210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam



tải về 209.88 Kb.
trang1/3
Chuyển đổi dữ liệu28.07.2016
Kích209.88 Kb.
#8200
  1   2   3

BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG


–––––––––––––––––––––––

Số: 210/BC-BTNMT





CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc


Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2012



BÁO CÁO

Kết quả thực hiện trả lời chất vấn của các Đại biểu Quốc hội và ý kiến,

kiến nghị của cử tri tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIII


Kính gửi: Các vị Đại biểu Quốc hội


Tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá XIII đến nay, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường đã trả lời bằng văn bản đối với 24 chất vấn của Đại biểu Quốc hội (qua phiếu chất vấn do Văn phòng Quốc hội chuyển đến Bộ) và 103 ý kiến, kiến nghị của cử tri (do Ban Dân nguyện - Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Văn phòng Chính phủ chuyển đến Bộ), trực tiếp trả lời chất vấn trên hội trường tại phiên họp toàn thể của Quốc hội. Thực hiện Quy chế làm việc của Quốc hội, Bộ Tài nguyên và Môi trường xin báo cáo kết quả thực hiện trả lời chất vấn và những vấn đề Đại biểu Quốc hội và cử tri quan tâm như sau:

I. Lĩnh vực quản lý đất đai

1. Về việc sửa đổi Luật Đất đai năm 2003

a) Về sửa đổi Luật Đất đai đảm bảo hài hòa giữa Nhà nước, người sử dụng đất và doanh nghiệp, trong thời gian qua Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan nghiên cứu, sửa đổi Luật Đất đai theo hướng sau:

- Đối với Nhà nước:

+ Quy định cụ thể quyền của Nhà nước và trách nhiệm quản lý của Nhà nước đối với đất đai, trong đó làm rõ quyền của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với đất đai và trách nhiệm thống nhất quản lý nhà nước đối với đất đai. Quyền định đoạt và lợi ích của Nhà nước được bảo đảm thông qua việc quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, mục đích sử dụng đất, hạn mức giao đất, hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất và thời hạn sử dụng đất, thu hồi đất, chính sách tài chính về đất đai và giá đất, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Để phát huy tốt nguồn lực từ đất đai, Nhà nước chủ động thực hiện thu hồi đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được công bố; bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để tạo quỹ đất “sạch”, sau đó giao đất, cho thuê đất để sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng hoặc đưa ra đấu giá quyền sử dụng đất, giao đất, cho thuê đất để thực hiện các dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội; khi xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị phải quy hoạch và tổ chức thu hồi cả phần diện tích đất bên cạnh công trình kết cấu hạ tầng, vùng phụ cận để đấu giá quyền sử dụng đất.

+ Quy định theo hướng thu hẹp đối tượng được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, thực hiện giao đất có thu tiền sử dụng đất chỉ đối với đất ở (kể cả đất ở riêng lẻ của hộ gia đình, cá nhân và đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc bán kết hợp cho thuê của nhà đầu tư trong nước và nước ngoài); các trường hợp còn lại áp dụng hình thức thuê đất, kể cả đối với các đơn vị sự nghiệp nhằm tăng thu cho ngân sách nhà nước, bảo đảm sử dụng đất hiệu quả, tiết kiệm. Bên cạnh đó, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã bổ sung một mục mới quy định về điều kiện thực hiện các quyền của người sử dụng đất.

- Đối với người sử dụng đất:

+ Quy định cụ thể các trường hợp Nhà nước thu hồi đất, đồng thời dành 01 chương riêng quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, trong đó đã làm rõ nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, bảo đảm người có đất bị thu hồi ổn định đời sống và sản xuất. Giá đất tính bồi thường được Nhà nước quyết định theo cơ chế thị trường tại thời điểm thu hồi đất. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở thì được bố trí tái định cư (khu tái định cư tập trung phải bảo đảm có điều kiện hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ), ưu tiên bố trí tái định cư tại chỗ.

+ Bổ sung các quy định về trường hợp được Nhà nước bồi thường và không được bồi thường về đất, tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất; bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, đất ở và đất phi nông nghiệp không phải là đất ở; bồi thường do bị hạn chế khả năng sử dụng đất; xử lý các khiếu nại, tố cáo về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.

Ngoài bồi thường, Nhà nước còn điều tiết một phần nguồn thu từ đất để thực hiện hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi, đặc biệt là khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp (hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất; hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tạo việc làm...) nhằm bảo đảm lợi ích của người sử dụng đất. Đồng thời, việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng và công khai.

- Đối với doanh nghiệp:

+ Quy định theo hướng Nhà nước chủ động thu hồi đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, tạo quỹ đất "sạch" để đấu giá quyền sử dụng đất cho cho nhà đầu tư thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận đất đai làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh, đồng thời khắc phục những bất cập trong việc nhà đầu tư phải ứng tiền để chi trả cho người có đất bị thu hồi, phải tham gia cùng với Nhà nước thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng.

+ Bổ sung quy định giao đất có thu tiền sử dụng đất đối với nhà đầu tư nước ngoài đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc đầu tư xây dựng nhà ở hỗn hợp cả để bán và cho thuê như nhà đầu tư trong nước nhằm bảo đảm bình đẳng trong việc sử dụng đất, phù hợp với chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế.

+ Quy định miễn, giảm tiền sử dụng đất trong một số trường hợp nhằm bảo đảm khuyến khích đầu tư, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Bên cạnh đó, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã quy định cụ thể các quyền của người sử dụng đất, việc công bố công khai các thủ tục hành chính, cơ quan có thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính trong quản lý, sử dụng đất đai nhằm bảo đảm thực hiện quyền của người sử dụng đất và doanh nghiệp.

b) Về việc góp vốn quyền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư, trong thời gian qua Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chỉ đạo các địa phương tiếp tục thực hiện các nội dung về góp vốn bằng quyền sử dụng đất đã được quy định trong chính sách, pháp luật đất đai hiện hành, đồng thời nghiên cứu đưa nội dung này vào dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), cụ thể như sau:

- Quy định cho các đối tượng theo hình thức giao đất, cho thuê đất được quyền góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất;

- Đối với các dự án nhỏ lẻ không thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất mà phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt thì được nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất của các tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân khác để thực hiện dự án đầu tư;

- Riêng việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất nông nghiệp quy định Nhà nước có chính sách bảo đảm cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp khi góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất;

Bộ cũng đã phối hợp với các cơ quan có liên quan và Tập đoàn Cao su hướng dẫn thí điểm góp vốn quyền sử dụng đất tại các tỉnh Sơn La, Nghệ An, Thanh Hóa. Trong đó, quyền sử dụng đất vẫn thuộc về người góp vốn; người góp vốn được nhận giá trị cổ tức ngoài công lao động bỏ ra để sản xuất, canh tác. Sau khi hết thời hạn góp vốn, quyền sử dụng đất được trả cho người góp vốn.

c) Về việc thu tiền sử dụng đất khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với hộ đang sử dụng đất do lấn chiếm xây dựng nhà ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993: Trong quá trình sửa đổi Luật Đất đai đã tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, theo đó tiếp tục thực hiện theo quy định hiện hành tại khoản 4 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 và điểm a khoản 1 Điều 14 của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP, nhưng có sửa đổi theo hướng không thu tiền sử dụng đất đối với diện tích đất ở trong hạn mức khi cấp Giấy chứng nhận cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất làm nhà ở từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 mà không có giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003.

Đối với việc giải quyết các vướng mắc trong quá trình thực hiện Nghị định số 120/2010/NĐ-CP, Bộ Tài chính đang tổng hợp những vướng mắc của các địa phương để có hướng dẫn và tháo gỡ cụ thể. Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính trong quá trình tổ chức thực hiện.

d) Về việc rà soát, hoàn thiện các quy định về điều kiện giao đất, cho thuê đất để lựa chọn các nhà đầu tư có năng lực thực hiện dự án: Bộ Tài nguyên và Môi trường đã bổ sung vào dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) các điều kiện giao đất, cho thuê đất để lựa chọn các nhà đầu tư có năng lực thực hiện dự án (Điều 60), trong đó quy định rõ: Chủ đầu tư phải có năng lực tài chính để sử dụng đất theo tiến độ của dự án đầu tư và ký quỹ thực hiện dự án.

đ) Về việc xây dựng hành lang pháp lý đồng bộ để quản lý, sử dụng quỹ đất đã giao cho các tổ chức hợp lý, hiệu quả, sửa đổi bổ sung các quy định nhằm khắc phục tình trạng sử dụng đất kém hiệu quả, lãng phí như hiện nay góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về đất đai: Bộ Tài nguyên và Môi trường đã đưa nội dung này vào dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) như sau:

- Quy định về việc Nhà nước thu hồi đất trong trường hợp đất được giao, cho thuê không đúng đối tượng hoặc không đúng thẩm quyền; đất không được chuyển nhượng, tặng cho theo quy định của Luật Đất đai mà cố ý nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho;

- Quy định người bị thu hồi đất không được trả lại tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đã nộp; không được thanh toán giá trị đầu tư vào đất còn lại và tài sản gắn liền với đất trong trường hợp đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liền hoặc tiến độ sử dụng đất chậm hơn 24 tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư, kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất đó cho phép;

- Quy định tổ chức được Nhà nước cho thuê đất thu tiền hằng năm khi bán tài sản gắn liền với đất phải thông báo cho Nhà nước, nếu Nhà nước không thực hiện quyền ưu tiên mua tài sản gắn liền với đất thì mới được bán cho người khác;

- Thu hẹp đối tượng được giao đất không thu tiền sử dụng đất, chỉ thực hiện giao đất có thu tiền sử dụng đất đối với đất ở (kể cả đất ở riêng lẻ của hộ gia đình, cá nhân và đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc bán kết hợp cho thuê của tổ chức kinh tế trong nước và nước ngoài); các trường hợp còn lại phải áp dụng hình thức thuê đất, kể cả các đơn vị sự nghiệp.

e) Về việc tổ chức khai thác cả quỹ đất bên cạnh công trình kết cấu hạ tầng, vùng phụ cận trong quá trình chỉnh trang cải tạo đô thị và đầu tư kết cấu hạ tầng để tạo nguồn lực từ đất đai đầu tư cho các công trình này và hỗ trợ người có đất bị thu hồi; đồng thời phải ưu tiên cho người bị thu hồi đất được giao đất hoặc mua nhà trên diện tích đất đã thu hồi mở rộng (tái định cư tại chỗ):

Để thực hiện tốt việc khai thác quỹ đất hai bên đường mang lại hiệu quả, điều tiết được địa tô chênh lệch từ đất thông qua việc Nhà nước đầu tư chi phí làm đường mang lại, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã đưa vào dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) quy định bắt buộc các địa phương khi thực hiện thu hồi đất làm mới hoặc mở rộng đường (nhằm chỉnh trang, phát triển đô thị, khu dân cư) phải thu hồi phần diện tích hai bên mặt đường theo quy hoạch, để thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất nhằm điều tiết khoản chênh lệch sinh lợi từ việc Nhà nước đã chi phí đầu tư hạ tầng vào ngân sách nhà nước tạo nguồn vốn để đầu tư phát triển hạ tầng; đồng thời ưu tiên cho người bị thu hồi đất được giao đất hoặc mua nhà trên diện tích đất đã thu hồi mở rộng theo quy định của pháp luật.

g) Về việc hoàn thiện quy định pháp luật về giá và kiện toàn hệ thống các tổ chức định giá đất chuyên nghiệp để thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước đối với giá đất, nâng cao chất lượng hoạt động định giá:

Tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật giá để làm cơ sở cho hoàn thiện các quy định về giá và hệ thống tổ chức về giá. Riêng về giá đất, trong dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã được đề xuất sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định về: giá đất do Nhà nước quy định; bổ sung quy định về định giá đất tại các khu vực giáp ranh giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và quy định khi giá đất trên thị trường có sự thay đổi lớn thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh điều chỉnh bảng giá đất cho phù hợp; không ban hành bảng giá các loại đất vào ngày 01 tháng 01 hằng năm; trường hợp chưa kịp điều chỉnh bảng giá đất cho phù hợp với giá thị trường trong điều kiện bình thường thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ nguyên tắc và phương pháp định giá đất quyết định giá đất cụ thể; đồng thời quy định theo hướng mở rộng các tổ chức định giá đất chuyên nghiệp với các thành phần kinh tế để phục vụ chức năng quản lý nhà nước đối với giá đất và nâng cao chất lượng hoạt động định giá trong thời gian tới.

2. Về công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, việc giao đất, cho thuê đất, xử lý các vi phạm của các tổ chức sử dụng đất

a) Về việc chỉ đạo Ủy ban nhân dân các cấp triển khai đồng bộ công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương tổ chức thẩm định quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011 - 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ đầu (2011 - 2015) cho các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương1, đang được Chính phủ xem xét phê duyệt. Trong quá trình thẩm định, Bộ đã yêu cầu các địa phương căn cứ vào quy hoạch cấp tỉnh, khẩn trương triển khai việc lập quy hoạch sử dụng đất cấp huyện để ngay khi quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh được Chính phủ phê duyệt thì tổ chức thẩm định và xét duyệt quy hoạch cấp huyện. Đồng thời yêu cầu các địa phương thực hiện những giải pháp đồng bộ để thực hiện quy hoạch, trong đó nhấn mạnh các giải pháp:

- Quản lý, sử dụng đất theo đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Rà soát việc thực hiện chuyển đổi mục đích đất nông nghiệp, đất trồng lúa và các loại đất khác theo đúng quy định của pháp luật.

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, quản lý việc sử dụng đất theo quy hoạch nhằm ngăn chặn các vi phạm, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; kiên quyết không giải quyết giao đất, cho thuê đất đối với các trường hợp không có trong quy hoạch sử dụng đất, xử lý các trường hợp đã giao đất, cho thuê đất nhưng không sử dụng hoặc sử dụng sai mục đích.

b) Về việc rà soát tình hình quản lý, sử dụng đất tại các dự án trên phạm vi cả nước để làm rõ tình trạng dự án chậm triển khai thực hiện, để đất hoang gây bất bình trong dư luận, đặc biệt là các dự án có sử dụng đất tại 5 thành phố trực thuộc Trung ương (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ và TP. Hồ Chí Minh). Chỉ đạo Ủy ban nhân dân các tỉnh tăng cường kiểm tra giám sát việc sử dụng đất sau khi đã giao cho thuê đảm bảo thực hiện dự án đúng tiến độ; đồng thời kiểm tra, đánh giá năng lực nhà đầu tư trước khi thực hiện việc giao đất, cho thuê đất:

Bộ đã tổ chức cuộc họp với lãnh đạo các Sở Tài nguyên và Môi trường để chỉ đạo, đôn đốc việc rà soát tình hình quản lý, sử dụng đất tại các dự án. Trên cơ sở kết quả kiểm tra tại 5 thành phố nêu trên và báo cáo rà soát của địa phương, Bộ đã có Văn bản số 3255/BTNMT-TCQLĐĐ ngày 14 tháng 9 năm 2012 gửi Thủ tướng Chính phủ, trong đó đề xuất các giải pháp để xử lý, bao gồm:

- Về giải pháp trước mắt, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị hoặc giao Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành văn bản đôn đốc, hướng dẫn địa phương xử lý việc thu hồi đất đối với các dự án đầu tư do chậm đưa đất vào sử dụng tại các địa phương theo hướng:

+ Các Bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp theo Chỉ thị số 134/CT-TTg, Chỉ thị số 07/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ; tiếp tục đôn đốc các địa phương tăng cường kiểm tra tình hình sử dụng đất của các dự án đã được giao đất, cho thuê đất; kiên quyết xử lý đối với các trường hợp chậm đưa đất vào sử dụng, để lãng phí đất đai. Giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì lập đoàn kiểm tra việc chậm đưa đất vào sử dụng tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;

+ Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao Sở Kế hoạch và Đầu tư phối hợp các Sở, ban, ngành nghiên cứu, rà soát, phân loại các dự án chậm sử dụng đất để yêu cầu chủ đầu tư chủ động tìm giải pháp khắc phục để đảm bảo dự án đầu tư sử dụng đất đúng mục đích đã giao, cho thuê đất. Trường hợp chủ đầu tư không còn khả năng thực hiện dự án đầu tư thì thu hồi đất, trước hết chọn thu hồi đất đối với những trường hợp chậm sử dụng đất gây bức xúc trong nhân dân, đất đã được giao đất, cho thuê không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất nhưng có lợi thế thương mại để giao cho Tổ chức phát triển quỹ đất quản lý, đưa ra đấu giá quyền sử dụng đất. Sau khi đấu giá quyền sử dụng đất đã thu hồi xong sẽ hoàn trả tiền cho nhà đầu tư;

+ Kiên quyết không cho thành lập mới hoặc mở rộng các khu công nghiệp nếu không bảo đảm các yêu cầu: phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển khu công nghiệp đã được duyệt; tổng diện tích đất công nghiệp của các khu đã được thành lập trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã cho các dự án đăng ký đầu tư, cấp Giấy chứng nhận đầu tư thuê đất, thuê lại đất (lấp đầy) dưới 60%. Không xét duyệt quy hoạch mới các cụm công nghiệp nếu không bảo đảm đủ các điều kiện: có trong Quy hoạch phát triển cụm công nghiệp đã được duyệt và các yêu cầu về hạ tầng kỹ thuật, bảo vệ môi trường. Kiên quyết không cho phép mở rộng các cụm công nghiệp nếu tỷ lệ lấp đầy đạt dưới 60%.

Chỉ đạo Ủy ban nhân dân các cấp triển khai lập quy hoạch sử dụng đất và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc sử dụng đất của các tổ chức sau khi được Nhà nước giao, cho thuê để đảm bảo sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn tài nguyên đất.

- Về các giải pháp lâu dài:

+ Đưa vào dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) các quy định tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho việc quản lý, sử dụng đất đối với các dự án đầu tư, trong đó có vấn đề thu hồi đất do vi phạm quy định về chậm đưa đất vào sử dụng như quy định về điều kiện giao đất, cho thuê đất để lựa chọn các nhà đầu tư có năng lực thực hiện dự án; hoàn thiện các chính sách về tài chính đất đai trong đó sẽ tăng thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, áp dụng thuế lũy tiến đối với các dự án chậm đưa đất vào sử dụng; không bồi thường tài sản gắn liền với đất đối với đất chậm đưa vào sử dụng mà bị thu hồi;

+ Quy định cụ thể về điều kiện, tiêu chí thẩm định nhu cầu sử dụng đất đối với từng loại dự án khi xem xét giao đất, cho thuê đất; cưỡng chế thi hành quyết định thu hồi đất;

+ Tiếp tục đẩy mạnh việc thi hành chính sách, pháp luật về bồi thường giải phóng mặt bằng để triển khai các dự án đầu tư; cho phép Trung tâm phát triển quỹ đất được sử dụng nguồn vốn từ Quỹ phát triển đất để hoàn trả giá trị tài sản còn lại của chủ đầu tư khi thu hồi đất đồng thời được lập và tổ chức thực hiện kế hoạch khai thác, sử dụng quỹ đất bị thu hồi để tăng thu cho ngân sách bổ sung vào Quỹ phát triển đất.

c) Về tình hình xử lý đất rừng cho tổ chức nước ngoài thuê, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công văn số 867/TTg-KTN ngày 31 tháng 5 năm 2011, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan triển khai các công việc sau:

- Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư theo hướng quy định chặt chẽ hơn về thẩm quyền, điều kiện và trình tự thẩm tra cấp Giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng nhiều diện tích đất, dự án trồng rừng, đặc biệt phải có ý kiến bằng văn bản của các Bộ, ngành có liên quan trước khi cấp phép.

- Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng, ban hành Thông tư liên tịch số 07/2011/TTLT-BNNPTNT-BTNMT ngày 29 tháng 01 năm 2011 hướng dẫn một số nội dung về giao rừng, thuê rừng gắn liền với giao đất, thuê đất lâm nghiệp.

- Chỉ đạo các địa phương tiến hành kiểm tra, rà soát cụ thể đối với diện tích đất lâm nghiệp hiện đang cho các tổ chức nước ngoài thuê đất; kiểm tra việc thực hiện các quy định về pháp luật đất đai tại các dự án trồng rừng có vốn đầu tư nước ngoài tại các vùng nhạy cảm về an ninh, quốc phòng đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư. Đối với các dự án vi phạm pháp luật đất đai, nhất là các dự án đã được cho thuê đất nhưng chậm triển khai thì kiên quyết thu hồi.

Kết quả rà soát, thu hồi, xử lý đối với các dự án triển khai nằm trong khu vực biên giới, khu vực quân sự, khu vực chồng lấn với các dự án khác cho thấy các địa phương đã thực hiện đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Đến nay, còn 08 tỉnh cho các tổ chức 100% vốn nước ngoài thuê đất rừng với tổng diện tích 19.237 ha, gồm: Lạng Sơn 485 ha, Quảng Ninh 3.140 ha, Nghệ An 979 ha, Bình Định 9.834 ha, Quảng Nam 958 ha, Kom Tum 2.271 ha, Lâm Đồng 901 ha, Bình Phước 670 ha. Có 02 tỉnh cho tổ chức liên doanh thuê với diện tích 32 ha, trong đó: tỉnh Phú Thọ 10 ha và thành phố Hồ Chí Minh 22 ha.

d) Về việc chỉ đạo các địa phương kiên quyết xử lý đối với các tổ chức có vi phạm; tiếp tục đôn đốc các địa phương kiểm tra, giám sát, xử lý theo Chỉ thị số 134/2010/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ:

Để tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 134/2010/CT-TTg và nhằm đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra và kiên quyết xử lý những sai phạm, thu hồi đối với đất sử dụng không đúng mục đích, kém hiệu quả, ngày 19 tháng 7 năm 2012, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có Công văn số 2526/BTNMT-TCQLĐĐ gửi các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề nghị tiếp tục đẩy mạnh việc kiểm tra, rà soát, xử lý tình hình sử dụng đất của các tổ chức theo Chỉ thị số 134/CT-TTg và báo cáo kết quả 03 năm thực hiện gửi Bộ để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.



3. Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng

a) Về việc rà soát, đánh giá các quy định hiện hành về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để đề xuất sửa đổi, bổ sung một cách căn bản cơ chế, chính sách bồi thường theo hướng đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch: Bộ đã thực hiện rà soát, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Trong quá trình rà soát, sau khi phát hiện một số vướng mắc, tồn tại, Bộ đã chỉ đạo các địa phương kịp thời tháo gỡ. Cho đến nay, về cơ bản những vấn đề đó đã được giải quyết. Một số vấn đề thuộc thẩm quyền Chính phủ hoặc cần phải bổ sung vào Luật Đất đai như: việc thực hiện cưỡng chế khi Nhà nước thu hồi đất; bồi thường, hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi chưa được rành mạch (hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ tái định cư); bồi thường đối với nhà và công trình phục vụ sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân mà bị phá dỡ một phần; nguyên tắc định giá đất "sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường"; thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải được thực hiện trước khi có quyết định thu hồi đất, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổng hợp đưa vào nội dung dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi).

b) Về việc hoàn thiện cơ chế tạo quỹ đất, huy động nguồn vốn để chủ động xây dựng các khu tái định cư trước khi thu hồi đất; việc xây dựng các khu tái định cư theo hướng đa dạng hóa các loại hình nhà ở phù hợp với điều kiện, phong tục, tập quán của từng vùng, miền:

- Cơ chế tạo quỹ đất được quy định tại Điều 34 và Điều 35 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Tuy nhiên, việc thực hiện quy định này tại các địa phương còn hạn chế. Để hoàn thiện cơ chế này, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã bổ sung vào dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) quy định: Quỹ phát triển đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập, được tạo lập từ nguồn thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tiền đấu giá quyền sử dụng đất và huy động các nguồn vốn khác để sử dụng vào các mục đích trong đó có ứng vốn để tạo quỹ đất theo quy hoạch, xây dựng các khu tái định cư để thực hiện thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.

- Nhằm đảm bảo cho việc bố trí tái định cư đồng bộ, đủ điều kiện cho người sử dụng, tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ và phù hợp với thực tế tại các địa phương, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã trình Chính phủ quy định tại khoản 1 Điều 19 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP là: “Nhà ở, đất ở tái định cư được thực hiện theo nhiều cấp nhà, nhiều mức diện tích khác nhau phù hợp với mức bồi thường và khả năng chi trả của người được tái định cư”.

c) Về việc lập và tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cần có sự tham gia rộng rãi của người có đất bị thu hồi; tổ chức thực hiện có hiệu quả phương án đào tạo nghề, tạo việc làm cho người có đất bị thu hồi:

Theo quy định tại Điều 30 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP, trong quá trình thực hiện việc thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng thì phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư được niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã và tại các điểm sinh hoạt khu dân cư nơi có đất bị thu hồi để người bị thu hồi đất và mọi người dân tham gia ý kiến đóng góp ít nhất là 20 ngày, kể từ ngày đưa ra niêm yết. Sau thời gian niêm yết, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổng hợp ý kiến và điều chỉnh phương án trước khi chuyển cơ quan có thẩm quyền thẩm định để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Về giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho người bị thu hồi theo quy định tại Điều 22 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP, Chính phủ giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trình Thủ tướng Chính phủ quyết định cơ chế, chính sách giải quyết việc làm, đào tạo nghề cho người bị thu hồi đất nông nghiệp và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo lập, tổ chức thực hiện phương án đào tạo nghề, tạo việc làm cho các đối tượng bị thu hồi đất nông nghiệp. Hiện nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã trình Chính phủ chiến lược đào tạo nghề cho người lao động nông thôn, trong đó có cả người bị thu hồi đất.

Trong dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đã bổ sung nguyên tắc công khai, dân chủ trong thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, trong đó người có đất bị thu hồi được tham gia vào quá trình xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.

d) Về việc hoàn thiện cơ chế chính sách để tăng cường năng lực của Tổ chức phát triển quỹ đất và tăng nguồn vốn cho Quỹ phát triển đất; đào tạo, bồi dưỡng, có cơ chế kiểm soát chặt chẽ hoạt động của đội ngũ cán bộ làm công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng:

Nhằm khắc phục những tồn tại, khó khăn về nguồn vốn và chức năng, nhiệm vụ của Tổ chức phát triển quỹ đất, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 69/2009/NĐ-CP và phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-BTNMT-BNV-BTC ngày 08 tháng 01 năm 2010 quy định về chức năng, nhiệm vụ và nguồn tài chính của Tổ chức phát triển quỹ đất, Bộ cũng đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 40/2010/QĐ-TTg ngày 12 tháng 5 năm 2010 về Quy chế mẫu về quản lý, sử dụng Quỹ phát triển đất để làm cơ sở cho các địa phương thành lập Quỹ phát triển đất phục vụ công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

Tuy nhiên, do nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tình hình thực tế, yêu cầu cần phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách và công tác tổ chức thực hiện, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang thực hiện việc điều tra, đánh giá thực trạng để hoàn thiện Tổ chức phát triển quỹ đất góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, nhằm tổng hợp đánh giá những mặt được và hạn chế tồn tại, để trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp phù hợp. Đồng thời, trong dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã bổ sung quy định bắt buộc các địa phương lập Quỹ phát triển đất, nguồn vốn cho Quỹ phát triển đất được lấy từ nguồn thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tiền đấu giá quyền sử dụng đất và huy động các nguồn vốn khác để bảo đảm phục vụ ứng vốn cho các hoạt động bồi thường, giải phóng mặt bằng và tạo lập quỹ đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới.



4. Triển khai thực hiện chỉ tiêu hoàn thành cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2013

Để hoàn thành cấp Giấy chứng nhận vào năm 2013 theo Nghị quyết số 30/2012/QH13 của Quốc hội tại kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa XIII, Bộ Tài nguyên và Môi trường có Văn bản số 2419/BTNMT-TCQLĐĐ ngày 13 tháng 7 năm 2012 yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tập trung chỉ đạo, thực hiện đồng bộ các giải pháp để đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận ở địa phương theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 1474/CT-TTg ngày 24 tháng 8 năm 2011, đồng thời khẩn trương thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể:

- Rà soát, thống kê các trường hợp chưa cấp Giấy chứng nhận ở từng xã, phường, thị trấn; xác định rõ nguyên nhân tồn đọng, ban hành quy định cụ thể để tháo gỡ vướng mắc trong việc cấp Giấy chứng nhận ở địa phương; giao chỉ tiêu kế hoạch cấp Giấy chứng nhận cho từng huyện, xã và các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất phải thực hiện trong năm 2012 và năm 2013.

- Nhanh chóng kiện toàn, tăng cường nhân lực cho hệ thống các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất các cấp, nhất là cấp huyện; bố trí đủ kinh phí từ ngân sách (bảo đảm dành tối thiểu 10% tổng số thu từ tiền sử dụng đất, tiền thuê đất của tỉnh) cho việc cấp Giấy chứng nhận ở địa phương; tập trung chỉ đạo thực hiện đối với các xã, phường, thị trấn chậm cấp Giấy chứng nhận.

- Trong hai năm 2012 và 2013, phải ưu tiên kinh phí cho thực hiện cấp Giấy chứng nhận lần đầu để cơ bản hoàn thành vào năm 2013; việc đo vẽ bản đồ địa chính phải gắn với việc cấp Giấy chứng nhận; ưu tiên cấp mới và chưa đặt mục tiêu cấp đổi Giấy chứng nhận nếu địa phương còn nhiều xã, phường, thị trấn có nhiều loại đất mà tỷ lệ cấp Giấy chứng nhận đạt thấp (dưới 80%).

- Nơi đã có bản đồ địa chính phải sử dụng triệt để cho cấp Giấy chứng nhận; nơi chưa có bản đồ địa chính thì tận dụng các loại bản đồ, sơ đồ giải thửa cũ, bản đồ quy hoạch xây dựng chi tiết hoặc thực hiện trích đo địa chính thửa đất để cấp Giấy chứng nhận mà không chờ đo vẽ bản đồ địa chính. Đối với các tổ chức sử dụng đất, cần sử dụng triệt để kết quả trích đo địa chính theo Chỉ thị số 31/2007/CT-TTg ngày 14 tháng 12 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ để cấp Giấy chứng nhận.

- Các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cần phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã chủ động tổ chức cho người sử dụng đất kê khai đăng ký đất đai mà không thụ động chờ người sử dụng đất đến làm thủ tục đăng ký như trước đây. Việc xét duyệt hồ sơ cấp Giấy chứng nhận của cấp huyện phải được thực hiện lồng ghép, đồng thời với quá trình thẩm tra, xét duyệt của cấp xã để bảo đảm tiến độ cấp Giấy chứng nhận theo quy định.

Ngày 03 tháng 8 năm 2012, Bộ đã tổ chức Hội nghị quán triệt các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể tới các Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường để chỉ đạo triển khai thống nhất. Tổ chức các đoàn công tác của của Bộ để kiểm tra, đôn đốc các địa phương thực hiện Chỉ thị số 1474/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Đến nay, cả nước đã cấp được trên 35.857.000 Giấy chứng nhận các loại với tổng diện tích trên 20.458.000 ha. Trong đó: đất sản xuất nông nghiệp đạt 85,5%; đất lâm nghiệp đạt 87,1%; đất nuôi trồng thuỷ sản đạt 83,8%; đất ở nông thôn đạt 85,8%; đất ở đô thị đạt 63,5%; đất chuyên dùng đạt 62,8%; đất cơ sở tôn giáo đạt 83,4%. Đồng thời đã cấp được 3.841.000 Giấy chứng nhận theo mẫu mới với tổng diện tích 1.659.000 ha2.


Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn số: 1588

tải về 209.88 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương