BỘ giáo dục và ĐÀo tạo bộ CÔng thưƠng viện nghiên cứu thưƠng mại nguyễn thị ĐƯỜng giải pháP ĐẨy mạnh xuất khẩu hàng nông sản việt nam vào thị trưỜng trung quốc luậN Án tiến sỹ kinh tế


Kinh nghiệm xuất khẩu nông sản vào thị trường Trung Quốc của một số nước ASEAN và bài học cho Việt Nam



tải về 1.85 Mb.
trang4/17
Chuyển đổi dữ liệu23.08.2016
Kích1.85 Mb.
#26554
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17

1.3. Kinh nghiệm xuất khẩu nông sản vào thị trường Trung Quốc của một số nước ASEAN và bài học cho Việt Nam

1.3.1 Kinh nghiệm xuất khẩu nông sản của một số nước ASEAN

- Kinh nghiệm của Thailand

Thailand là nước có tiềm năng sản xuất nông sản, có điều kiện sinh thái tương tự như Việt Nam nên các loại cây trồng cũng đa dạng và phong phú như chúng ta. Cách đây hơn 20 năm, tình hình sản xuất và tiêu thụ nông sản của Thailand cũng tương tự như Việt Nam. Nhưng ngày nay, kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản của Thailand vượt xa so với Việt Nam, nông sản Thailand đã có uy tín và chỗ đứng vững chắc trên nhiều thị trường thế giới. Nguyên nhân thành công của Thailand có nhiều yếu tố, ngoài yếu tố thuận lợi của thị trường xuất khẩu như thị trường các nước EC, Đông Âu, thì nhân tố về sự nỗ lực trong việc phát triển ngành nông sản là điều kiện quan trọng quyết định sự thành công của Thailand.

Việc nghiên cứu kinh nghiệm sản xuất và xuất khẩu nông sản của Thailand sẽ rút ra nhiều bài học mang ý nghĩa thực tiễn cho ngành nông nghiệp Việt Nam.

Kinh nghiệm đầu tiên là khâu giống, Thailand coi giống là một trong những khâu tạo ra lợi thế so sánh một cách bền vững trong việc đưa sản phẩm nông sản thâm nhập thị trường thế giới. Nguyên tắc của khâu giống là: nguồn gốc phải rõ ràng, có địa chỉ, có hướng dẫn quy trình thâm canh, có bằng chứng chứng minh giống đó đã được trồng thực nghiệm và có kết quả tốt. Trừng phạt nặng nếu người cung cấp giống cố tình vi phạm quy định hoặc cung cấp giống không đảm bảo chất lượng. Chính phủ Thailand đã giành khoản ngân sách đáng kể để nhập khẩu giống; hỗ trợ cơ quan nghiên cứu lựa chọn, lai tạo các loại giống tốt; trợ giá cho việc phổ biến các loại giống tốt.

Kinh nghiệm về đa dạng hóa chủng loại sản phẩm nông sản một cách khoa học vừa giúp thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng vừa giảm cạnh tranh lẫn nhau trong tiêu thụ do thâm canh trùng lắp cùng một loại nông sản ở các vùng khác nhau.

Thailand chú trọng tập trung đầu tư các dây truyền công nghệ chế biến hiện đại, đảm bảo điều kiện vận tải, kỹ thuật đóng gói tiên tiến, thỏa mãn được các yêu cầu chất lượng của EU, Mỹ, Nhật, Trung Quốc...

Kinh nghiệm về xuất khẩu tại chỗ: Thailand là nước có lượng khách du lịch lớn, các nhà kinh doanh nông sản đã tận dụng lợi thế này để xuất khẩu tại chỗ với kim ngạch đáng kể. Hàng năm, Thailand đón khoảng 15 triệu khách du lịch, mỗi khách bình quân mua 5 USD sản phẩm nông sản, chủ yếu là trái cây thì doanh số cũng đạt khoảng 75 triệu USD. Đây cũng là một hình thức tiếp thị có hiệu quả.

Kinh nghiệm về việc xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng có liên quan đến hoạt động xuất khẩu nông sản: Thành lập các cơ quan, chi nhánh trực thuộc ngành nông nghiệp để làm các dịch vụ phục vụ cho xuất khẩu nông sản như cung cấp giấy chứng nhận kiểm dịch cây trồng, thực phẩm tại các vùng sản xuất nông sản trọng điểm; giúp các doanh nghiệp kiểm soát chất lượng nông sản xuất khẩu; thành lập trung tâm đóng gói Thailand trực thuộc Bộ Khoa học và Năng lượng để hướng dẫn cách đóng gói thích hợp các loại nông sản bảo đảm giữ được chất lượng cho đến tay người tiêu dùng.

Kinh nghiệm về nâng cao vai trò của nhà nước trong việc đẩy mạnh xuất khẩu: Chính phủ Thailand có kế hoạch hỗ trợ nông dân sản xuất và xuất khẩu các loại nông sản có giá trị cao, Bộ Nông nghiệp hỗ trợ nông dân trong việc nghiên cứu, chọn giống cây tốt, cải tạo đất trồng và hệ thống tưới tiêu để nâng cao năng suất và chất lượng nông sản, Bộ Thương mại hỗ trợ các nhà xuất khẩu trong các hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường.

- Kinh nghiệm của Malaysia

Malaysia cũng là một nước xuất khẩu nông sản nhiệt đới hàng đầu của khu vực và thế giới. Malaysia là một trong những nước xuất khẩu cao su thiên nhiên lớn nhất vào thị trường Trung Quốc. Kinh nghiệm rút ra từ Malaysia là những cố gắng trong việc phát triển sản xuất phục vụ xuất khẩu. Chính phủ Malaysia cũng đưa ra những khuyến khích và hỗ trợ về mặt tài chính đầy sức hấp dẫn, những khuyến khích về đầu tư, về thuế nhằm hỗ trợ người sản xuất nông sản.

Các vụ chức năng trực thuộc Bộ Nông nghiệp tiến hành các dịch vụ tư vấn cho sản xuất, tư vấn tiếp thị cho các nhà quản lý, tiến hành trợ giúp dưới hình thức tín dụng, cung ứng các điều kiện tiếp thị. Malaysia thành lập hội đồng ngành của từng mặt hàng nông sản nhằm mục đích xúc tiến mối liên kết chặt chẽ giữa khu vực nhà nước và tư nhân. Hội đồng gồm đại diện của các Bộ, Cục, các Công ty, các trường Đại học, các đơn vị tư nhân có liên quan đến sự phát triển của ngành. Để thúc đẩy xuất khẩu, chính phủ cũng có những khuyến khích như trợ giúp kinh phí cho việc xúc tiến xuất khẩu từng loại nông sản, trợ giúp nhà xuất khẩu thâm nhập vào các thị trường mới, trợ giúp trong việc xây dựng các kho chứa, các cơ sở bảo quản nông sản.

Các nhà xuất khẩu sản phẩm nông sản đã qua chế biến được hưởng chính sách khuyến khích như cấp vốn tín dụng xuất khẩu, giành cho họ các khoản tín dụng với lãi suất ưu đãi để có thể cạnh tranh hữu hiệu hơn trên thị trường quốc tế. Chính phủ miễn thuế nhập khẩu các máy móc, thiết bị phục vụ cho công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu.



- Kinh nghiệm của Philippine

Hàng năm Philippine xuất khẩu rất nhiều nông sản trong đó có mặt hàng trái cây. Philippine được đánh giá là nước xuất khẩu chuối, dứa và xoài hàng đầu thế giới, kinh nghiệm của Philippine trong xuất khẩu nông sản là:

Nhà nước giữ vai trò quan trọng trong việc tạo môi trường cạnh tranh thuận lợi cho sản xuất và xuất khẩu nông sản. Quy hoạch và xây dựng các vùng chuyên canh lớn sản xuất nông sản cho xuất khẩu. Thúc đẩy việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, làm tăng chất lượng sản phẩm bằng việc công nghiệp hóa quá trình trồng, chăm sóc và thu hoạch nông sản. Việc cơ giới hóa, tự động hóa cao ở các khâu tuyển chọn giống, trồng, chăm sóc, thu hoạch, bảo quản sau thu hoạch, bao bì đóng gói, có ý nghĩa lớn trong việc giảm tỷ lệ hư hỏng, giữ được chất lượng, đưa nhanh sản phẩm vào lưu thông, giảm chi phí kinh doanh.

Chính phủ gián tiếp hỗ trợ khâu phân phối tiêu thụ nông sản thông qua biện pháp quy hoạch phát triển các vùng trồng nông sản sao cho mỗi vùng phát huy được lợi thế so sánh, tránh trùng lặp về chủng loại và thời gian thu hoạch nhằm ngăn chặn hiện tượng dội chợ, sụt giá bất thường đối với sản phẩm. Hướng dẫn các địa phương có điều kiện tự nhiên giống nhau thì phương pháp trồng và chăm sóc sao cho lệch pha nhau, tạo ra hàng hóa cung cấp quanh năm cho thị trường.

Tăng cường đầu tư cho cơ sở hạ tầng đường xá, cầu cảng, phương tiện thông tin liên lạc tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại.

So với Việt Nam, Thailand, Malaysia và Philippine đều đi trước và có nhiều kinh nghiệm hơn trong xuất khẩu nông sản vào thị trường Trung Quốc. Cả ba nước xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc đều vượt trội so với Việt Nam. Năm 2004, xuất khẩu rau quả Việt Nam vào Trung Quốc chỉ đạt kim ngạch 24,9 triệu USD trong khi Thailand xuất khẩu đạt 445 triệu USD, chiếm 41% thị phần nhập khẩu rau quả của Trung Quốc. Việt Nam xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới sau Thailand nhưng Việt Nam chỉ chiếm 33% tổng kim ngạch nhập khẩu gạo của Trung Quốc năm 2010, với chủ yếu là loại gạo có chất lượng trung bình và cấp thấp. Điều này cho thấy sức cạnh tranh còn thấp của nông sản Việt Nam tại thị trường Trung Quốc.

Thailand, Malaysia và Philippine đều hơn Việt Nam về trình độ sinh học tiên tiến để sản xuất ra các sản phẩm nông sản có năng suất cao, chất lượng vượt trội. Công nghệ phân loại hàng hóa, đóng gói bao bì, bảo quản, vận tải chuyên nghiệp nên sức cạnh tranh cao hơn hẳn hàng nông sản Việt Nam tại thị trường Trung Quốc.

Chính phủ Thailand, Malaysia và Philippine đều có các biện pháp và cơ chế chính sách hỗ trợ cho sản xuất và xuất khẩu nông sản vào thị trường Trung Quốc; bao gồm:

- Coi trọng khâu giống, Chính phủ giao cho các tổ chức khoa học lựa chọn, lai tạo ra những bộ giống cây con tốt, có năng suất cao, chất lượng tốt phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của thị trường Trung Quốc. Xây dựng một hệ thống cung cấp giống cho người sản xuất, giống phải có nguồn gốc rõ ràng, có hướng dẫn quy trình canh tác, có tài liệu chứng minh giống đã được trồng thực nghiệm đạt năng suất cao và chất lượng tốt. Xây dựng các chế tài đủ mạnh để trừng phạt các cơ sở sản xuất và cung cấp giống không đạt chất lượng. Chính phủ trợ giá cho việc phổ biến các loại giống tốt; hỗ trợ cải tạo đất và hệ thống thủy lợi; đa dạng hóa sản phẩm nông sản một cách khoa học để phù hợp với nhu cầu của thị trường Trung Quốc.

- Quy hoạch các vùng trồng nông sản tập trung quy mô lớn phục vụ cho xuất khẩu. Tại mỗi vùng quy hoạch, Chính phủ khuyến khích người sản xuất sử dụng một số giống cây có xác nhận, áp dụng cùng một quy trình canh tác theo tiêu chuẩn GlobalGAP để tiết kiệm chi phí nhờ giảm bớt việc sử dụng hoá chất và thuốc trừ sâu trong canh tác. Đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học kỹ thuật và cơ giới hóa vào sản xuất từ khâu trồng, chăm sóc, thu hoạch, bảo quản sau thu hoạch, bao bì đóng gói để giảm tỷ lệ hư hỏng và giữ ổn định chất lượng sản phẩm. Các vùng chuyên canh quy mô lớn đã tạo ra các sản phẩm nông sản đồng nhất về quy cách và chất lượng, khả năng tập trung nguồn hàng lớn và ổn định cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Ví dụ như Thailand đã quy hoạch các vùng trồng lúa cho loại gạo có tỷ lệ Protein cao và gạo thơm phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của thị trường Trung Quốc, tuy loại lúa này có năng xuất thấp hơn các giống lúa khác nhưng giá bán gạo cao nên hiệu quả kinh tế lớn.

- Trợ giúp các nhà xuất khẩu trong hoạt động xúc tiến thương mại và mở rộng thị trường tại Trung Quốc. Chính phủ Thailand và Philippine có cơ chế hỗ trợ gián tiếp cho sản xuất và xuất khẩu nông sản thông qua hình thức như: đào tạo cho nông dân, cung cấp các dịch vụ nghiên cứu phát triển nông nghiệp, nâng cao kỹ năng xúc tiến thương mại và xuất khẩu nông sản cho các doanh nghiệp. Một số nước, sự hỗ trợ về sản xuất nông nghiệp được thực hiện linh hoạt bởi các chính quyền địa phương mà không hình thành chính sách trợ cấp chung của quốc gia nên khó có thể chứng minh họ vi phạm các quy định của WTO.

- Đầu tư xây dựng các cơ sở cung cấp dịch vụ phục vụ cho xuất khẩu nông sản tại ngay các vùng trồng nông sản tập trung như cung cấp giấy chứng nhận kiểm dịch cây trồng, thực phẩm để đẩy nhanh việc lưu thông sản phẩm và giúp các doanh nghiệp kiểm soát chất lượng nông sản xuất khẩu.

- Đầu tư nghiên cứu công nghệ bảo quản sau thu hoạch để giảm tỷ lệ hao hụt và giữ ổn định chất lượng nông sản, chuyển giao kết quả nghiên cứu cho các nhà sản xuất. Thành lập các trung tâm đóng gói thuộc chính phủ để hướng dẫn và chuyển giao công nghệ đóng gói sản phẩm phù hợp với yêu cầu của thị trường Trung Quốc cho các nhà xuất khẩu nông sản.

- Phát triển mạnh cơ sở hạ tầng như đường giao thông, cảng biển…để giảm chi phí sản xuất và xuất khẩu hàng hoá nói chung trong đó có xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc. Ví dụ, cảng phí cho 1 tàu chở gạo 10.000 tấn ở Việt Nam là 40.000 USD, còn ở cảng Băng Cốc là 20.000 USD, như vậy chi phí trong khâu bốc xếp tại cảng Việt Nam đã cao gấp hai lần cảng Băng Cốc. Chính phủ Thailand còn phối hợp cùng Trung Quốc nâng cấp, phá thác ghềnh thông tuyến vận tải đường thủy trên sông Mekong để giảm chi phí vận chuyển; mở đường hàng không nối Bangkok với Côn Minh với tần suất 01chuyến/ngày đáp ứng nhu cầu vận tải rau quả tươi của Thailand vào Trung Quốc.

- Chủ động đàm phán và ký kết các hiệp định song phương với Trung Quốc để tăng cường khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của mình tại thị trường Trung Quốc. Ví dụ Hiệp định Thương mại tự do Thái - Trung về nông sản, hai nước cắt giảm thuế xuất xuống 0% với 188 sản phẩm rau quả từ ngày 01/10/2003. Trong khi rau quả Việt Nam phải chịu thuế xuất theo Chương trình thu hoach sớm (EHP) nên khó cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của Thailand tại thị trường Trung Quốc. Thailand cũng đã ký với Trung Quốc Hiệp định hợp tác hải quan phục vụ chung cho mậu dịch Trung, Lào, Miến, Thái; Hiệp định tiêu chuẩn và hợp chuẩn Trung - Thái (MRA) công nhận lẫn nhau về giấy chứng nhận phẩm chất hàng hóa để tạo điều kiện giảm các thủ tục hải quan, giảm các rào cản về tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm khi xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc.

Kinh nghiệm của các doanh nghiệp Thailand, Malaysia và Philippine:

- Trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu của thị trường Trung Quốc, các doanh nghiệp đã chủ động đầu tư hoặc liên kết chặt chẽ với nông dân xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung quy mô lớn, gắn với công nghiệp chế biến để tạo nguồn hàng ổn định, làm cơ sở ký kết và thực hiện các hợp đồng cung cấp sản phẩm nông sản lâu dài với các nhà nhập khẩu và phân phối của Trung Quốc.

- Xây dựng chiến lược thâm nhập thị trường Trung Quốc một cách bài bản và chuyên nghiệp. Tìm kiếm, hợp tác với các nhà nhập khẩu và phân phối có tiềm lực, kinh nghiệm và có hệ thống phân phối nông sản rộng khắp tại thị trường Trung Quốc. Tiến hành việc buôn bán nông sản với các nhà nhập khẩu Trung Quốc một cách bài bản theo đúng thông lệ quốc tế.

- Nâng cao chất lượng nông sản và bảo vệ thương hiệu sản phẩm. Áp dụng quy trình canh tác theo tiêu chuẩn GlobalGAP vào quá trình trồng, chăm sóc và chế biến nông sản. Áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế vào sản xuất và thiết lập hệ thống kiểm tra để đảm bảo chất lượng và an toàn thực phẩm. Do đó nông sản dễ dàng vượt qua các rào cản của thị trường Trung Quốc, đáp ứng các yêu cầu khắt khe về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm của người tiêu dùng tại các khu vực kinh tế phát triển cao ở Trung Quốc như Bắc Kinh, Thượng Hải...

- Chủ động tìm kiếm các thông tin về thị trường Trung Quốc, chủ động tìm hiểu và nắm bắt các cơ hội mới của thị trường do các hiệp định thương mại song phương và khu vực mang lại. Ví dụ khi chương trình thu hoạch sớm EHP có hiệu lực, các doanh nghiệp Thailand, Malaysia và Philipine đã tận dụng tốt các ưu đãi nên xuất khẩu nông sản của họ vào Trung Quốc tăng trưởng mạnh, trong khi các doanh nghiệp Việt Nam không tận dụng được các ưu đãi này do chủ yếu xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc theo đường biên mậu.

- Chủ động tham gia các hội trợ thương mại tại Trung Quốc để quảng bá sản phẩm và tìm kiếm đối tác mới.

1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Từ những kinh nghiệm xuất khẩu nông sản của Thailand, Malaysia và Philipine, Việt Nam muốn đẩy mạnh xuất khẩu nông sản vào thị trường Trung Quốc cần quan tâm và có giải pháp để hỗ trợ cho sản xuất và xuất khẩu nông sản ở một số vấn đề sau:



Thứ nhất, phải coi giống là một trong những khâu tạo ra lợi thế so sánh một cách bền vững để đưa nông sản thâm nhập thị trường khu vực và thế giới. Hiện nay, việc sử dụng giống cây trồng ở Việt Nam còn tùy tiện không rõ nguồn gốc xuất xứ, do vậy năng suất và chất lượng cây trồng thấp, tính đồng nhất về quy cách của sản phẩm không cao. Ví dụ như ở Thái Lan, khi bắt tay xây dựng thương hiệu gạo thì việc làm trước tiên của họ là từ khâu giống lúa. Nông dân Thái Lan hầu hết đều sử dụng giống xác nhận, không giống như Việt Nam, nông dân thường sử dụng lúa thu hoạch để làm giống cho vụ sau, nên thường lẫn nhiều loại giống. Chính phủ cần hỗ trợ cho công tác nghiên cứu và lựa chọn giống cây trồng mới phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng từng vùng. Ưu tiên ứng dụng công nghệ sinh học để tạo nhiều giống cây trồng và quy trình sản xuất đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Giống mới phải có khả năng kháng bệnh cao để hạn chế việc sử dụng thuốc trừ sâu và hóa chất trong quá trình canh tác, đảm bảo sản phẩm đáp ứng các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm theo quy định quốc tế.

Thứ hai, cần có sự đầu tư thích đáng vào công nghệ chế biến và bảo quản sau thu hoạch, kể cả khâu đóng gói, vận chuyển. Đẩy nhanh áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong chế biến và bảo quản. Đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ hiện đại cho chế biến và bảo quản nông sản sau thu hoạch là yếu tố quyết định để tạo ra những đột phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả trong sản xuất, để sản phẩm đến tay người tiêu dùng giữ được chất lượng.

Thứ ba, chính phủ cần tăng cường vai trò của mình trong các hoạt động thúc đẩy xuất khẩu như hỗ trợ thông tin theo hướng cung cấp cập nhật, chính xác thông tin về thị trường nông sản Trung Quốc cho nông dân và doanh nghiệp. Hỗ trợ doanh nghiệp trong các hoạt động quảng bá và xúc tiến thương mại như tham gia các đoàn khảo sát thị trường, các hội chợ. Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp và bảo đảm cho nông dân tiếp cận với đầu vào quan trọng như thủy lợi, điện, phân bón với chất lượng cao và giá thấp. Chính phủ cần tăng cường công tác giám sát xuất khẩu, kiên quyết không cho xuất khẩu những lô hàng vi phạm quy định vệ sinh an toàn thực phẩm để giữ uy tín cho nông sản xuất khẩu.

Thứ tư, tăng cường năng lực của các hiệp hội ngành hàng. Đây là đơn vị tập hợp và tăng cường liên kết các doanh nghiệp kinh doanh nông sản nhằm gia tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc, tập trung sản xuất có quy mô nhỏ lẻ khác nhau thành quy mô lớn hơn để tăng khả năng cạnh tranh.

Thứ năm, coi nông nghiệp là trọng tâm và tạo lập cơ sở pháp lý hỗ trợ nông nghiệp phù hợp với quy tắc của WTO.

Thứ sáu, Chính phủ cần chủ động đàm phán và ký kết các hiệp định song phương mới với đối tác Trung Quốc; nâng cao khả năng thực thi các hiệp định và các thỏa thuận đã ký kết để tạo môi trường thuận lợi cho nông sản Việt Nam thâm nhập thị trường Trung Quốc.

Bài học kinh nghiệm rút ra cho các doanh nghiệp Việt Nam:

- Đầu tư kinh phí đi tiếp thị, tổ chức khảo sát, tham gia hội chợ để giới thiệu sản phẩm và tìm kiếm bạn hàng tại thị trường Trung Quốc. Xây dựng kênh nghiên cứu riêng của mình về thị trường Trung Quốc để cập nhật thông tin thị trường và những thay đổi trong chính sách thương mại của Trung Quốc nhằm kịp thời điều chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp.

- Xây dựng chiến lược thâm nhập thị trường Trung Quốc một cách bài bản và chuyên nghiệp, quyết tâm theo đuổi con đường xuất khẩu chính ngạch và thanh toán qua ngân hàng theo hình thức L/C để đưa nông sản tới các khu vực phát triển của Trung Quốc.

- Xây dựng mối liên kết chặt chẽ với nông dân để hình thành vùng nguyên liệu tập trung, gắn liền với việc đầu tư hệ thống chế biến và bảo quản nông sản sau thu hoạch để doanh nghiệp chủ động về số lượng, chất lượng nông sản và thời gian giao hàng cho đối tác.

- Chú trọng ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học (giống mới, quy trình canh tác tiên tiến, công nghệ sinh học). Quyết tâm theo đuổi mục tiêu xuất khẩu nông sản đã chế biến sâu vào thị trường Trung Quốc để đảm bảo xuất khẩu bền vững, hiệu quả. Quan tâm thu hút vốn và công nghệ từ các nhà đầu tư Trung Quốc để mở rộng thị trường thông qua hệ thống phân phối của họ tại Trung Quốc.

- Tập trung đầu tư tài chính và trí tuệ cho việc xây dựng thương hiệu. Đăng ký bản quyền tại Trung Quốc để tránh tranh chấp pháp lý khi quyền sở hữu nhãn hiệu bị xâm phạm, nâng cao chất lượng sản phẩm để giữ uy tín cho thương hiệu.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Luận án đã khái quát một số lý thuyết cơ bản liên quan đến hoạt động trao đổi thương mại như lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith, lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricacdo để giải thích lý do và nguyên nhân của thương mại quốc tế; lý thuyết về lợi thế cạnh tranh, lý thuyết về địa kinh tế và địa chính trị để phân tích quan hệ kinh tế thương mại giữa các nước trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.

Thương mại hàng nông sản là lĩnh vực rất nhậy cảm trong thương mại quốc tế. Để bảo hộ nền sản xuất nông nghiệp nội địa trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, các nước nhập khẩu nông sản đưa ra các rào cản ngày càng tinh vi, phức tạp. Muốn tháo gỡ những rào cản này chỉ có thông qua đàm phán, thương lượng ở cấp chính phủ mới có thể giải quyết được vì vây xuất khẩu nông sản cần được sự quan tâm của nhà nước. Phần lớn nông sản là những mặt hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thiết yếu và có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người nên sản xuất nông sản phải đáp ứng các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm. Các tiêu chuẩn này ngày càng trở nên chặt chẽ, khắt khe hơn và trở thành vũ khí sắc bén của các quốc gia nhập khẩu để bảo hộ sản xuất trong nước.

Việt Nam là thành viên của WTO và tham gia vào các Hiệp định thương mại của khu vực vì vậy xuất khẩu nông sản cũng chịu sự tác động và điều chỉnh của Hiệp định nông nghiệp của WTO, Hiệp định khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA), Chương trình thu hoạch sớm (EHP) và cơ chế, chính sách của các nước nhập khẩu.

Luận án cũng phân tích vai trò quan trọng của xuất khẩu nông sản đối với phát triển kinh tế trong điều kiện Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới với mục tiêu đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp. Xuất khẩu nông sản mang lại nguồn vốn tích lũy quan trọng để tiến hành công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sử dụng có hiệu quả nhất nguồn lực và lợi thế quốc gia, giữ ổn định nền kinh tế đất nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động và tăng cường địa vị kinh tế của Việt Nam trên thị trường thế giới.

Ngoài ra, luận án còn tập trung phân tích để tìm ra nguyên nhân thành công của Thailand, Malaysia và Philippine trong xuất khẩu nông sản vào thị trường Trung Quốc, từ đó rút ra những bài học cho Việt Nam. Đây là các nước ASEAN có cơ cấu nông sản xuất khẩu gần giống với Việt Nam nhưng kinh nghiệm và thành tích xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc vượt trội so với Việt Nam.


CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC GIAI ĐOẠN 2001 - 2010

2.1. Trung Quốc - Thị trường tiềm năng

2.1.1. Một số nét về nền kinh tế Trung Quốc

Trung Quốc là một thị trường khổng lồ với hơn 1,3 tỉ dân, có diện tích lớn nhất Châu Á với 9,6 triệu km². Trung Quốc là một quốc gia đang trên đà trỗi dậy được cả thế giới ngưỡng mộ bởi tốc độ tăng trưởng kinh tế thần kì mà ít quốc gia nào sánh nổi. Trong suốt 30 năm qua, nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ trung bình hơn 9% và đã trở thành sự thần kì kinh tế của những năm cuối thế kỉ 20, đầu thế kỉ 21. Trung Quốc là một thị trường lớn có sức thu hút toàn cầu và được ví như công xưởng của thế giới, nơi tập trung hầu hết các công ty đa quốc gia hàng đầu thế giới. Trung Quốc đang trở thành một cường quốc kinh tế. Năm 1975, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc chỉ chiếm 1% GDP của thế giới thì năm 2009 đã chiếm đến 8,3%. Năm 2009, GDP của Trung Quốc đạt 33.535 tỷ Nhân dân tệ (tương đương 4.916 tỷ USD), với thu nhập bình quân của cư dân thành phố đạt 17.175 Nhân dân tệ (tương đương 2.525 USD), của cư dân nông thôn là 5.153 Nhân dân tệ (tương đương 757 USD). Nếu tiếp tục phát triển như hiện nay, đến năm 2020 Trung Quốc sẽ chiếm từ 12 - 15% GDP toàn cầu và thách thức vị trí số một thế giới về kinh tế của Mỹ trong vài thập kỷ tới.

Sau khi gia nhập WTO, quan hệ kinh tế thương mại và đầu tư của Trung Quốc với các nền kinh tế thế giới đã được cải thiện đáng kể, đặc biệt Trung Quốc đã tận dụng triệt để những cơ hội của WTO để phát triển. Cán cân thương mại của Trung Quốc luôn thặng dư ở mức cao vì là thị trường thu hút lượng đầu tư nước ngoài lớn nhất thế giới hiện nay. Sau hơn 30 năm cải cách mở cửa, Trung Quốc đã giành được những thắng lợi hết sức to lớn, kinh tế phát triển thần tốc và ảnh hưởng quốc tế ngày càng sâu rộng.

Hiện nay, Trung Quốc có tổng kim ngạch mậu dịch lớn thứ hai thế giới, sau Mỹ (năm 2008, đạt 2.561 tỷ USD), tốc độ tăng trưởng bình quân 10 năm gần đây đạt 15%/năm, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO mức tăng trưởng trung bình lên tới 30,5%/năm làm cho kim ngạch mậu dịch tăng đột biến gấp hơn 3 lần chỉ trong vòng 5 năm (2002 - 2006). Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Trung Quốc chiếm tỷ trọng cao trên thị trường thế giới như đồ điện tử, may mặc, đồ chơi trẻ em và nhiều hàng hoá tiêu dùng khác. Trung Quốc có thặng dư thương mại với hầu hết các nước trên thế giới, trong đó nhiều nhất là với Mỹ, EU. Dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc tăng nhanh đạt hơn 3.000 tỷ USD, đứng đầu thế giới.

Trung Quốc thực hiện cải cách có trọng điểm và trật tự, tài chính và tiền tệ lành mạnh, giữ vững ổn định chính trị xã hội. Chính phủ Trung Quốc chú trọng phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân. Quá trình cải tổ bắt đầu bằng việc bãi bỏ dần hình thức hợp tác xã trong nông nghiệp và tiến tới tự do hoá về giá cả, phi tập trung về tài chính, tăng quyền chủ động cho doanh nghiệp nhà nước, đa dạng hoá trong lĩnh vực ngân hàng, phát triển thị trường chứng khoán, thúc đẩy thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, mở cửa cho thương mại và đầu tư nước ngoài.

Quá trình này được tiếp tục với một số chính sách quan trọng vào năm 2005, bao gồm việc bán cổ phần của ngân hàng lớn nhất Trung Quốc cho các nhà đầu tư nước ngoài và điều tiết tốt tỉ giá ngoại tệ và thị trường trái phiếu. Quá trình tái cơ cấu nền kinh tế và những thành quả đạt được đã nâng thu nhập GDP tăng lên gần 10 lần so với năm 1978. Mặc dù Trung Quốc là nền kinh tế lớn trên thế giới nhưng thu nhập bình quân đầu người vẫn ở dưới mức trung bình và còn 150 triệu người sống dưới mức nghèo khổ. Tốc độ phát triển kinh tế cao, đặc biệt là các tỉnh duyên hải nhưng khoảng cách chênh lệch thu nhập càng ngày càng tăng giữa các vùng, miền.

Trung Quốc cũng đang gặp phải nhiều khó khăn thách thức, nhiều vấn đề tích tụ trong hơn 30 năm cải tổ đã tạo áp lực lớn đối với quá trình cải cách mở cửa. Hiệu quả kinh tế thấp, chênh lệch giàu nghèo ngày càng lớn, tình trạng tham nhũng ngày càng nghiêm trọng, hệ thống tư pháp bộc lộ nhiều vấn đề bất cập, sức ép về an ninh chiến lược đối với Trung Quốc ngày càng tăng như vấn đề Bắc Triều Tiên, Đài Loan.

Trước tình hình trên, Trung Quốc phải từng bước điều chỉnh chiến lược chuyển từ chiến lược tăng tốc do Đặng Tiểu Bình đề ra trước đây sang chiến lược trỗi dậy ôn hoà và chỉnh đốn lại toàn diện các mặt Đảng, chính quyền, kinh tế, xã hội, đối ngoại.

Trung Quốc tập trung điều chỉnh phương thức tăng trưởng kinh tế, lấy hiệu quả, chất lượng làm mục tiêu, kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với văn hoá - xã hội, giữa con người với tự nhiên, giữa thành thị với nông thôn, giữa các vùng kinh tế, cải cách và mở cửa phù hợp với các tiêu chí của WTO. Tăng cường kiểm soát vĩ mô, ngăn chặn đầu tư mù quáng, tiếp tục đặt nông nghiệp lên vị trí ưu tiên hàng đầu, đi sâu cải cách lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn gắn với việc giải quyết các vấn đề nổi cộm nhất ở khu vực nông thôn hiện nay để thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền. Với việc thực hiện quy hoạch 5 năm lần thứ 11, Trung Quốc sẽ tiếp tục tiến hành nhiều biện pháp đồng bộ mang tính cách mạng để thay đổi phương thức tăng trưởng kinh tế từ thô sang tinh, coi đây là thời kỳ then chốt nhất của công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc từ nay đến năm 2020.

Sự phát triển nhanh chóng của kinh tế Trung Quốc đã tạo ra những cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam.

Trung Quốc phát triển là cơ hội tốt cho Việt Nam nếu chúng ta biết tận dụng cơ hội này. Việt Nam có thể khai thác thị trường rộng lớn của Trung Quốc để tham gia vào hệ thống thương mại toàn cầu và là địa chỉ cho các công ty Trung Quốc đến đầu tư.

Tuy nhiên cũng có thể nhận thấy những thách thức từ sự phát triển của Trung Quốc. Chênh lệch về trình độ phát triển, hàng hóa mang tính tương đồng cao, hai nước đang trong thời kỳ công nghiệp hóa nên sức ép cạnh tranh của Trung Quốc đối với Việt Nam rất lớn. Xét về khả năng cạnh tranh, Việt Nam luôn thấp hơn Trung Quốc. Năm 2008, theo xếp hạng của Diễn đàn kinh tế thế giới, Việt Nam đứng thứ 70, Trung Quốc đứng thứ 30 trong số 134 nước được xếp hạng. Các chỉ số khác như xuất khẩu hàng công nghiệp trên đầu người, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên đầu người, Việt Nam cũng thấp hơn nhiều so với Trung Quốc. Năm 2008, GDP/người của Trung Quốc là 3.000 USD, Việt Nam là 800 USD; kim ngạch xuất khẩu/người của Trung Quốc là 1.500 USD, Việt Nam là 600 USD; vốn FDI/người của Trung Quốc là 120 USD, Việt Nam là 28 USD.

Chênh lệch về trình độ phát triển sẽ hạn chế khả năng thâm nhập của hàng hóa Việt Nam vào thị trường Trung Quốc. Cạnh tranh trong thu hút đầu tư cũng rất khó khăn, dòng vốn FDI vào các ngành công nghiệp có công nghệ thấp và gây ô nhiễm đang có xu hướng dịch chuyển từ Trung Quốc đến Việt Nam và ngày càng gia tăng. Sự phát triển kinh tế quá nóng của Trung Quốc hiện nay cũng có thể gây nên những tác động tiêu cực đối với Việt Nam như cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường qua biên giới, tình trạng buôn lậu, tranh chấp thương mại…


Каталог: dao-tao-tuyen-sinh -> thong-bao

tải về 1.85 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương