Quốc, luận án sẽ tập trung làm rõ khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam với các đối tác thương mại khác tại thị trường Trung Quốc. Kết quả nghiên cứu đánh giá khả năng cạnh tranh sẽ làm sáng tỏ tương quan lực lượng giữa Việt Nam và các đối tác thương mại khác tại thị trường Trung Quốc, từ đó đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm tận dụng cơ hội và hạn chế những khó khăn, thách thức.



1.1.2.4. Lý thuyết về địa kinh tế, địa chính trị

Trong thời gian gần đây, khi phân tích quan hệ kinh tế thương mại giữa các nước trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, các nhà nghiên cứu thường nói nhiều đến các yếu tố địa kinh tế và địa chính trị của các quốc gia.



Địa kinh tế là khoa học nghiên cứu các đặc điểm địa lý ảnh hưởng đến tiến trình phát triển kinh tế của một vùng, một quốc gia, thậm chí một khu vực rộng lớn bao gồm nhiều quốc gia khác nhau.

Địa chính trị là khoa học nghiên cứu các yếu tố địa lý chi phối xu thế và thái độ chính trị của quốc gia hoặc khu vực. Học thuyết này được Chính phủ các nước vận dụng để phân tích bối cảnh chính trị thế giới, từ đó đưa ra các quyết sách định hướng các quan hệ quốc tế phục vụ cho lợi ích kinh tế và chính trị của mình.

Tuy nhiên, trong một thế giới đầy biến động những quan niệm mới về địa chính trị và địa kinh tế cũng luôn thay đổi, vì vậy, đòi hỏi các quốc gia phải phản ứng năng động, phù hợp với đặc điểm cơ bản của địa chính trị, địa kinh tế của mình. Một số đặc điểm nổi bật của địa chính trị, địa kinh tế hiện nay là:



Thứ nhất, đặc điểm địa chính trị, địa kinh tế của mỗi quốc gia thay đổi theo trình độ phát triển và bối cảnh chung của khu vực và thế giới. Việt Nam có vị trí liền kề với Trung Quốc nhưng nếu Trung Quốc không tích cực đổi mới như hiện nay mà vẫn trong tình trạng trì trệ của những năm 60 -70 thì đặc điểm địa chính trị của Việt Nam sẽ được nhìn nhận khác đi trong một bối cảnh khác. Sự xuất hiện của những con rồng Châu Á như Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc và Singapore làm thay đổi đặc điểm và tính chất của thị trường khu vực, làm đặc điểm địa kinh tế của khu vực thay đổi, vì vậy, nhận định về địa kinh tế của Việt Nam cũng phải thay đổi cho phù hợp với tình hình mới.

Thứ hai, bán kính vùng ảnh hưởng của địa chính trị, địa kinh tế có xu hướng mở rộng trong xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Ngày nay các diễn biến chính trị, kinh tế - xã hội quan trọng nhanh chóng lan tỏa trên mọi miền của thế giới nhờ những tiến bộ khoa học, kỹ thuật của thời đại. Ngày nay, với APEC, với diễn đàn Á - Âu nhiều quốc gia xa xôi đã trở nên gần gũi với Việt Nam cả về chính trị cũng như kinh tế - xã hội.

Thứ ba, lợi ích quốc gia ngày càng bị đan xen với lợi ích quốc tế khiến cho việc xử lý các vấn đề địa chính trị và kinh tế phải đặc biệt cẩn trọng và linh hoạt hơn. Nói đến địa chính trị và địa kinh tế là nói đến lợi ích quốc gia. Trong quá khứ, do sự xâm nhập của lực lượng quốc tế vào một quốc gia ở mức độ rất hạn chế nên lợi ích quốc gia thường tách biệt, thậm chí đối lập với lợi ích quốc tế. Ngày nay, với sự lên ngôi của các lực lượng đa quốc gia, các lợi ích quốc gia thường đan xen nhau đến mức khó phân biệt rạch ròi.

Nghiên cứu lý thuyết địa kinh tế và địa chính trị sẽ cho phép đánh giá xác thực các ưu thế về địa kinh tế và địa chính trị của Việt Nam, góp phần xây dựng một chiến lược phát triển kinh tế khả thi, linh hoạt trước một thế giới năng động, phức tạp và nhiều rủi ro. Chiến lược đó là kết hợp việc phát huy các nguồn lực bên trong, khai thác các ưu thế địa kinh tế, địa chính trị để tranh thủ tối đa sự hợp tác của đất nước nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và xác lập địa vị của Việt Nam trong hệ thống kinh tế chính trị toàn cầu.

Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, về cơ bản Việt Nam vẫn là một nền kinh tế tạo ra rất ít giá trị gia tăng, là một quốc gia không có nhiều truyền thống kinh doanh, lịch sử Việt Nam thiếu vắng những nhà công thương lớn. Trong thời kỳ đổi mới, chúng ta đạt được những thành tựu đáng kể trong nông nghiệp trên tổng thể, nhưng nông nghiệp cũng còn tồn tại những điểm yếu cơ bản, hơn 70% lực lượng lao động đang làm việc trong khu vực nông nghiệp, ngành kinh tế tạo được rất ít giá trị gia tăng.

Việt Nam ở bên cạnh Trung Quốc nhưng thực chất là gần với khu vực lạc hậu của Trung Quốc. Vấn đề đặt ra là Trung Quốc hỗ trợ Việt Nam hay Việt Nam hỗ trợ Trung Quốc phát triển ? Đại dương mênh mông mở ra cơ hội lớn trong giai đoạn phát triển hiện nay và trong tương lai. Phát triển theo trục Đông - Tây, với việc mở mang kinh tế biển và vận tải biển không những giảm bớt sự phụ thuộc của Việt Nam vào Trung Quốc, mà còn tạo điều kiện cho hàng hoá Việt Nam xâm nhập sâu vào thị trường Trung Quốc rộng lớn nhờ vận tải đường biển với chi phí thấp và năng lực truyền tải lớn. Chỉ khi công cuộc cải cách biến Trung Quốc thành một quốc gia phát triển thực sự, tất cả các vùng kinh tế của nước này đạt đến trình độ phát triển cao thì trục Bắc - Nam mới tác động tích cực đến sự phát triển của Việt Nam. Hòa bình và hữu nghị với Trung Quốc là điều kiện tối cần thiết để chúng ta có điều kiện tập trung những cố gắng vào phát triển kinh tế. Trong chiến lược hợp tác cạnh tranh với Trung Quốc, Việt Nam phát triển kinh tế càng khác với Trung Quốc bao nhiêu càng tốt. Trên thế giới hiếm có một nước nào có thể cạnh tranh với Trung Quốc nếu sản xuất những hàng hóa có đặc tính giống hàng hóa Trung Quốc. Nước Thụy Sỹ nhỏ bé nhưng sống tốt bên cạnh Châu Âu hùng mạnh nhờ dịch vụ ngân hàng và sản xuất máy móc tinh xảo. Kinh nghiệm của người Thụy Sỹ chỉ ra cho chúng ta nên sản xuất những gì khác biệt với hàng hóa Trung Quốc, những gì mà đặc tính số đông không là ưu thế. Chỉ có như vậy, Việt Nam mới phát triển ổn định và ít rủi ro bên cạnh nền kinh tế lớn như Trung Quốc.



Каталог: dao-tao-tuyen-sinh -> thong-bao

tải về 1.85 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương