BỘ giáo dục và ĐÀo tạo bộ CÔng thưƠng viện nghiên cứu thưƠng mại nguyễn thị ĐƯỜng giải pháP ĐẨy mạnh xuất khẩu hàng nông sản việt nam vào thị trưỜng trung quốc luậN Án tiến sỹ kinh tế


- Các biện pháp áp dụng để bảo vệ con người, động thực vật phải dựa trên các chứng cứ khoa học thông qua các quá trình phân tích rủi ro. -



tải về 1.85 Mb.
trang3/17
Chuyển đổi dữ liệu23.08.2016
Kích1.85 Mb.
#26554
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17

- Các biện pháp áp dụng để bảo vệ con người, động thực vật phải dựa trên các chứng cứ khoa học thông qua các quá trình phân tích rủi ro.

- Các biện pháp SPS chỉ áp dụng tới mức cần để bảo vệ cuộc sống con người và động thực vật, không được tạo ra sự phân biệt đối xử tùy tiện hoặc phi lý giữa các quốc gia thành viên khi họ có điều kiện tương ứng.

- Các quốc gia thành viên được khuyến khích thiết lập các biện pháp trên cơ sở các tiêu chuẩn, quy chế và khuyến nghị quốc tế để hài hòa với các biện pháp vệ sinh an toàn động thực vật được quốc tế thừa nhận. Nhưng họ cũng được thực hiện hoặc duy trì các biện pháp nghiêm ngặt hơn nếu các biện pháp này được dựa trên các chứng minh khoa học.

- Nguyên tắc phân vùng tức là phân loại các vùng không là đối tượng điều chỉnh của Hiệp định trong phạm vi quốc gia. Nguyên tắc không phân biệt đối xử đối với một loại sản phẩm có xuất xứ khác nhau.

- Nguyên tắc ưu tiên áp dụng hệ thống quy định nào gây cản trở ít nhất đối với các hoạt động trao đổi thương mại song vẫn đem lại những kết quả đáp ứng được mục tiêu chung như các hệ thống quy định khác. Nguyên tắc minh bạch, nhất quán của hệ thống quy định, đặc biệt là nghĩa vụ thông báo và tạo điều kiện cho quá trình kiểm tra được tiến hành trong những điều kiện thực tế chấp nhận được.

- Hiệp Định yêu cầu các nước thành viên phải:

  • Sử dụng những tiêu chuẩn, hướng dẫn hoặc khuyến nghị quốc tế làm cơ sở cho cho các quy định về SPS của họ.

  • Tham gia tích cực vào hoạt động của các tổ chức quốc tế đặc biệt là đạo luật về thực phẩm; Hiệp định bảo vệ thực vật quốc tế nhằm đẩy mạnh việc hài hòa các quy định về SPS trên thế giới.

  • Tạo điều kiện cho các đối tác ở những nước khác có cơ hội để đóng góp ý kiến vào dự thảo các tiêu chuẩn nếu chúng không căn cứ trên các quy định tiêu chuẩn quốc tế hoặc các tiêu chuẩn quốc tế được coi là không phù hợp.

  • Chấp nhận những biện pháp SPS của các nước xuất khẩu nếu những tiêu chuẩn này đạt mức độ tương tự như mức độ của các nước nhập khẩu.

  • Hiệp định quy định các nước kém phát triển nhất có thể hoãn việc thực hiện các điều khoản về nhập khẩu trong vòng 5 năm. Các nước đang phát triển có thể hoãn thực hiện các điều khoản này đến cuối năm 1996.

(3) Hiệp định của WTO về hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT)

Hiệp định tập trung vào hai nội dung chính: chuẩn mực kỹ thuật và tiêu chuẩn từ khâu đóng gói, dán nhãn mác hay nhãn hiệu chứng nhận sản phẩm đến các thủ tục kiểm tra quy cách của sản phẩm. Mục đích của Hiệp định là làm sao để các quy định pháp luật, tiêu chuẩn kỹ thuật và quy trình thử nghiệm, công nhận không gây ra những trở ngại không cần thiết cho thương mại.

Hiệp định này nhằm dung hòa hai mục tiêu trái ngược nhau: vừa đảm bảo cho các nhà nước có quyền được tự do bảo vệ an ninh quốc gia, sức khỏe con người, môi trường vừa không gây trở ngại đối với hoạt động thương mại. Đồng thời Hiệp định cũng thừa nhận tiêu chuẩn quốc tế có thể tạo điều kiện cho chuyển giao công nghệ sang các nước đang phát triển song đây cũng có thể là rào cản đối với chính các nước này. Hiệp định tôn trọng quy chế đãi ngộ tối huệ quốc và đối xử quốc gia. Để tránh tình trạng các chuẩn mực đưa ra nhằm bảo hộ mậu dịch, Hiệp định khuyến cáo các thành viên áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế và thông báo cho các thành viên khác những thay đổi trong hệ thống tiêu chuẩn của mình.

(4) Hệ thống phân tích tác hại và mức kiểm soát cao nhất HACCP (Hazard Analysis and Critical Control Point)

Đây là công cụ quản lý quy trình sản xuất khép kín những sản phẩm cần được đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm như rau quả, thuốc tân dược…Đối với các loại hàng này không áp dụng tiêu chuẩn chất lượng ISO mà áp dụng hệ thống phân tích tác hại và mức kiểm soát cao nhất HACCP trên cơ sở thực hành sản xuất đúng quy chuẩn. Đối với hàng nông sản như rau quả thì áp dụng quy trình GAP (Good Agricultural Practice), với tân dược là GPP (Good Pharmaceutical Practice), với nuôi trồng thủy sản là BAP (Best Aquaculture Practices). HACCP không phải là hệ thống đơn độc mà phải đồng hành với các chương trình an toàn thực phẩm hiện hành.



(5) Thực hành quy trình sản xuất đúng quy chuẩn GMP (Good Manufacturing Practice)

GMP quy định các biện pháp giữ vệ sinh chung cũng như các biện pháp ngăn ngừa thực phẩm bị lây nhiễm do điều kiện vệ sinh trong quy trình sản xuất kém. GMP đề cập đến nhiều mặt hoạt động của xí nghiệp và tập trung vào các thao tác, quy trình sản xuất cụ thể của công nhân. Những nội dung cơ bản của điều kiện thực hành sản xuất tốt GMP bao gồm: các điều kiện về nhà xưởng, phương tiện chế biến, những yêu cầu về kiểm soát vệ sinh nhà xưởng, trang trại, kiểm soát qúa trình chế biến, kiểm soát khâu bảo quản và phân phối cũng như các yêu cầu về con người. Việc kiểm tra các xí nghiệp hoạt động theo HACCP khác với các phương pháp kiểm tra truyền thống để kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm. Các biện pháp truyền thống đánh giá hoạt động chỉ trong những ngày thanh tra. Cách tiếp cận của HACCP và GMP cho phép nhà chức trách xem xét những gì đang xảy ra trong xí nghiệp bằng cách kiểm tra các sổ nhật ký theo dõi giám sát mọi hành động của công nhân trong qúa trình sản xuất. Phương pháp HACCP và GMP áp dụng khá phổ biến cho sản xuất ở các trang trại trồng rau, hoa quả, chế biến thủy hải sản…Có thể nói đây là biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm hữu hiệu hiện nay. Nó khắc phục được xu thế chỉ nhìn nhận vào lỗi của thành phẩm mà chuyển sang chủ động phòng ngừa trong suốt quá trình hình thành sản phẩm.



(6) Công ước Bảo vệ thực vật (IPPC) và các tiêu chuẩn về kiểm dịch thực vật (ISPM)

Đây là các Công ước quốc tế để cùng nhau thực hiện những hành động chung có hiệu quả nhằm ngăn ngừa sự lây lan của các loài sâu bệnh trên thực vật và sản phẩm từ thực vật.

Vệ sinh an toàn thực phẩm là vấn đề được cộng đồng quốc tế hết sức quan tâm và đã cùng nhau xây dựng các chuẩn mực quốc tế nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong mọi hoạt động buôn bán xuất nhập khẩu quốc tế hàng nông thủy sản, ngăn ngừa sự lây lan dịch bệnh hoặc sử dụng tùy tiện các chất phụ gia trong sản xuất chế biến thực phẩm. Trên đây là những chế định quốc tế cơ bản trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm hàng nông, lâm, thủy sản mà các nước phải có nghĩa vụ tuân thủ. Các quốc gia có quyền đưa ra những tiêu chuẩn của riêng mình nhưng mọi quy định quốc gia phải phù hợp với những tiêu chuẩn quốc tế. Nếu vì điều kiện cụ thể mà tiêu chuẩn có thể khác hoặc khắt khe hơn nhưng phải được chứng minh bằng những phân tích, thử nghiệm khoa học xác đáng được các nước thừa nhận.

B. Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) và Chương trình Thu hoạch sớm (EHP)

Tại Hội nghị cấp cao ASEAN - Trung Quốc lần thứ 3 tháng 11/2000 ở Singapore, Thủ Tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ đã chủ động đề xuất xây dựng khuôn khổ hợp tác kinh tế sâu sắc hơn giữa các nước ASEAN và Trung Quốc, nhất là việc thành lập khu vực Mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Sau thời gian chuẩn bị, ngày 14/11/2002 Hiệp định khung về Hợp tác Kinh tế Toàn diện ASEAN - Trung Quốc đã được ký kết tại Campuchia tạo khuôn khổ pháp lý thống nhất điều chỉnh toàn bộ các hoạt động hợp tác kinh tế giữa các nước ASEAN và Trung Quốc, đặc biệt là việc thiết lập khu vực Mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc trong vòng 10 năm (ACFTA)

Hiệp định ACFTA điều tiết bốn lĩnh vực lớn là: Hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và các lĩnh vực hợp tác kinh tế khác. ACFTA sẽ thực hiện vào năm 2010 đối với 6 nước thành viên cũ của ASEAN (Brunei, Indonesia, Malaysia, Singapore, Philippine, Thailand) và Trung Quốc. Bốn nước thành viên mới của ASEAN là Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam sẽ hoàn thiện vào năm 2015. Hiệp định ACFTA qui định:


  • Các mặt hàng là đối tượng cắt giảm thuế được chia thành hai danh mục chủ yếu: Danh mục thông thường và Danh mục nhạy cảm. Với Danh mục thông thường, các nước ASEAN - 6 và Trung Quốc sẽ cắt giảm và loại bỏ thuế quan theo lộ trình từ 1/1/2005 đến năm 2010. Đối với các nước thành viên mới của ASEAN thời gian sẽ được kéo dài thêm 5 năm, bắt đầu từ 1/1/2005 và kết thúc vào năm 2015.

  • Đối với hàng hóa thuộc Danh mục nhạy cảm có cơ chế cắt giảm thuế linh hoạt hơn với thời hạn kết thúc, thuế suất cuối cùng và số lượng giới hạn.

  • Các bên có quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ thuần phong mỹ tục, sức khỏe, con người và động thực vật phù hợp với Điều XX của Hiệp định GATT.

Chương trình Thu hoạch sớm (EHP): là chương trình ưu đãi thuế quan được đặt ra nhằm ưu tiên thực hiện sớm các mức ưu đãi về thuế quan trong khuôn khổ khu vực Mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc trên cơ sở có đi có lại giữa các bên.

Trung Quốc và các nước ASEAN thống nhất chọn các mặt hàng từ Chương 1 đến Chương 8 của Danh bạ thuế quan hài hòa ASEAN (HS) với 8/9 chữ số để áp dụng EHP ngoại trừ các mặt hàng nằm trong Danh mục loại trừ; bao gồm; Chương 1 về động vật sống; Chương 2 về thịt và nội tạng động vật; Chương 3 về cá; Chương 4 về sữa và các sản phẩm sữa; Chương 5 về các sản phẩm khác từ động vật; Chương 6 về cây sống; Chương 7 về rau ăn; Chương 8 về quả và hạt ăn được.

Đối với các bên có mặt hàng nằm trong danh mục loại trừ có thể sửa đổi danh mục đó bất cứ lúc nào để đưa một hoặc nhiều mặt hàng trong danh mục này vào EHP. Các mặt hàng trong EHP được chia thành 3 nhóm để cắt giảm và xóa bỏ thuế quan theo khung thời gian quy định, tuy nhiên không ngăn cản bất kỳ bên nào đẩy nhanh việc cắt giảm và xóa bỏ thuế quan nếu bên đó muốn. Nhóm hàng được xác định như sau:

Nhóm 1: đối với Trung Quốc và các nước ASEAN - 6, áp dụng đối với tất cả mặt hàng có thuế suất MFN lớn hơn 15%. Các nước ASEAN khác thì áp dụng với tất cả mặt hàng có thuế suất MFN bằng 30% hoặc lớn hơn.

Nhóm 2: đối với Trung Quốc và các nước ASEAN - 6, áp dụng đối với tất cả mặt hàng có thuế suất MFN từ 5% đến 15% (kể cả các mặt hàng có thuế suất bằng 5% và 15%). Các nước ASEAN khác thì áp dụng với tất cả mặt hàng có thuế suất MFN từ 15% đến 30% (kể cả các mặt hàng có thuế suất 15% nhưng không áp dụng với mặt hàng có thuế suất 30%)

Nhóm 3: đối với Trung Quốc và các nước ASEAN - 6, áp dụng đối với tất cả mặt hàng có thuế suất MFN nhỏ hơn 5%. Các nước ASEAN khác thì áp dụng với tất cả mặt hàng có thuế suất MFN nhỏ hơn 15%. Các sản phẩm có mức thuế MFN 0% sẽ giữ nguyên ở mức 0%. Còn nếu mức thuế thực hiện được giảm xuống 0% thì sẽ giữ nguyên mức 0%.

Lộ trình cắt giảm thuế theo EHP:

Đối với Trung Quốc và các nước ASEAN - 6: EHP được thực hiện trong vòng 3 năm. Theo đó việc cắt giảm thuế được bắt đầu từ 1/1/2004 và hoàn thành không muộn hơn năm 2006. (Mức thuế suất vào thời điểm hoàn thành là 0%)

Đối với các thành viên mới của ASEAN, thời gian cắt giảm chậm hơn, cách thức cắt giảm linh hoạt hơn. Việt Nam bắt đầu thực hiện cắt giảm thuế từ 1/1/2004 nhưng hoàn thành không muộn hơn 1/1/2008.

Người ta quy định 2 danh mục: Danh mục hàng nhạy cảm cao và Danh mục hàng nhạy cảm thông thường.



Danh mục nhạy cảm thông thường (SL) được giới hạn số lượng các dòng thuế mà mỗi bên có thể đưa vào: Đối với các nước ASEAN - 6 và Trung Quốc: gồm 400 dòng thuế ở cấp HS 6 số và 10% tổng giá trị nhập khẩu dựa trên thống kê thương mại năm 2001. Đối với Campuchia, Lào, Myanmar gồm 500 dòng thuế cấp HS 6 số. Việt Nam có 500 dòng thuế cấp HS 6 số và mức trần tính trên giá trị nhập khẩu sẽ được quyết định không muộn hơn ngày 31/12/2004.

Danh mục nhạy cảm cao (HSL) tuân thủ mức trần sau: Đối với ASEAN - 6 và Trung Quốc: không vượt quá 40% tổng số dòng thuế trong Danh mục nhạy cảm hoặc 100 dòng thuế cấp HS 6 số tùy theo mức nào thấp hơn. Đối với Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam: không vượt qúa 40% tổng số dòng thuế trong Danh mục nhạy cảm hoặc 150 dòng thuế ở cấp HS 6 số tùy theo mức nào thấp hơn.

Lịch trình cắt giảm:

Các mặt hàng nhạy cảm thường (SL): Các nước ASEAN - 6 và Trung Quốc sẽ giảm thuế suất MFN của các dòng thuế được đưa vào Danh mục nhạy cảm thông thường tương ứng của mình xuống 20% không muộn hơn ngày 1/1/2012. Các thuế suất này sau đó sẽ được giảm xuống 0% - 5% không muộn hơn ngày 1/1/2018. Đối với Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam sẽ giảm thuế suất MFN áp dụng của các dòng thuế được đưa vào Danh mục nhạy cảm thông thường tương ứng của mình xuống còn 20% không muộn hơn ngày 1/1/2015. Các thuế suất này sau đó sẽ được giảm xuống còn 0% - 5% không muộn hơn 1/1/2020.

Các mặt hàng nhạy cảm cao (HSL): Các bên sẽ giảm thuế suất MFN áp dụng của các dòng thuế được đưa vào Danh mục nhạy cảm cao tương ứng xuống không quá 50% không muộn hơn 1/1/2015 đối với các nước ASEAN - 6 với Trung Quốc và 1/1/2018 đối với các quốc gia thành viên mới của ASEAN.

Tuy nhiên, bên nào cũng có thể đơn phương đẩy nhanh cắt giảm hoặc loại bỏ các dòng thuế trong Danh mục nhạy cảm vào bất kỳ thời gian nào nếu muốn, đồng thời bất cứ bên nào cũng có thể đơn phương chuyển bất kỳ dòng thuế nào từ Danh mục nhạy cảm sang Danh mục thông thường vào bất kỳ thời gian nào nếu muốn.



C. Cơ chế, chính sách của các nước nhập khẩu

Cũng như các lĩnh vực khác, trong nông nghiệp, tiếp cận thị trường là mức độ một nước cho phép hàng nhập khẩu bên ngoài thâm nhập vào thị trường của mình. Trong thương mại hàng nông sản, ngoài thuế quan, các biện pháp phi thuế quan thường được sử dụng để điều tiết việc nhập khẩu nông sản.

Mặt hàng nông sản nhập khẩu vào một quốc gia có thể được điều chỉnh và bị chi phối bởi một hệ thống các luật sau đây: luật kiểm soát ngoại hối và ngoại thương, luật và quy định liên quan đến hàng cấm, luật và quy định liên quan đến kiểm dịch của Chính phủ, các thủ tục hải quan, các quy định về thuế, luật về trách nhiệm sản phẩm…Nếu quốc gia nhập khẩu có một hệ thống luật thông thoáng đối với các nhà xuất khẩu nông sản, các rào cản thương mại như chính sách thuế và các công cụ phi thuế quan không quá khắt khe, thì sẽ tạo điều kiện cho mặt hàng nông sản của nước xuất khẩu dễ dàng thâm nhập vào thị trường nhập khẩu. Ngược lại, sẽ tạo nên áp lực hạn chế hoạt động xuất khẩu nông sản của quốc gia xuất khẩu. Mặt khác để không gặp phải những khó khăn khi đưa hàng nông sản thâm nhập vào thị trường nước ngoài, các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản cần chủ động tìm hiểu về hệ thống luật pháp, đặc biệt là các quy định về chất lượng và kỹ thuật đối với hàng nông sản. Nếu những quy định này là hợp lý (ví dụ như các quy định về sản phẩm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm) thì các doanh nghiệp buộc phải tuân theo. Ngược lại, nếu những quy định này thiếu hợp lý do quốc gia nhập khẩu muốn bảo hộ ngành sản xuất trong nước thì nước xuất khẩu cần nhanh chóng đàm phán với nước nhập khẩu để rỡ bỏ.

D. Nhu cầu của nước nhập khẩu

Hoạt động xuất khẩu là hoạt động bán hàng hóa và dịch vụ từ quốc gia này sang quốc gia khác. Vì thế xuất khẩu không chỉ phụ thuộc vào nhóm nhân tố bên trong quốc gia xuất khẩu mà còn phụ thuộc vào những nhân tố thuộc về quốc gia nhập khẩu. Các nhân tố đó là:



Môi trường văn hóa - xã hội của nước nhập khẩu: Môi trường sống, các phong tục tập quán, thói quen…là các nhân tố quyết định đến sở thích, thị hiếu người tiêu dùng. Người tiêu dùng ở các quốc gia khác nhau lại có sở thích và thị hiếu tiêu dùng khác nhau. Doanh nghiệp muốn xuất khẩu hàng nông sản hiệu quả trên từng thị trường thì phải hiểu rõ những sở thích và thị hiếu tiêu dùng đó. Đối với mặt hàng nông sản, đây là mặt hàng phụ thuộc rất nhiều vào khẩu vị và thói quen tiêu dùng, đồng thời nhu cầu về nông sản có thể tăng giảm theo xu hướng tiêu dùng như: tăng sử dụng các loại nông sản có lợi cho sức khỏe, tăng sử dụng nông sản trái vụ, sử dụng nhiều nông sản vì mục đích ăn kiêng…Các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản trước khi xâm nhập vào thị trường nước ngoài cần phải có quá trình tìm hiểu thị hiếu và sở thích người tiêu dùng cùng với những xu hướng tiêu dùng nông sản trên thị trường đó nhằm đáp ứng tốt nhất những yêu cầu của thị trường.

Thu nhập của nước nhập khẩu: Khi thu nhập tăng lên, người tiêu dùng của nước nhập khẩu nông sản sẽ tiêu dùng nhiều hơn do có nguồn tài chính dồi dào hơn. Khi đó, hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng của nước xuất khẩu sẽ có cơ hội tăng lên và ngược lại, khi kinh tế quốc gia nhập khẩu gặp khó khăn sẽ khiến sản lượng cũng như giá trị xuất khẩu của quốc gia xuất khẩu giảm.

Mức độ cạnh tranh: Một thị trường nhập khẩu tiềm năng luôn là đích đến của các quốc gia xuất khẩu. Các nước xuất khẩu nông sản luôn muốn thâm nhập vào các thị trường tiềm năng, vì vậy mà những thị trường này thường có môi trường cạnh tranh khốc liệt. Hiểu rõ những điểm mạnh và điểm yếu của bản thân doanh nghiệp và của đối thủ cạnh tranh, sẽ giúp doanh nghiệp xuất khẩu nông sản có chiến lược cạnh tranh hiệu quả, đồng thời ứng phó kịp thời với những biến động của thị trường.

Ngoài ra còn có những yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến xuất khẩu nông sản như: sự biến động của giá cả, sự biến động thị trường, các dịch vụ đi kèm sản phẩm…Điều quan trọng là chúng ta cần phải nghiên cứu và hiểu rõ tất cả các yếu tố ảnh hưởng đó để có thể hoạch định chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu nông sản sang thị trường nước ngoài một cách hiệu quả nhất.



1.2.2.2. Các nhân tố quốc gia

a) Nhân tố về điều kiện tự nhiên cho sản xuất nông sản

Nhân tố này bao gồm các điều kiện về đất đai, khí hậu, vị trí địa lý của mỗi quốc gia mà từ đó tạo ra những thuận lợi hay khó khăn khách quan cho sản xuất và xuất khẩu nông sản. Các quốc gia trên thế giới như ở Mỹ La Tinh đang có vị trí đáng kể về sản xuất và xuất khẩu nông sản, đa phần là những quốc gia có điều kiện đất đai, khí hậu, nguồn nước khá thuận lợi cho sản xuất nông sản.

Sản xuất nông nghiệp nói chung, chịu sự tác động rất lớn của các yếu tố tự nhiên như: thời tiết, thiên tai, lũ lụt, do đó, mức độ rủi ro trong kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản rất lớn, đôi khi không lường trước được và không tránh khỏi những tổn thất và thiệt hại ngay cả khi được mùa thu hoạch. Mặt khác, do sự khác biệt và không ổn định về thời tiết, khí hậu giữa các vùng miền cũng như khả năng khắc phục những khó khăn của điều kiện tự nhiên ở các quốc gia, các vùng, các địa phương khác nhau khiến cho khả năng cung cấp nông sản làm nguyên liệu không ổn định. Do đó có thể lúc này, nơi này việc sản xuất và xuất khẩu một vài loại nông sản gặp khó khăn, nhưng ở nơi khác lại là thuận lợi, do vậy nếu một quốc gia hoặc doanh nghiệp nắm bắt được tính bất ổn về thời tiết thì không những hạn chế được rủi ro, tổn thất mà còn nâng cao được hiệu quả xuất khẩu nông sản.

Việt Nam là một quốc gia có lợi thế về điều kiện tự nhiên để sản xuất và xuất khẩu nông sản. Việt Nam có nhiều tiềm năng về đất, với diện tích 330.363 km2, trong đó diện tích đất nông nghiệp có khoảng 10,5 triệu ha gồm nhiều loại thổ nhưỡng có giá trị kinh tế cao như đất đỏ bazan, đất phù sa rất thích hợp để phát triển các cây công nghiệp như cà phê, cao su, chè và các loại cây lương thực, cây ăn quả, rau màu, với tài nguyên đất đai, khí hậu và địa hình đa dạng nên sản xuất nông nghiệp khá thuận lợi.

Trong xu thế toàn cầu hóa của nền kinh tế thế giới, hầu hết các yếu tố đầu vào của sản xuất nông nghiệp đều đã được quốc tế hóa, giá cả gần như trên cùng một mặt bằng thì yếu tố lao động đã trở thành yếu tố quan trọng trong cạnh tranh, Việt Nam với nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ là một yếu tố mang lợi thế so sánh. Với một cơ cấu dân số trẻ trong đó gần 50% dân số đang ở độ tuổi lao động là một lực lượng lao động dồi dào cung cấp cho sản xuất nông nghiệp. Theo nguyên lý lợi thế so sánh: một nước sẽ sản xuất và xuất khẩu những loại hàng hóa mà việc sản xuất ra chúng cần sử dụng nhiều yếu tố rẻ và sẵn có của nước đó. Ngành sản xuất, chế biến nông sản sử dụng rất nhiều lao động trong tất cả các khâu từ gieo trồng, chăm sóc, chế biến. Bởi vì, về cơ bản sản xuất nông nghiệp Việt Nam vẫn mang nặng tính chất thủ công, do đó đòi hỏi số lượng lao động lớn. Tuy nhiên yếu tố lao động nhiều và rẻ sẽ bị dần mất đi cùng với quá trình hội nhập kinh tế. Thêm vào đó, lao động nước ta, đặc biệt là lao động nông thôn chưa thể xóa bỏ được tập quán sản xuất nhỏ và tùy tiện, vì vậy lực lượng lao động này cần phải được không ngừng trau dồi kiến thức, nâng cao kỹ năng và trình độ lao động.

b) Cơ chế chính sách của nhà nước

Thực tế ở nhiều nước trên thế giới đang có vị trí sản xuất và xuất khẩu nông sản quan trọng mặc dù trình độ khoa học và công nghệ còn thấp so với Mỹ, Nhật và EU, song họ có hệ thống chính sách kinh tế tốt và hợp lý để khuyến khích sản xuất và xuất khẩu nông sản, họ biết tổ chức sản xuất và kinh doanh có hiệu quả. Cho nên có thể nói, việc khai thác các nhân tố khác có đạt hiệu quả cao hay không chủ yếu phụ thuộc vào trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh và sự hỗ trợ tích cực bằng các chính sách kinh tế của chính phủ.

Khi Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường, tham gia kinh doanh xuất khẩu nông sản ngoài doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn có các công ty tư nhân và các thành phần kinh tế khác. Ngoài xuất khẩu chính ngạch chủ yếu do các tổ chức kinh doanh xuất khẩu nhà nước đảm nhiệm, bao gồm các khâu: thu mua, chế biến và trực tiếp xuất khẩu, thì trong xuất khẩu tiểu ngạch sự tham gia của các tư thương và công ty tư nhân chiếm một vị trí đáng kể và thường xảy ra cạnh tranh quyết liệt. Vì vậy đối với các doanh nghiệp phải đặc biệt quan tâm công tác tổ chức sắp xếp mạng lưới kinh doanh như: chủ động tìm kiếm thị trường, tìm kiếm nguồn hàng, tổ chức tốt khâu quản lý, thanh quyết toán kịp thời; xúc tiến hoạt động của các mạng lưới kinh doanh trong và ngoài nước để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Thực hiện tốt mối liên kết 4 nhà: nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học và nhà nước.

Việc đẩy mạnh xuất khẩu có hiệu quả hay không phụ thuộc vào nỗ lực của chính người sản xuất kinh doanh, mặt khác, nó cũng phụ thuộc vào hệ thống chính sách của chính phủ. Một hệ thống chính sách hợp lý sẽ có tác dụng tích cực thúc đẩy và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất và xuất khẩu, nâng cao lợi thế cạnh tranh của sản phẩm nông sản xuất khẩu trên thị trường thế giới.

Các sản phẩm nông sản của một quốc gia thường chia thành hai loại: nông sản chưa qua chế biến và nông sản đã qua chế biến, thường các sản phẩm đã qua chế biến có giá trị xuất khẩu lớn hơn nhiều lần so với các sản phẩm thô chưa qua chế biến. Điều này đòi hỏi các quốc gia phải có chính sách cơ cấu sản phẩm phù hợp nhằm tăng dần tỷ trọng các sản phẩm đã qua chế biến để đạt hiệu quả kinh doanh cao hơn trong hoạt động xuất khẩu.

Chính sách phát triển và mở rộng thị trường là một yếu tố quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu nông sản. Đây là công việc khó khăn, phức tạp và phụ thuộc rất nhiều vào mối quan hệ giữa các quốc gia. Các chính phủ cần phải xây dựng chính sách sản phẩm nông sản phù hợp và thích ứng với từng thị trường, từng khu vực. Trên cơ sở định hướng và những hiệp định song phương, đa phương được ký kết của chính phủ, cũng như các thông tin về sản phẩm và thị trường do các cơ quan, các tổ chức xúc tiến thương mại của Nhà nước cung cấp, các doanh nghiệp chủ động giới thiệu sản phẩm nông sản tới các thị trường tiêu thụ. Chính sách hỗ trợ của chính phủ có tác động mạnh đến hoạt động xuất khẩu nông sản, nó có tác dụng khuyến khích hoặc hạn chế hoạt động xuất khẩu. Ví dụ các chính sách về phát triển nông thôn, chính sách về vùng nguyên liệu, chính sách về tỷ giá hối đoái, chính sách thu hút đầu tư vào sản xuất nông sản xuất khẩu. Trong điều kiện hội nhập và tự do hóa thương mại, các chính sách hỗ trợ này phải phù hợp với các nguyên tắc của WTO.



c) Nhân tố về sự phát triển của khoa học công nghệ tác động đến sản xuất, chế biến, bảo quản, vận chuyển nông sản.

Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ trong những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, thị trường nông sản thế giới ngày càng tăng trưởng nhanh chóng, cho phép thỏa mãn nhu cầu da dạng của giới tiêu dùng về nông sản. Đó cũng là điều kiện quyết định để tăng năng suất lao động, tăng năng suất cây trồng và chất lượng nông sản, từ đó hạ giá thành sản phẩm nông sản. Đồng thời nó lại tác động cho phép tăng cầu về nông sản ở mỗi quốc gia. Như vậy, khoa học và công nghệ đã tạo ra hiệu quả có tính hai mặt: tăng khả năng thanh toán của giới tiêu dùng nông sản đồng thời hạ giá bán sản phẩm nông sản. Vì vậy thị trường nông sản thế giới sẽ biến động theo chiều hướng có lợi cho cả người sản xuất và xuất khẩu nông sản lẫn người nhập khẩu và tiêu dùng nông sản.

Nhân tố này được xem xét trên hai phạm vi: trong sản xuất nông nghiệp và ngoài sản xuất nông nghiệp nhưng có liên quan trực tiếp đến sản xuất và xuất khẩu nông sản.

Trong khâu sản xuất nông nghiệp, nhân tố khoa học và công nghệ bao gồm cơ giới hóa, thủy lợi hóa, hóa học hóa, áp dụng những thành tựu mới của công nghệ sinh học vào sản xuất nông sản sẽ ngày càng có vị trí quyết định trong hoạt động sản xuất và xuất khẩu nông sản. Các quốc gia như Mỹ, Trung Quốc, khối EU đang có nhiều ưu thế trong lĩnh vực này.

Ngoài khâu sản xuất nông nghiệp, khi xem xét nhân tố khoa học và công nghệ trong công nghiệp chế biến nông sản sẽ phải kể đến trình độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa khâu chế biến, bảo quản nông sản. Do phần lớn sản phẩm nông sản là mặt hàng thực phẩm thiết yếu có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người tiêu dùng. Do đó yêu cầu về chất lượng sản phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm ở các nước nhập khẩu đặc biệt là những quốc gia nhập khẩu lớn ngày càng đòi hỏi khắt khe, chặt chẽ hơn.

Trái với nhân tố điều kiện tự nhiên, nhân tố khoa học và công nghệ ngày càng giữ vai trò quyết định đối với khả năng sản xuất và xuất khẩu nông sản. Với công nghệ bảo quản đơn giản, hàm lượng khoa học thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho công tác nuôi trồng, chế biến, bảo quản, vận chuyển lạc hậu, đặc biệt là công nghệ bảo quản sau thu hoạch kém dẫn đến tỷ lệ hư hỏng sản phẩm cao là nhân tố quan trọng đẩy giá thành sản phẩm lên cao, vì vậy giá nông sản xuất khẩu của Việt Nam khó cạnh tranh được so với sản phẩm cùng loại của các quốc gia khác có nền khoa học công nghệ tiến bộ trong lĩnh vực này.

Nhận thức được vấn đề này, Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 15/NQ-TW ngày 18/03/2002 về đẩy nhanh Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010 nhằm “xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu”.


Каталог: dao-tao-tuyen-sinh -> thong-bao

tải về 1.85 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương