BỘ giáo dục và ĐÀo tạo bộ CÔng thưƠng viện nghiên cứu thưƠng mại nguyễn thị ĐƯỜng giải pháP ĐẨy mạnh xuất khẩu hàng nông sản việt nam vào thị trưỜng trung quốc luậN Án tiến sỹ kinh tế


Vai trò của xuất khẩu nông sản đối với phát triển kinh tế Việt Nam



tải về 1.85 Mb.
trang2/17
Chuyển đổi dữ liệu23.08.2016
Kích1.85 Mb.
#26554
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17

1.1.3. Vai trò của xuất khẩu nông sản đối với phát triển kinh tế Việt Nam

Xuất khẩu là một khâu quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân của một quốc gia, thực hiện một phần tổng sản phẩm trong nước nhờ bán ra nước ngoài những sản phẩm có lợi thế, có chất lượng cao. Kết quả xuất khẩu được sử dụng cho nhu cầu nhập khẩu, góp phần cân đối, duy trì và mở rộng tái sản xuất trong nước, tranh thủ những tiến bộ của khoa học và công nghệ mới, hòa nhập với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thế giới.

Đối với nhiều nước trên thế giới, thực tiễn phát triển những năm gần đây đã chứng minh rằng, nhờ thực thi chính sách hướng về xuất khẩu mà nhanh chóng thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, trở thành các quốc gia công nghiệp mới, có nền kinh tế giàu mạnh, hiện đại, có khả năng tiến kịp các nước kinh tế phát triển trong thập kỷ tới. Do vậy đối với nhiều nước, xuất khẩu đã trở thành mũi nhọn của nền kinh tế, là đòn bẩy của tăng trưởng kinh tế - xã hội.

Xuất khẩu nông sản là một bộ phận không nhỏ của xuất khẩu hàng hóa của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, do sự khác nhau về lợi thế (vốn, lao động, công nghệ, điều kiện tự nhiên, chính sách của chính phủ) mà tỷ trọng xuất khẩu nông sản trong tổng kim ngạch xuất khẩu của các quốc gia khác nhau. Đối với Việt Nam, xuất khẩu nông sản là nguồn thu rất quan trọng, xuất khẩu nông sản có vai trò cụ thể như sau:



Một là, xuất khẩu hàng hóa nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng tạo nguồn vốn tích lũy quan trọng để nhập khẩu và tích lũy phát triển sản xuất, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Công nghiệp hóa đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng đói nghèo và chậm phát triển. Để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong một thời gian ngắn đòi hỏi phải có nguồn vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị và công nghệ tiên tiến.

Nguồn vốn để nhập khẩu có thể lấy từ nhiều nguồn thu như: Đầu tư của nước ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ, xuất khẩu lao động, xuất khẩu hàng hóa. Các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ tuy quan trọng nhưng cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau này. Như vậy, nguồn vốn thu từ hoạt động xuất khẩu đóng vai trò quan trọng nhất để nhập khẩu và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Từ thực tiễn hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt nam trong những năm qua cho thấy, xuất khẩu hàng hóa nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng thực sự mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách quốc gia và là nhân tố quan trọng thu hút được một số lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài. So với các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu như hàng dệt may, giầy da hay cơ khí…thì trong cùng một lượng kim ngạch xuất khẩu thu về như nhau, tỷ lệ chi phí sản xuất có nguồn gốc ngoại tệ của hàng nông sản rất thấp, do đó thu nhập ngoại tệ ròng của hàng nông sản xuất khẩu sẽ cao hơn nhiều. Ví dụ: Chi phí sản xuất gạo xuất khẩu có nguồn gốc ngoại tệ (phân bón, thuốc trừ sâu bệnh và các loại hóa chất, xăng dầu…) chỉ chiếm từ 15 - 20% giá trị kim ngạch xuất khẩu gạo. Điều đó có nghĩa là xuất khẩu gạo đã tạo ra từ 80 - 85% thu nhập ngoại tệ thuần cho đất nước, chỉ số này đối với nhân điều xuất khẩu là khoảng 27% và 73%. Đây là lợi thế ban đầu của các nước nghèo để có nguồn vốn tích lũy cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Mặt khác, xuất khẩu hàng hóa nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng còn tạo nguồn thu ngoại tệ mạnh cho phép chúng ta gia tăng dự trữ quốc gia và chủ động trong việc điều hòa cung cầu tiền tệ.

Hai là, xuất khẩu và xuất khẩu nông sản góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát triển theo hướng sử dụng có hiệu quả nhất nguồn lực và lợi thế của quốc gia.

Do tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi nhanh chóng. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa để phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới là con đường tất yếu đối với Việt Nam.

Để phục vụ cho xuất khẩu, việc tổ chức sản xuất ở mỗi quốc gia đều phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới. Điều này tác động tích cực đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển; bao gồm:

- Xuất khẩu nông sản sẽ tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển thuận lợi: Đẩy mạnh xuất khẩu nông sản sẽ cho phép mở rộng quy mô sản xuất, tạo điều kiện để nhiều ngành nghề mới ra đời, gây phản ứng dây chuyền thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển theo, kết quả là làm tăng tổng sản phẩm xã hội và nền kinh tế phát triển nhanh. Ví dụ, xuất khẩu gạo sẽ kéo theo sự phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ khác như sản xuất bao bì, chăn nuôi, trồng trọt, vận chuyển…

- Xuất khẩu nông sản tạo ra nguồn thu ngoại tệ lớn để nhập khẩu thiết bị và công nghệ tiên tiến góp phần hiện đại hóa kinh tế đất nước, tạo ra năng lực sản xuất mới mạnh mẽ hơn. Đồng thời thông qua xuất khẩu nông sản chúng ta chứng minh được khả năng của Việt Nam về các sản phẩm nhiệt đới, về khả năng hợp tác, liên doanh, liên kết với các đối tác trong sản xuất, kinh doanh. Từ đó tăng thêm niềm tin và sự chủ động trong phát triển kinh tế đất nước.

- Thông qua xuất khẩu nông sản, các nhà sản xuất trong nước buộc phải cạnh tranh quyết liệt trên thị trường thế giới. Để chiến thắng trong cạnh tranh đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất tốt hơn, quản lý và kinh doanh hiệu quả hơn để tăng năng suất lao động, hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng tốt hơn các đòi hỏi ngày càng cao của thị trường.

- Xuất khẩu nông sản còn là yếu tố quan trọng nhằm phát huy mọi nguồn nội lực, tạo thêm vốn đầu tư để đổi mới công nghệ, tăng thêm việc làm, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

Ba là, xuất khẩu nông sản có tác động tích cực và có hiệu quả đến việc nâng cao đời sống của nhân dân trên cơ sở tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.

Sản xuất hàng hóa xuất khẩu có khả năng thu hút hàng triệu lao động vào làm việc với thu nhập cao. Việt Nam có nguồn lao động dồi dào với khoảng 40 triệu người, trong đó tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn hiện nay là khoảng 25 %. Đẩy mạnh xuất khẩu nông sản sẽ làm tăng số lượng công ăn việc làm, do đó thu hút được thêm nhiều lao động, đặc biệt là lao động ở các vùng nông thôn vào các khu công nghiệp, khu chế xuất và các vùng chuyên canh cây trồng để sản xuất hàng xuất khẩu. Ngành nông sản là ngành sử dụng nhiều lao động vào quá trình sản xuất - kinh doanh. Đây là một ưu thế quan trọng hiện nay vì hàng năm Việt Nam phải giải quyết thêm việc làm cho hơn 1,4 triệu người bước vào tuổi lao động. Ví dụ, để trồng và chăm sóc 1 ha dứa hay 1 ha dâu tằm mỗi năm cần sử dụng tới 20 lao động. Trong khi đó, giá nhân công Việt Nam rẻ hơn các nước khác trong khu vực như Thailand từ 2 - 3 lần. Lợi thế này sẽ không tồn tại lâu dài và dần mất đi cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước.

Để nắm vững và làm chủ được công nghệ trong quá trình sản xuất, người lao động buộc phải nâng cao trình độ cả lý thuyết và thực hành. Như vậy, đẩy mạnh xuất khẩu sẽ có tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu lao động cả về tính chất ngành nghề và cả về chất lượng lao động. Đồng thời, với việc đẩy mạnh xuất khẩu nông sản sẽ góp phần tăng thu nhập của người lao động, tạo điều kiện để họ nâng cao đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần. Ngoài ra, một phần kim ngạch xuất khẩu có thể dùng để nhập khẩu hàng tiêu dùng thiết yếu nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú, đa dạng của đời sống con người. Xuất khẩu nông sản đã và đang đóng vai trò quan trọng trong việc tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người nông dân vốn phần lớn đang sống trong nghèo nàn, thiếu thốn, lạc hậu.

Bốn là, xuất khẩu nông sản góp phần giữ ổn định nền kinh tế của đất nước.

Cùng với các ngành hàng xuất khẩu quan trọng khác như may mặc và giày da, nông sản là ngành hàng sử dụng nhiều nguồn lực lao động tại chỗ hơn là nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Nông sản xuất khẩu còn có vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam vì liên quan đến hơn 70% dân số, là một thị trường lớn cho các ngành hàng sản xuất khác. Khi xuất khẩu nông sản được giữ ổn định và tăng trưởng, cả nền kinh tế có nhiều cơ hội hơn để phát triển. Vai trò của ngành nông nghiệp trong việc ổn định kinh tế Việt Nam đã được chứng minh trong quá khứ. Năm 1989, công nghiệp tăng trưởng âm nhưng sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh nên cứu được khủng hoảng. Đến năm 1999, một lần nữa, công nghiệp - dịch vụ đều chựng lại, chỉ có nông nghiệp tăng trưởng tốt nên đã cứu được nền kinh tế đang bên bờ vực khủng hoảng.



Năm là, xuất khẩu nông sản góp phần mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại, tăng cường địa vị kinh tế của quốc gia trên thị trường thế giới.

Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc vào nhau. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Có thể nói, xuất khẩu nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng có vai trò thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại khác. Bởi vì khi xuất khẩu hàng hóa nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của các hoạt động dịch vụ quốc tế trong các lĩnh vực khác như: đầu tư tài chính - tín dụng, bảo hiểm, thanh toán quốc tế, phát triển vận tải quốc tế, chuyển giao công nghệ. Ngược lại, các hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng xuất khẩu. Ví dụ, hoạt động đầu tư quốc tế sẽ mang đến nguồn vốn và công nghệ tiên tiến để mở rộng sản xuất hàng nông sản xuất khẩu như việc đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến nông sản, chuyển giao giống và kỹ thuật thâm canh cây trồng có năng suất và chất lượng cao tạo nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất. Việc ký kết các hiệp định thương mại song phương, đa phương và gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các mặt hàng nông sản xuất khẩu thâm nhập và mở rộng thị trường.

Việc các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng ra nước ngoài sẽ làm tăng thêm vị thế và uy tín không chỉ của hàng hóa Việt Nam mà còn cả uy tín của Việt Nam trên thị trường thế giới, đồng thời còn góp phần mở rộng các mối quan hệ với bên ngoài.

Sáu là, xuất khẩu hàng hóa nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng thúc đẩy quá trình phân công và chuyên môn hóa quốc tế, là thước đo đánh giá kết quả của quá trình hội nhập quốc tế của một quốc gia vào nền kinh tế khu vực và thế giới

Trong bối cảnh mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động xuất nhập khẩu của các nước là thước đo đánh giá kết quả của quá trình hội nhập quốc tế và phát triển trong mối quan hệ tùy thuộc vào nhau giữa các quốc gia.

Mỗi quốc gia sản xuất và xuất khẩu hàng hóa không chỉ cho riêng thị trường khu vực mà là một thị trường toàn cầu, đây là một sân chơi công bằng với sự cạnh tranh quyết liệt. Điều đó đòi hỏi mỗi quốc gia phải lựa chọn cho mình một số hàng hóa mà mình có lợi thế so với các quốc gia khác để đầu tư sản xuất và cung cấp cho thị trường toàn cầu và nhập khẩu trở lại các sản phẩm mà mình sản xuất không có hiệu quả bằng các quốc gia khác, từ đó hình thành sự phân công và chuyên môn hóa quốc tế, nền kinh tế của mỗi quốc gia gắn liền với nền kinh tế thế giới. Sự độc lập phát triển của mỗi quốc gia là sự phụ thuộc của quốc gia đó vào thế giới phải cân bằng với sự phụ thuộc của thế giới vào quốc gia đó.

Bảy là, xuất khẩu hàng hóa nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng góp phần thúc đẩy cải tiến cơ chế quản lý, chính sách kinh tế của nhà nước cho phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế.

Toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại đã và đang là xu thế phát triển trên toàn thế giới, nó tác động sâu sắc và toàn diện đối với mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội của các quốc gia, làm cho nền kinh tế mỗi nước ngày càng gắn bó chặt chẽ với nền kinh tế toàn cầu. Hội nhập trở thành động lực phát triển, vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với mỗi quốc gia trên toàn thế giới. Mỗi quốc gia, mỗi ngành và mỗi doanh nghiệp khi tham gia vào thương mại quốc tế là đã tham gia vào một sân chơi khắc nghiệt, bình đẳng và đều phải chấp nhận một luật chơi chung, trong đó sức ép cạnh tranh rất lớn.

Hiện tại hệ thống quản lý thương mại của Việt Nam nhiều nhưng không bài bản, xây dựng còn tùy tiện chưa sát với thực tế do thiếu kinh nghiệm vì vậy chúng ta cần phải rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành cho phù hợp với những cam kết quốc tế, phù hợp với quy định của tổ chức Thương mại thế giới để tạo môi trường pháp lý thông thoáng cho thương mại phát triển.

1.2. Các đặc điểm và nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất, xuất khẩu nông sản

1.2.1. Các đặc điểm của sản xuất và xuất khẩu nông sản

1.2.1.1. Sản xuất và xuất khẩu nông sản mang tính thời vụ cao

Sản xuất nông sản mang đặc trưng là tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp. Do đặc tính tự nhiên, nông sản dễ bị hư hỏng xuống cấp khi bảo quản, vận chuyển, đòi hỏi phải có đầu tư thích đáng và áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến mới có thể bảo quản được lâu dài nhưng cũng chỉ trong thời hạn nhất định. Vì vậy, nếu không quan tâm đến ứng dụng khoa học công nghệ trong việc bảo quản sau thu hoạch hoặc đưa vào chế biến kịp thời thì khi vào vụ thu hoạch các nhà sản xuất vẫn phải bán đổ bán tháo hoặc để nông sản bị hư hỏng, xuống cấp.


1.2.1.2. Sản xuất và xuất khẩu nông sản phải đáp ứng các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm

Phần lớn các nông sản là những mặt hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thiết yếu và có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người, do đó yêu cầu về chất lượng sản phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm của các nước nhập khẩu nông sản rất khác nhau. Mỗi quốc gia nhập khẩu nông sản có những rào cản riêng về tiêu chuẩn kỹ thuật, quy trình chế biến, tiêu chuẩn vệ sinh, yếu tố môi trường, thậm chí cả tiêu chuẩn về lao động sử dụng trong sản xuất và chế biến. Các tiêu chuẩn này ngày càng trở nên chặt chẽ, khắt khe hơn và trở thành vũ khí sắc bén của các quốc gia để bảo hộ nền sản xuất nông nghiệp nội địa trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay. Điều này khiến cho danh mục các mặt hàng cấm nhập khẩu vào các nước càng dài ra. Những sản phẩm sạch là những sản phẩm đạt tiêu chuẩn về bảo vệ sức khỏe cho người, động vật, thực vật và môi trường sinh thái, là những sản phẩm được người tiêu dùng ưa thích vì mục đích bảo vệ sức khỏe.



1.2.1.3. Giá cả hàng nông sản xuất khẩu không ổn định

Giá cả của hàng hóa xuất khẩu là một yếu tố cạnh tranh quan trọng. Muốn giảm giá cho sản phẩm xuất khẩu để thu hút người tiêu dùng thì phải hạ giá thành sản xuất, như vậy, ngoài việc đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất để giảm giá thành còn phải tiến hành nhiều biện pháp khác nhằm giảm các chi phí đầu vào trong cấu thành giá của sản phẩm.

Ở Việt Nam, hầu hết các lĩnh vực kinh doanh đều có chi phí rất cao, khiến cho giá thành sản phẩm thường cao hơn các nước trong khu vực. Các chi phí cơ sở hạ tầng, bưu chính viễn thông, điện nước, phí vận chuyển đều cao hơn so với các nước khác: cước phí vận chuyển container của Việt Nam cao gấp 3 lần so với Singapore, gấp 2,5 lần so với Malayxia, gấp 2 lần so với Indonexia. Trong khi đó, giá nông sản thường gặp phải sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế. Một đặc điểm chính của thị trường nông sản và cũng là thách thức lớn nhất cho xuất khẩu của Việt Nam là tính biến động cao của giá cả. Những biến động trong năm 2008 là những minh chứng cụ thể cho đặc điểm này, bắt đầu là mặt hàng gạo, giá thế giới có khi tăng lên đến 300%, sau đó lại suy giảm.

Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, giá nông sản ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào các yếu tố kinh tế vĩ mô như chính sách tiền tệ, sự cân bằng ngân sách quốc gia, tỉ giá, các chính sách thương mại quốc tế. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu khiến cho tất cả các quốc gia xem xét, điều chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mô và điều này sẽ làm cho giá cả xuất nhập khẩu trở nên khó lường.



1.2.1.4. Sản xuất và xuất khẩu nông sản cần được sự quan tâm của nhà nước

Nông sản là sản phẩm đặc biệt cả trong sản xuất và trong tiêu thụ nên việc xuất khẩu nông sản là hoạt động cần được sự quan tâm của nhà nước. Trong tiến trình hội nhập kinh tế toàn cầu, mỗi nước nhập khẩu đều cố gắng đưa ra những rào cản ngày càng tinh vi, phức tạp gây trở ngại đối với hàng nông sản nhập khẩu nhằm bảo hộ các sản phẩm nông sản trong nước. Muốn tháo gỡ những rào cản này chỉ có thông qua đàm phán, thương lượng ở cấp chính phủ mới có thể giải quyết được.

Từ những đặc điểm cơ bản trên, có thể nói xuất khẩu nông sản có những thuận lợi và khó khăn riêng đòi hỏi mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp xuất khẩu phải có chiến lược phát triển phù hợp nhằm phát huy tối đa lợi thế cạnh tranh của mình trong hoạt động xuất khẩu.

1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu nông sản

1.2.2.1. Các nhân tố quốc tế

A. Các yêu cầu của WTO

a. Tổng quan về Hiệp định nông nghiệp của WTO

* Các cam kết về mở cửa thị trường

Nông nghiệp là lĩnh vực quan trọng và gây ra nhiều tranh cãi trong vòng đàm phán Uruguay. Trong lĩnh vực nông nghiệp, tồn tại 3 quan điểm của 3 nhóm nước gồm: nhóm các nước xuất khẩu, nhóm các nước nhập khẩu và nhóm trung gian là những nước vừa xuất khẩu một số loại nông sản đồng thời lại phải nhập khẩu một số loại nông sản khác. Hầu hết các nước đang phát triển đều thuộc nhóm nhập khẩu nông sản hoặc nhóm thứ 3 là những nước tham gia xuất khẩu một vài mặt hàng nông sản nhất định. Nhưng có điểm cần lưu ý là mặc dù ít nước đang phát triển có thể là những nước xuất khẩu chính tất cả các nhóm hàng nông sản chủ yếu, những mặt hàng nông sản có thế mạnh của từng nước đang phát triển được xuất khẩu đều là những mặt hàng có tính sống còn đối với nền kinh tế.

Các cam kết về mở cửa thị trường trong Hiệp định Nông nghiệp của WTO tập trung chủ yếu vào 3 lĩnh vực cam kết chính: tiếp cận thị trường, hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu.

- Tiếp cận thị trường

Các điều khoản của tiếp cận thị trường trong Hiệp định Nông nghiệp nhằm điều tiết và hạn chế các cản trở đối với thương mại trong nông nghiệp, tập trung vào 2 vấn đề chính là cắt giảm thuế, thuế quan hóa các rào cản phi thuế quan và cam kết mở cửa thị trường tối thiểu.



+ Giảm thuế và thuế quan hóa các rào cản phi thuế quan.

Tất cả các hàng rào thuế quan sẽ bị ràng buộc và sau đó giảm dần theo các cam kết trong hiệp định nông nghiệp. Các nước không được phép tăng mức thuế trần. Các nước phát triển sẽ phải cắt giảm thuế 36% và các nước đang phát triển phải cắt giảm trung bình 24% trong 10 năm. Hiệp định cũng quy định, mỗi dòng thuế phải cắt giảm ít nhất 15% đối với các nước phát triển, 10% đối với các nước đang phát triển và tiến trình cắt giảm phải được tiến hành đều đặn theo từng năm.

Tất cả các biện pháp phi thuế quan phải được chuyển thành thuế (thuế hóa). Mức thuế quan tương ứng của các biện pháp phi thuế quan được lấy mức cơ sở là năm 1986 - 1988. Hiệp định chung quy định 2 ngoại lệ đối với quá trình thuế hóa, đó là: 1) trong những hoàn cảnh nhất định, các nước được sử dụng quyền tự vệ; và 2) các nước được hưởng các ưu đãi đặc biệt trong một số hàng nông sản nhất định.

Các nước đang phát triển, đặc biệt là những nước có tiềm năng về xuất khẩu nông sản, có điều kiện mở rộng thị trường. Do tác động của quá trình thuế hóa và cắt giảm thuế quan, các nước đang phát triển sẽ có điều kiện thâm nhập nhiều hơn vào thị trường các nước phát triển. Đồng thời, việc loại bỏ các biện pháp phi thuế quan sẽ khiến thương mại trong lĩnh vực nông nghiệp công khai, minh bạch và có tính dự đoán cao hơn.

Tuy nhiên, kết quả của quá trình mở cửa trong lĩnh vực nông nghiệp còn nhiều hạn chế, đặc biệt đối với các nước đang phát triển:

Thứ nhất, cho dù hàng rào bảo hộ nông nghiệp đã trở nên rõ ràng và công khai hơn thông qua quá trình thuế hóa các biện pháp phi thuế quan nhưng mức bảo hộ bằng thuế trong nông nghiệp vẫn còn rất cao ở những nước đang phát triển.

Thứ hai, trong quá trình cắt giảm thuế, do quy định mức cắt giảm chung chỉ là 36% và mặc dù mức cắt giảm tối thiểu với một dòng thuế được quy định là 15%, các nước phát triển thường giữ mức thuế cao đối với các sản phẩm nhạy cảm trong khi lại cắt giảm rất mạnh ở những sản phẩm khác để bảo đảm tổng số mức cắt giảm vẫn là 36% đã khiến thuế trong một số hàng nông sản tăng lên nhanh chóng vào cuối vòng đàm phán Uruguay, đặc biệt đối với hàng chế biến xuất khẩu từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển.

+ Các cam kết mở cửa thị trường tối thiểu

Trong trường hợp không có nhu cầu nhập khẩu đối với một số sản phẩm nhất định các nước phát triển vẫn phải tạo cơ hội mở cửa thị trường tối thiểu cho những sản phẩm đó là 3% so với sức tiêu thụ nội địa trong thời kỳ cơ sở 1986 - 1988. Tỷ lệ 3% này bắt đầu thực hiện từ năm 1995 và nâng lên 5% vào năm 2002. Tỷ lệ này là 1% đối với các nước đang phát triển và tăng lên 4% vào năm 2004. Những tỷ lệ thấp hơn đánh vào hàng nhập khẩu trong phạm vi giới hạn hạn ngạch và tỷ lệ cao hơn đánh vào hàng nhập khẩu vượt qua giới hạn hạn ngạch.

Do kết quả của các cam kết mở cửa thị trường tối thiểu, các nước phải nhập khẩu một số lượng khiêm tốn nhất những hàng hóa hạn chế chặt chẽ nhất. Các cam kết này cũng bao gồm các sản phẩm về thịt, sản phẩm về sữa, các loại rau và hoa quả tươi. Việc bảo đảm mở cửa thị trường tối thiểu không yêu cầu các nước phải nhập khẩu một khối lượng hàng nhất định mà chỉ yêu cầu phải tạo cơ hội cho tiếp cận thị trường.

- Hỗ trợ trong nước

Hiệp định Nông nghiệp đã phân các biện pháp hỗ trợ trong nước có yêu cầu được miễn trừ cam kết cắt giảm cần phải thỏa mãn các yêu cầu cơ bản là các biện pháp đó không có tác động bóp méo thương mại và ảnh hưởng đến sản xuất. Người ta quy các loại hỗ trợ này về 3 dạng, đó là: hỗ trợ dạng hộp hổ phách, hỗ trợ dạng hộp xanh lá cây và hỗ trợ dạng hộp xanh da trời.



+ Các biện pháp trong “hộp hổ phách” gồm trợ giá và các thanh toán trực tiếp - là những biện pháp có ảnh hưởng tới thương mại hàng nông sản và phải cắt giảm. Các nước phát triển phải cắt giảm đều 20% mức trợ cấp so với tổng lượng hỗ trợ tính gộp (AMS) của giai đoạn cơ sở trong vòng 6 năm và các nước đang phát triển là 13,3% trong vòng 10 năm.

+ Các biện pháp hỗ trợ dạng hộp xanh lá cây và xanh da trời gồm những chính sách hỗ trợ chung cho ngành nông nghiệp, không hoặc rất ít bóp méo giá trị thương mại và được coi là các biện pháp bảo hộ phù hợp.

- Trợ cấp xuất khẩu

Những khoản chi của Chính phủ hoặc những khoản đóng góp tài chính của các Chính phủ cho các nhà sản xuất hay xuất khẩu để họ xuất khẩu hàng hóa hay dịch vụ được gọi là trợ cấp xuất khẩu. Theo Hiệp định Nông nghiệp, các nước phát triển phải giảm 21% trợ cấp (tính theo lượng trợ cấp) và 36% (tính theo giá trị) trong vòng 6 năm, các nước đang phát triển là 14% (theo lượng) và 24% (theo giá trị) trong vòng 9 năm. Thời kì cơ sở của cắt giảm trợ cấp xuất khẩu được tính từ 1986 - 1990.

Quá trình cắt giảm trợ cấp xuất khẩu hàng nông sản của các nước phát triển sẽ có tác động khác nhau lên các nhóm nước đang phát triển. Đối với các nước phát triển, chính sách trợ cấp xuất khẩu là hệ quả của chính sách hỗ trợ trong nước cho nông dân. Giá nông sản trong nước trở nên cao hơn nhiều so với giá trên thị trường thế giới và do đó để xuất khẩu được thì chính phủ buộc phải trợ cấp cho nông dân nước họ. Đối với những nước đang phát triển, trợ cấp xuất khẩu sẽ giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của họ trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản.

Hiệp định Nông nghiệp, do Mỹ và EU là các nước xuất khẩu nông sản lớn và họ không đề cập đến thuật ngữ bán phá giá mà dùng các cụm từ khác để thay thế, ví dụ trợ cấp xuất khẩu hoặc cạnh tranh xuất khẩu và việc cắt giảm chúng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nước đang phát triển tăng tính cạnh tranh trong xuất khẩu nông sản.

Cũng tương tự như trong hỗ trợ nội địa, do việc cắt giảm là tính theo nhóm mặt hàng và không theo từng mặt hàng cụ thể nên các nước có điều kiện duy trì trợ cấp cho những mặt hàng quan trọng đến cuối thời kì cắt giảm. Điều này càng khiến các nước đang phát triển trong giai đoạn đầu của việc thực hiện Hiệp định Nông nghiệp khó có thể cạnh tranh một cách bình đẳng với hàng nông sản vẫn tiếp tục được trợ cấp của các nước phát triển.

* Các biện pháp bảo hộ phù hợp

Theo Hiệp định Nông nghiệp, các biện pháp hỗ trợ trong nước thuộc dạng hộp xanh lá cây và hộp xanh da trời được coi là các biện pháp bảo hộ phù hợp. Ngoài ra, các nước cũng có thể sử dụng các biện pháp tự vệ đặc biệt để bảo hộ một số loại nông sản.



- Các biện pháp trong “hộp xanh”(Green box) là những chính sách không hoặc rất ít làm bóp méo giá trị thương mại các mặt hàng nông sản. Các chính sách này các nước được tự do áp dụng để hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp, không phải cam kết cắt giảm, bao gồm:

+ Các dịch vụ chung (nghiên cứu khoa học, đào tạo, khuyến nông, bảo vệ thực vật, thú y, cơ sở hạ tầng ngành nông nghiệp);

+ Dự trữ công cộng (quốc gia) vì mục đích an ninh lương thực;

+ Trợ cấp lương thực thực phẩm;

+ Trợ cấp thu nhập cho người có mức thu nhập dưới mức tối thiểu do Nhà nước quy định;

+ Chương trình an toàn và bảo hiểm thu nhập;

+ Giảm nhẹ thiên tai;

+ Trợ cấp về chuyển dịch cơ cấu thông qua chương trình trợ giúp người sản xuất;

+ Trợ cấp về chuyển dịch cơ cấu thông qua chương trình chuyển đất sản xuất nông nghiệp sang sử dụng vào mục đích khác;

+ Trợ cấp về chuyển dịch cơ cấu thông qua hỗ trợ đầu tư;

+ Chương trình môi trường;

+ Chương trình trợ giúp vùng;

+ Các chương trình khác.

- Các biện pháp trong “hộp xanh da trời”(blue box) hỗ trợ trực tiếp cho người sản xuất thông qua các chương trình hạn chế sản xuất: chủ yếu được các nước phát triển đang dư thừa hàng nông sản như EU, Nhật bản, Canađa áp dụng cũng thuộc diện miễn trừ cam kết.

Ngoài ra, các nước đang phát triển được phép áp dụng các chính sách hỗ trợ nhằm khuyến khích sản xuất theo chương trình phát triển, bao gồm:

+ Trợ cấp đầu tư;

+ Trợ cấp đầu vào cho người nghèo có thu nhập thấp hoặc nông dân ở vùng khó khăn;

+ Trợ cấp để nông dân chuyển từ việc trồng cây thuốc phiện sang trồng cây khác hoặc chăn nuôi.

Các biện pháp trong hộp xanh da trời không bị cắt giảm nhưng phải tuân thủ Điều khoản hạn chế hợp lý quy định các chi phí hỗ trợ đối với một sản phẩm nhất định không được vượt quá số lượng vào thời điểm năm 1992.

Nhìn chung, các điều khoản về giảm dần và xóa bỏ hỗ trợ trong nước đối với sản xuất nông nghiệp sẽ tạo ra điều kiện tăng tính cạnh tranh cho hàng nông sản của các nước đang phát triển. Do mức hỗ trợ nội địa giảm, hàng nông sản của các nước phát triển phải cạnh tranh một cách bình đẳng hơn với hàng nông sản của các nước đang phát triển.

- Các trường hợp ngoại lệ (quyền tự vệ và các ưu đãi đặc biệt trong nông nghiệp)

Tự vệ là trường hợp hạn chế bất thường có tính chất tạm thời đối với nhập khẩu nhằm giải quyết tình huống đặc biệt như nhập khẩu quá mức. Nhìn chung, các biện pháp tự vệ được điều chỉnh bằng Hiệp định về tự vệ. Điều khoản về tự vệ đặc biệt trong nông nghiệp khác với tự vệ thông thường. Mức thuế tự vệ cao có thể được áp dụng một cách tự động khi khối lượng nhập khẩu vượt qua một mức nào đó, hoặc nếu giá cả giảm xuống quá mức nào đó và không cần phải chứng minh những tổn thương mà nó gây ra đối với ngành sản xuất trong nước.

WTO hiện nay vẫn giữ nguyên quyền sử dụng các biện pháp tự vệ đặc biệt đối với nông sản. Để thực thi các biện pháp tự vệ đặc biệt (SSG), điều kiện tiên quyết là phải có hệ thống thống kê có khả năng cập nhật và cung cấp nhanh chóng, chính xác số liệu nhập khẩu, thông tin về giá... Do đó, có thể thấy SSG là công cụ hữu hiệu của các nước công nghiệp phát triển, giúp phản ứng nhanh, hiệu quả để bảo vệ nhà sản suất trong nước trước những đột biến của thị trường nông sản thế giới. Nhiều nước đang phát triển, kinh tế phụ thuộc nông nghiệp rất dễ bị tổn thương trước các biến động thị trường, lại không được tiếp cận quyền này. Còn tự vệ lại dường như là một công cụ quá xa xỉ đối với các nước đang phát triển do hạn chế về kỹ thuật, tài chính và hệ thống pháp lý.



* Các ngoại lệ được phép

- An ninh lương thực

An ninh lương thực là sự bảo đảm bình ổn việc cung cấp đầy đủ lương thực cho tất cả mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc nhằm đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng để sống và làm việc có năng suất và có hiệu quả. An ninh lương thực phải đảm bảo 4 mục tiêu cơ bản là tính sẵn sàng - đảm bảo đủ lương thực để cung cấp; tính ổn định - đảm bảo phân phối tốt lương thực thỏa mãn các yêu cầu đúng số lượng, đúng chất lượng, đúng nơi, đúng lúc; tính tiếp cận - đảm bảo mọi người có khả năng mua lương thực và cuối cùng là tính vệ sinh - đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn sức khỏe dinh dưỡng. Bảo đảm an ninh lương thực còn là bảo đảm chiến lược phát triển nhân lực quốc gia, động lực phát triển nhiều ngành nghề đa dạng. Không những thế, an ninh lương thực còn đảm bảo sự ổn định chính trị xã hội của đất nước.

Để đảm bảo an ninh lương thực, nhiều Chính phủ áp dụng các chương trình quốc gia dự trữ lương thực, thực phẩm (lúa, gạo, ngô…). Bên cạnh đó, còn có các chương trình dự trữ các mặt hàng thiết yếu đối với sản xuất nông nghiệp như giống cây, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật; các biện pháp hạn chế xuất khẩu như kiểm soát xuất khẩu lương thực để duy trì sự ổn định cung cầu trên thị trường nội địa với mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực cũng được coi như các ngoại lệ được phép trong bảo hộ nông sản.

- Bảo vệ nguồn gen

Việc phổ biến các giống cây có năng suất cao đã làm giảm mức độ đa dạng gen trong các loài cây trồng chủ chốt. Một loại cây trồng được đưa vào môi trường mới đòi hỏi lai cấy hàng nghìn gen mới. Khi được trồng trên diện rộng, nó có tác dụng sinh thái đáng kể đối với hệ động thực vật bản địa, bao gồm cả các côn trùng có lợi. Vì vậy, những quan ngại về việc ô nhiễm gen đã làm nảy sinh yêu cầu bảo vệ nguồn gen trước nguy cơ xâm hại của các giống ngoại lai nhập khẩu. Nhiều nước đã bày tỏ những lo ngại như việc cấy ghép gen ngẫu nhiên, tính bất ổn định của gen, và sự đột biến gen do lai cấy gen...Mặc dù không nằm trong các điều khoản của Hiệp định Nông nghiệp, các lí do bảo hộ được đưa ra xuất phát từ yêu cầu này thường được coi là hợp lí.



*Các ưu đãi đối với thành viên đang phát triển

Ngay trong lời mở đầu của Hiệp định Nông nghiệp, các thành viên của WTO đã ghi nhận rằng: các cam kết trong chương trình cải cách cần phải đạt được một sự bình đẳng giữa tất cả các thành viên, có xem xét đến các yêu tố phi thương mại, kể cả an ninh lương thực và nhu cầu bảo vệ môi trường, có xem xét đến thỏa thuận rằng đối xử đặc biệt và khác biệt đối với các nước đang phát triển là yếu tố không thể tách rời trong đàm phán và có tính đến các hậu quả tiêu cực có thể của việc thực hiện chương trình cải cách đối với các nước kém phát triển và các nước đang phát triển nhập khẩu lương thực.

Theo thỏa thuận chung, các nước đang phát triển và chậm phát triển sẽ được hưởng một số ưu đãi về hỗ trợ trong nước, trợ cấp xuất khẩu và một số đối xử đặc biệt và khác biệt. Việt Nam là một nước đang phát triển ở vào trình độ thấp, lại là một nước đang thực thi cải cách và chuyển đổi cơ chế quản lý nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, vì vậy, chúng ta phải vận dụng một cách tốt nhất các quy định cho phép đối với các nước đang phát triển và đang chuyển đổi trong việc xây dựng các hàng rào phi thuế nhằm bảo hộ một số nông sản chủ yếu.

b. Các biện pháp phi thuế quan khác trong khuôn khổ WTO có liên quan đến hàng nông sản

Cộng đồng quốc tế và quốc gia đến nay đã xây dựng được một hệ thống công cụ pháp lý rất đồ sộ để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, trong đó quan trọng nhất là:



(1) Bộ Tiêu chuẩn thực phẩm của FAO

Ủy ban tiêu chuẩn thực phẩm CAC (Codex Alimentarius Commision) của Liên Hiệp Quốc do Tổ Chức Lương Thực và Nông Nghiệp (FAO) và Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) đồng thành lập năm 1962 nhằm phối hợp với Tổ Chức Tiêu Chuẩn Hóa Quốc Tế (ISO) nghiên cứu xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn, hướng dẫn và những văn bản quốc tế có liên quan về thực phẩm như bộ qui tắc thực hiện trong khuôn khổ Chương Trình hỗn hợp về tiêu chuẩn thực phẩm của FAO/WHO. Mục tiêu hoạt động của CAC là thực hiện tiêu chuẩn hóa quốc tế trong lĩnh vực thực phẩm nhằm kiểm soát chặt chẽ quá trình nuôi trồng, chế biến, vận chuyển, bảo quản để ngăn chặn tác hại do thực phẩm không đảm bảo chất lượng gây ra. Luật Thực phẩm này gồm 13 chương trong đó chủ yếu đưa ra các tiêu chuẩn và nguyên tắc thực phẩm trong quá trình chế biến sản phẩm, bán sản phẩm, nguồn nguyên liệu cũng như quá trình phân phối tới người tiêu dùng. Luật thực phẩm cũng đưa ra qui định về thực phẩm biến đổi gien, phụ gia thực phẩm, tồn dư hóa chất, sự nhiễm bẩn, dán nhãn, phương thức phân tích và lấy mẫu.

CAC đã công bố được 237 tiêu chuẩn Codex cho các hàng thực phẩm, 41 quy phạm thực hành công nghệ và vệ sinh, 3.274 quy định giới hạn dư lượng tối đa cho phép đối với các chất nhiễm bẩn trong thực phẩm và khoảng 1.000 tài liệu hướng dẫn khác. Giữa CAC và ISO đã có một thỏa thuận chung về phạm vi tiêu chuẩn hóa trong lĩnh vực thực phẩm của hai tổ chức, trong đó ISO chỉ chủ yếu xây dựng các tiêu chuẩn về phương pháp thử còn CAC xây dựng các tiêu chuẩn về yêu cầu cụ thể của sản phẩm. Việc hài hòa tiêu chuẩn thực phẩm ở phạm vi toàn cầu và khu vực trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm thường lấy tiêu chuẩn của CODEX làm chuẩn.

(2) Hiệp định về áp dụng các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS)

Đây là Hiệp Định được ký kết tại vòng đàm phán Urugoay của WTO để điều tiết việc áp dụng các quy định liên quan đến vấn đề an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật. Hiệp Định đề cập đến những biện pháp khác nhau được các chính phủ sử dụng để đảm bảo rằng thực phẩm cho người và động vật phải được an toàn, không có độc tố, không bị nhiễm bẩn và các biện pháp bảo vệ sức khỏe cho con người khỏi các côn trùng hoặc bệnh tật do các loại động thực vật mang theo. Tuy nhiên, các thành viên WTO đều phải đảm bảo rằng những biện pháp mà họ áp dụng không tạo ra những trở ngại cho thương mại quốc tế.



+ Mục tiêu của Hiệp Định: là xây dựng những quy định nhằm điều chỉnh quyền phấn đấu đạt mục tiêu đề ra trong công tác bảo vệ sức khỏe của một quốc gia. Chuẩn mực quốc tế là những cơ sở chấp nhận được trong quá trình soạn thảo các qui định quốc gia. Hiệp Định khuyến khích các chính phủ sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế và miễn giải trình đối với hệ thống quy định quốc gia được xây dựng theo những tiêu chuẩn này. Trong trường hợp một quốc gia không muốn áp dụng tiêu chuẩn quốc tế thì quốc gia này phải đáp ứng được những yêu cầu về tính phù hợp của những quy định quốc gia với chuẩn mực quốc tế dựa trên cơ sở chứng minh khoa học. SPS quy định, nếu quy định quốc gia nghiêm ngặt hơn quy định quốc tế thì nước đó phải có “chứng cứ xác thực” chứng minh được tính cần thiết phải duy trì, áp dụng các quy định riêng đó. Khái niệm phân tích rủi ro có vai trò đặc biệt quan trọng trong Hiệp định SPS. Quá trình phân tích gồm nhiều giai đoạn, đặc biệt có giai đoạn đánh giá (Assessment) và giai đoạn quản lý rủi ro (Risk Management). Sản phẩm các nước đang áp dụng các quy định bắt buộc về độ an toàn và sức khỏe, tuân thủ các quy định về vệ sinh dịch tễ gồm: rau và hoa quả tươi, nước quả và các chế phẩm thực phẩm, thịt và các sản phẩm thịt, các sản phẩm sữa, các sản phẩm chế biến.

+ Một số nguyên tắc áp dụng cơ bản của Hiêp Định:

Каталог: dao-tao-tuyen-sinh -> thong-bao

tải về 1.85 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương