VIỆt nam cộng hòA 10 ngày cuối cùNG


Tổng Thống Trần Văn Hương Cho Phép Thả Bom CBU ở Xuân Lộc



tải về 1.71 Mb.
trang13/20
Chuyển đổi dữ liệu12.05.2018
Kích1.71 Mb.
#38155
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   20

Tổng Thống Trần Văn Hương Cho Phép Thả Bom CBU ở Xuân Lộc.

Ngay sau khi Cụ Trần Văn Hương nhận chức Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, trong ngày 22 tháng 4, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III đã yêu cầu Đại Tướng Cao Văn Viên xin với Hoa Kỳ yểm trợ cho Vùng 3 một phi vụ B-52 dội bom xuống khu vực chung quanh Xuân Lộc, nhưng Đại Tướng Viên biết rõ người Mỹ không thể nào đáp ứng được điều đó cho nên ông từ chối. Tuy nhiên trước đó mấy tuần, Đại Tướng Federick Weyand và Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Von Marbod đã xoay xở đưa sang Việt Nam mấy trái bom CBU-55. Loại bom nầy còn được gọi là ‘’bom dầu’’ (fuel bomb), loại bom có sức công phá và sát hại mạnh nhất trong các loại vũ khí của Mỹ. Sau khi được thả xuống, bom sẽ nổ tung ra thành hàng trăm trái bom nhỏ khác, mỗi trái nhỏ nầy sẽ tạo thành một bức màn như dầu hỏa có chiều rộng khoảng 17 mét và bề dày chừng 3 mét là đà trên mặt đất rồi sau đó sẽ nổ tung gây ra một áp suất khoảng 300 cân Anh trên một inch vuông (300 pounds per square inch) và hút hết khối lượng oxygen ở dưới đất, ở trong buồng phổi của tất cả mọi sinh vật, dù là ở dưới hầm sau cũng không thở được.

13 ngày sau khi đã anh dũng chống lại nhiều đợt tấn công của cộng sản Bắc Việt, các đơn vị cuối cùng của Sư Đoàn 18 đã rút khỏi Xuân Lộc ngày 22 tháng 4. Tất cả nhà báo ngoại quốc đã khen ngợi cuộc rút quân nầy là đã ‘’được hoạch định và thi hành rất hay’’ và các đơn vị nầy về đến Biên Hòa thì chỉ bị thiệt hại chừng 30% quân số sau hai lần giao tranh với một lực lượng địch đông gấp bốn, năm lần. Bộ Tổng Tham Mưu đề nghị lên Tổng Thống Trần Văn Hương xin sử dụng loại bom nầy ở Xuân Lộc để ngăn chận sức tiến quân của cộng sản Bắc Việt và chính Tổng Thống Trần Văn Hương đã chấp thuận cho phép Không Quân Việt Nam Cộng Hòa thả những trái bom nầy.

Với sự trợ giúp về kỹ thuật của các chuyên viên thuộc DAO (Văn Phòng Tuy Viên Quân Sự Hoa Kỳ), Không Quân Việt Nam Cộng Hòa đã gằn loại bom nầy lên một chiếc phi cơ C-130 xuất phát từ căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhất bay lên thả xuống vùng Xuân Lộc, nơi mà các đơn vị cuối cùng của Sư Đoàn 18 vừa mới triệt thoái tối hôm trước. Trái bom CBU-55 nầy được thả xuống ngay trên đầu Bộ Tư Lệnh sư đoàn 341 của cộng sản Bắc Việt lúc đó đang trú đóng ở 6 cây số về phía Tây Bắc Thành Phố Xuân Lộc khiến cho cả ba bốn trăm bộ đội Bắc Việt bị tử thương. Đài phát thanh Hà Nội ngay sau đó đã la lối tố cáo rằng Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa đã sử dụng loại vũ khí hóa vi quang (Chemical-Biological-Radiological weapons) một cách bất hợp pháp. Trung Hoa cộng sản cũng tiếp tay Hà Nội lên án Hoa Kỳ vô cùng mạnh mẽ về việc đã sử dụng loại vũ khí giết người ghê gớm nầy.

Theo Frank Snepp thì dù có sự phản đối mạnh mẽ nói trên, Không Quân Hoa Kỳ cũng có trợ giúp bằng cách dùng phi cơ thả xuống vùng do cộng sản kiểm soát quanh Thị Trấn Xuân Lộc hằng chục trái bom ‘’daisy cutters’’, tên thông dụng của loại bom BLU-82 tức là loại bom dùng để khai quang bãi đáp cho trực thăng nặng khoảng 15.000 cân Anh tức khoảng 7 tấn rưỡi cùng với hàng loạt bom 500 cân anh gây ra nhiều thiệt hại nặng nề cho cộng quân. (Sau 1975, cộng sản tìm được 3 trái bom BLU-82 chưa sử dụng và cho triển lãm tại Sài Gòn). Chính Tân Tổng Thống Trần Văn Hương là người cho phép Không Quân Việt Nam Cộng Hòa thả những trái bom hạng nặng nầy xuống đầu quân cộng sản Bắc Việt tại vùng Xuân Lộc.

Frank Snepp nói rằng có một số phi cơ của Hoa Kỳ thuộc loại wild Weasel (Con Chồn Hoang) đã được sử dụng trong việc tấn công các đơn vị hỏa tiễn phòng không lưu động của cộng sản Bắc Việt đang hoạt động trong vùng Đông Bắc Vùng 3 Chiến Thuật. Wild Weasel là biệt danh dành cho các loại chiến đấu cơ F-105 hoặ F-4 được trang bị với những dụng cụ điện tử đặc biệt ECM (electronic counter-measures) nhằm vào khám phá các địa điểm đặt hỏa tiễn phòng không SAM của việt cộng và dùng phi đạn không địa tiêu diệt các giàn rada điều khiển các hỏa tiển nầy. Văn phòng CIA Sài Gòn không hề được thông báo về việc nầy và Tòa Bạch Ốc cũng không muốn cho ai hay biết gì về chiếc phi cơ của Không Lực Hoa Kỳ lại đã được sử dụng tại chiến trường Miền Nam Việt Nam trong mấy ngày cuối tháng 4 năm 1975 nầy. Frank Snepp: Sách đã dẫn, trang 416.

Theo Đại Tướng Cao Văn Viên thì ‘’cuối tháng 2 năm 1975, qua những lần viếng thăm Sài Gòn của Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng Eric Von Narbod và Đại Tướng Frederick Weyand, Bộ Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có xin Hoa Kỳ cung cấp cho Việt Nam Cộng Hòa những loại bom chiến lược mà Không Quân có thể sử dụng được. Loại bom Hoa Kỳ cung cấp cho Việt Nam là loại bom có biệt danh là ‘’Daisy Cutter’’, nặng 15.000 pounds tức khoảng trên 7 tấn. Không Quân Hoa Kỳ dùng bom nầy để phá rừng, làm bãi đáp cho trực thăng trong cuộc chiến. Hoa Kỳ hứa gởi cho 27 quả bom và chuyên viên để huấn luyện sử dụng bom trong vòng một tuần.

Giữa tháng 4, 3 trái được chở đến và cuối tháng 4 thêm 3 trái nữa. Một chuyên viên Hoa Kỳ đi theo để hướng dẫn Không Quân Việt Nam gắn ngòi nổ và cách chuyển vận bom trên phi cơ, tuy nhiên người phi công Hoa Kỳ có trách nhiệm lái phi cơ lại không đến. Trong tình trạng khẩn trương của chiến trường và sự nguy hiểm khi phải tồn trữ loại bom nầy ở Phi Trường Tân Sơn Nhất hay Long Bình, Bộ Tổng Tham Mưu và Bộ Tư Lệnh Không Quân quyết định tuyển chọn một phi công Việt Nam có kinh nghiệm để đảm nhiệm việc thả bom. Chiếc C-130 và quả bom  ‘’Daisy Cutter’’ cất cánh vào lúc nửa đêm nhưng sau 20 phút lại phải hạ cánh vì một lý do kỹ thuật không quan trọng, nhưng phi cơ lại cất cánh 30 phút sau đó.

Vào một giờ sáng, phi cơ thả trái bom ‘’Daisy Cutter’’ thả trái bom đầu tiên xuống một địa điểm cách Xuân Lộc 6 cây sô về hướng Tây-Bắc. Thành Phố Xuân Lộc bị rúng động như bị động đất, tất cả đèn điện bị tắt và truyền tin của địch ngưng hoạt động: Bộ Tư Lịnh sư đoàn 341 của cộng sản Bắc Việt bị tiêu diệt. Tinh thần binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa phấn khởi. Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh ở mặt trận Xuân Lộc hỏi ‘’Bộ Tổng Tham Mưu có còn nhiều loại bom đó không ?’’. Tin đồn loan truyền nhanh chóng ngoài quần chúng là chúng ta đang được trang bị bom ‘’nguyên tử’’. Cộng sản Bắc Việt lên tiếng chửi rũa Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ đã sử dụng vũ khí tàn phá chiến lược’’. Cao Văn Viên: Sách đã dẫn, trang 201-202.

Dường như ngày hôm đó Hà Nội vẫn không nhận được báo cáo nào của Bộ Tư Lệnh Chiến Dịch Hồ Chí Minh về những tổn thất do bom CBU gây ra và Hà Nội chỉ biết được tin nầy qua một Hãng Thông Tấn của Pháp. Ngay hôm đó, Võ nguyên Giáp đã nhân danh Bộ Chính Trị gởi cho ‘’anh Sáu’’ (Lê đức Thọ), ‘’anh Bảy’’ (Phạm Hùng) ‘’anh Tuấn’’ (Văn tiến Dũng), ‘’anh Tấn’’ (Lê trọng Tấn) và ‘’anh Tư Nguyễn’’ (Trần văn Trà) bức điện văn mang số 94B ngày 23 tháng 4 năm 1975:

1- Tin AFP chiều 23.4 cho biết địch dùng loại bom ngạt đầu tiên thả ở khu vực giữa Biên Hòa và Xuân Lộc bằng máy bay C-130 và có hàng trăm xác chết nằm ngổn ngang trên trận địa. Có thể chúng đã dùng loại bom ngạt CBU-55 mà tên Uâyen (Tướng Weyand) đã đề nghị, cũng có thể chúng tung tin để uy hiếp ta, thúc ép ta đi vào thương lượng. Trong trường hợp nào ta cũng phải thực sự đề phòng.

2- Các anh cho kiểm tra nắm được tin gì cụ thể thì điện ngay cho biết. Cần nhắc lại và phổ biến rộng rãi những chỉ thị phòng độc phòng hóa cho bộ đội. Cần chuẩn bị thêm những phương tiện gì thì điện ngay cho biết.

3- Anh ba (Lê Duẫn) và Thường Vụ Quân Ủy Trung Ương có ý kiến cách đối phó hiệu quả nhất là:

a/ Thực hiện chủ trương của Bộ Chính Trị, phát động sớm cuộc tiến công làm cho hính thái bộ đội ta và địch ở vào thế tiếp cận xem kẽ.

            Đối với các đơn vị tập kết ở xa địch thì cần ngụy trang tốt nơi trú quân và có biện pháp phòng độc phòng hóa nghiêm ngặt.

b/ Để bảo đảm hành động nhanh chóng và chắc thắng thì biện pháp tốt nhất là cho triển khai ngay các trận địa pháo 1130 và D.74 (nếu cần thì dùng một lực lượng bao vây các vị trí của địch để mở đường cho pháo), đánh mạnh vào Tân Sơn Nhất và các mục tiêu nội bộ từ phía Bắc và Tây-Bắc cũng như từ phía Nam Nuận Trạch (Nhơn Trạch). Như vậy vừa gây tổn thương nặng cho Không Quân địch hiện là chỗ dựa chủ yếu của chúng, vừa gây rối loạn trong hàng ngũ địch ở nội đô và làm suy sụp hơn nữa tinh thần chiến đấu của chúng, tạo điều kiện thuận lợi để ta tấn công vào nội đô, tiêu diệt và làm tan rã địch.

c/ Đối với các sân bay quan trọng khác như Cần Thơ, Vũng Tàu v.v…cần chỉ thị cho các bộ đội dùng các loại hỏa lực (pháo, cối) và đặc công đánh phá mạnh.

4- Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời đã lên tiếng tố cáo dư luận quốc tế. Ta cũng đã đề nghị các tổ chức quốc tế lên tiếng tố cáo mạnh mẽ.

5- Nhận được Điện anh trả lời ngay.

Văn. Văn Kiện Đảng, trang 305-306.

Tuy nhiên dù có bom CBU nhưng một Sư Đoàn 18 không thể nào chống cự được với một lực lượng địch đông gấp bội, sau 13 ngày anh dũng chống lại nhiều đợt tấn công của quân cộng sản Bắc Việt, các đơn vị cuối cùng của Sư Đoàn 18 đã rút khỏi Xuân Lộc ngày 22 tháng 4. Các nhà báo ngoại quốc đã khen ngợi cuộc rút quân nầy là đã ‘’được hoạch định và thi hành rất hay’’ và khi các đơn vị nầy về đến Biên Hòa thì chỉ bị thiệt hại chừng 30 phần trăm quân số sau hai lần giao tranh với một lực lượng đông gấp bốn năm lần.

Kế Hoạch Mérillon.

Tại Paris, Tổng Thống Pháp Giscard d’Estaing tin rằng chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Nam Việt Nam của việt cộng có thể có hy vọng đóng một vai trò nào đó trong tình hình chính trị tại Việt Nam và đo đó cần phải duy trì sự hiện diện của người Pháp Tại Miền Nam. Tổng Thống Giscard d’estaing cho mới Nghị Sĩ Paul d’Ormano, đại diện Pháp Quốc tại Hải Ngoại đến Phủ Tổng Thống. Nghị Sĩ Paul d’Ormano vốn trước kia là chủ đồn điền tại Đông Dương và ông ta dự định sang viếng thăm Việt Nam, do đó Tổng Thống Pháp đã yêu cầu ông Nghị Sĩ d’Ormano kêu gọi Pháp kiều nên ở lại Việt Nam, đừng có bỏ chạy và Tổng Thống d’Estaing cũng sẽ ra lệnh cho các viên chức người Pháp cũng phải ở lại. Tổng Thống Giscard d’Estaing cũng liên lạc trực tiếp nhiều lần bằng điện thoại với Đại Sứ Mérillon tại Sài Gòn để chỉ thị cho Tòa Đại Sứ Pháp xúc tiến kế hoạch thành lập một chính phủ liên hiệp giữa phe Mặt Trận Giải Phóng với những thành phần không cộng sản tại Sài Gòn càng sớm càng tốt để thương thuyết với cộng sản Bắc Việt.

            Về phía Đại Sứ Pháp tại Sài Gòn, ông Mérillon chủ trương thành lập một Miền Nam Việt Nam trung lập với đại diện của phe Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, phe Quốc Gia và ‘’phe hòa hợp hòa giải’’ của Dương Văn Minh.

Trong cuốn hồi ký sự nầy, ông tiết lộ rằng Trung Cộng đã ủng hộ giải pháp nầy của người Pháp. Ông cho biết Thủ Tướng Trung Cộng Chu Ân Lai đã đánh điện cho Bộ Ngoại Giao Pháp là Trung Cộng sẵn sàng hợp tác với Pháp để ‘’xây dựng một chính thể trung lập tại Miền Nam nếu có thành phần Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tham dự’’. Đại Sứ Mériloon cũng cho biết hầu hết các quốc gia Á Châu, ngoại trừ Nam Dương, đều ủng hộ việc thành lập một nước Việt Nam đình chiến trong trung lập hơn là một nước Việt Nam thống nhất dưới quyền cai trị của Hà Nội. Đại Sứ Mérillon cho biết sở dĩ Nam Dương chống lại giải pháp trung lập nầy vì Nam Dương hận Trung Cộng đã đạo diễn vụ đảo chánh hụt tại quốc gia nầy năm 1965 nhưng ông tiết lộ rằng năm 1978, Tổng Thống Nam Dương Suharto có gởi cho ông một bức thư tỏ sự hối tiếc là vào năm 1975 chính phủ Nam Dương đã có nhận xét sai lầm về tình hình chính trị tại Đông Dương và đã không ủng hộ kế hoạch của Đại Sứ Pháp tại Sài Gòn.

Theo Đại Sứ Mérillon thì Chu ân Lai đã đưa ra một danh sách gồm có Trương như Tảng, Nguyễn thị Bình, Đinh bá Thi, Thiếu Tướng Lê quang Ba và Trung Tướng Trần văn Trà làm nòng cốt cho thành phần thân Trung Cộng trong chính phủ trung lập tại Miền Nam để chống lại phe thân Nga do Lê Duẫn cầm đầu tại Hà Nội. Đại Sứ Mérillon nói rằng Trung Cộng ‘’tha thiết muốn cứu sống Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để xây dựng ảnh hưởng của họ tại Đông Dương’’  và phe Quốc Gia thì cũng muốn cứu Miền Nam không để cho rơi vào tay cộng sản Hà Nội, như vậy thì cả hai quan niệm nầy đều cùng có một mục đích và còn có thể dàn xếp được.

Sáng ngày 22 tháng 4, Đại Sứ Mérillon mời Dương Văn Minh đến Tòa Đại Sứ Pháp ở đường Hồng Thập Tự để thảo luận về giải pháp trung lập. Đại Tướng Minh đến gặp Đại Sứ Pháp cùng một phái đoàn đông đảo gồm có Nghị Sĩ Vũ Văn Mẫu và theo lời Mérillon, ‘’nhiều nhân vật đang tập sự làm chính trị, những kẻ chuyên sống nhờ xác chết của đồng bào họ’’ như Huỳnh tấn Mẫm, bà Ngô bá Thành, Ni Sư Huỳnh Liên, Lý quý Chung, Hồ ngọc Nhuận v.v…

Đại Sứ Mérillon nhận xét rằng ‘’tôi thấy ông Minh đã liên lạc quá vội với một thành phần vô ích. Những khuôn mặt nầy, Bắc Việt chưa biết đến họ, còn công lao của họ đối với Bắc Việt thì cũng chỉ có việc chửi tầm bậy chế độ Việt Nam Cộng Hòa mà thôi’’. Đại Sứ Mérillon nói rằng: ‘’Huỳnh tấn Mẫm và Ni Sư Huỳnh Liên ai cũng thao thao bất tuyệt ca tụng hòa bình, ca tụng cộng sản vì đánh hơi kẻ thắng là ai rồi. Riêng Nghị Sĩ Vũ Văn Mẫu thì có vẽ già dặn hơn, ông đặt chữ ‘’nếu’’ ở mỗi mệnh đề, chẳng hạn như ông nói ‘’nếu chính phủ tương lai mà do ông làm Thủ Tướng thì viễn ảnh hòa bình sẽ nằm trong tầm tay của dân tộc Việt Nam’’. Tôi nói với họ rằng ‘’không ai có thể chối cải được công lao của quý vị trong thiện chí nỗ lực thành lập tân chính phủ, tuy nhiên thẩm quyền tối hậu giờ phút nầy nằm trong tay Hà Nội, nước Pháp chỉ làm một việc có tính cách trung gian chứ không đóng vai trò chủ động’’. Đại Sứ Mérillon nói rằng sau đó ông đã lễ phép mời mọi người ra về chỉ giữ Tướng Minh ở lại. Trước khi ra về, ông Mẫu nói nhỏ riệng với Đại Sứ Pháp bằng tiếng La Tinh, (có lẽ ông không muốn người khác nghe), rằng ông ta muốn được đi Pháp nếu chính phủ của ông không được Hà Nội công nhận.

Đại Sứ Mérillon nói khi ông trở vào thì Đại Tướng Dương Văn Minh ngồi chờ với ‘’nét mặt sung mãn, tự hào như kẻ đang nắm vững thời cuộc’’ và ông đã mời ông Minh dùng cơm trưa để cùng bàn luận.

Theo kế hoạch của Đại Sứ Mérillon thì ông Minh sẽ đứng ra lập chính phủ với hai thành phần đồng đều: Phe hòa hợp hòa giải của ông cùng với phe Mặt Trận Giải Phóng và trong vòng 24 tiếng đồng hồ, nước Pháp sẽ vận động các nước Âu Châu cùng các nước Phi liên kết thừa nhận tân chính phủ Việt Nam và như vậy thì có thể làm chậm lại đà tiến quân của cộng sản Bắc Việt. Sau đó, ông Minh sẽ cố gắng chỉnh đốn lại hàng ngũ Quân Đội để mặc cả thế đứng cho phe Quốc Gia. Tân chính phủ của ông Minh và Mặt Trận Giải Phóng sẽ tuyên bố sẵn sàng thiết lập bang giao với Trung Cộng và các nước Xã Hội Chủ Nghĩ kể cả Liên Xô. Trung Quốc đã liên lạc với Pháp sẽ cử ngay Đại Sứ đến Sài Gòn trong vòng 24 tiếng đồng hồ và sẽ viện trợ cho chính phủ Sài Gòn 420 triệu Mỹ kim là số tiền mà họ hứa hẹn sẽ viện trợ cho Hà Nội. Sau đó, với sự sắp xếp của Pháp và áp lực của Trung Cộng, tân chính phủ sẽ đòi Hà Nội phải thi hành Hiệp Định Paris 1973.

Đại Sứ Mérillon cho ông Monh biết nước Pháp sẽ viện trợ cho tân chính phủ 300 triệu đồng Francs và đồng thời cũng sse4 vận động các quốc gia Âu châu khác môt ngân khoản độ 290 triệu Mỹ kim nữa qua các chương trình viện trợ kinh tế, văn hóa, phát triển kinh tế và nhân đạo. Như vậy thì tổng số tiền viện trợ quốc trế cho Miền Nam Việt Nam cũng không kém viện trợ của Hoa Kỳ trước đây là bao nhiêu và chính phủ trung lập có thể tồn tại được. Đại Sứ Pháp cũng cho biết rằng Nguyễn thị Bình từ đầu đến cuối đã hợp tác chặt chẽ với người Pháp, bằng chứng là sau nầy, 17 ngày sau khi cộng sản Bắc Việt cưởng chiếm Miền Nam, bà ta đã tuyên bố tại Liên Hiệp Quốc là Miền Nam sẽ ở trong tình trạng trung lập trong vòng 5 năm trước khi tiến tới việc thống nhất với Miền Bắc” và có lẽ đây là một trong những lý do khiến bà ta bị thất sủng sau nầy.

            Đại Tướng Dương Văn Minh ngồi yên nghe Đại Sứ Mérillon trình bày kế hoạch của Pháp và nói với Đại Sứ Mérillon rằng ông ta sẵn sàng thực hiện mọi điều trong kế hoạch nầy, ông chỉ nêu lên một câu hỏi duy nhất sau đây: ‘’Thưa ông Đại Sứ, dưới hình thức nào tôi sẽ thay thế ông Trần Văn Hương để thành lập Nội Các mới thương thuyết với phía bên kia ?’’. Ông Mérillon trả lời rằng: ‘’thưa Đại Tướng, hôm qua tôi có thảo luận với Cụ Trần Văn Hương và Cụ đã đồng ý rằng sẽ trao quyền cho Đại Tướng nếu Đại Tướng có kế hoạch không để mất Sài Gòn’’.

Những người thân cận với Cụ Trần Văn Hương cho biết rằng sự thật thì Tân Tổng Thống Trần Văn Hương khi nhận chức đã không hề nghĩ đến việc trao lại cho cựu Đại Tướng Dương Văn Minh chức vụ Tổng Thống nầy. Quan niệm của vị Tân Tổng Thống 71 tuổi nầy là phải tiếp tục chiến đấu bảo vệ phần còn lại của Miền Nam và nếu thương thuyết thì ít ra cũng phải ở trong tư thế mà đối phương có thể chấp nhận. Cụ cũng có ý kiến nếu cần thì sẽ mời ông Dương Văn Minh giữ chức vụ Thủ Tướng với nhiều quyền hạn để thương thuyết với phe công sản.

Đại Sứ Mérillon cho biết rằng: ‘’Khi chúng tôi giới thiệu Tướng Dương Văn Minh sẽ là nhân vật cho ván bài trung lập của Pháp tại Việt Nam, Cụ Trần Văn Hương sửng sốt và tỏ lời phiền trách: ‘’Nước Pháp luôn luôn bẻ nho trái mùa! Nó là học trò tôi, tôi biết biết nó quá mà! Nó không phải là hạng người dùng được trong lúc dầu sôi lửa bỏng. Tôi sẽ trao quyền lãnh đạo cho nó nhưng nó phải hứa với tôi là đừng để Sài Gòn thua cộng sản’’.

Theo Hồi Ký của Đại Sứ Mérillon thì ‘’Chúng tôi giải thích với  Cụ Hương là Bắc Việt rất sợ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đoạt chiến thắng, công khai ra mặt nắm chính quyền. Chúng ta nên nắm ngay nhược điểm của họ để mà xoay chuyển tình thế. Nếu để một nhân vật diều hâu lãnh đạo, Bắc Việt sẽ viện cái cớ Việt Nam Cộng Hòa không muốn hòa bình rồi thúc quân đánh mạnh trong lúc Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa chưa kịp vãn hồi tư thế phản công. Tạm thời dùng công thức hòa hoãn mà thôi’’. 

Cụ Trần Văn Hương thông cảm, nhưng thở dài và kèm theo những lời tỏ ra mất tin tưởng. Kế hoạch của chúng tôi vô tình đè bẹp tinh thần chống cộng sắt đá của Cụ. Cụ Trần Văn Hương chủ trương nếu cần thì cứ bỏ ngỏ Thành Phố Sài Gòn, rút lực lượng về Miền Tây rồi tổng động viên nhân lực, vật lực còn lại để tiếp tục chiến đấu chống lại cộng sản. Giải pháp nầy thì sẽ tiếp tục đổ máu nhưng ít ra thì Việt Nam Cộng Hòa cũng không thua một cách quá mất mặt.

Mười năm sau, Đại Sứ Mérillon đã viết trong hồi ký của ông rằng: ‘’Bây giờ tôi mới thấy kế hoạch của Cụ Hương là đúng, nếu lúc đó các nhà lãnh đạo quân sự Miền Nam đừng bỏ chạy quá sớm, ở lại yểm trợ cho Cụ thì có thể gở gạc được phần nào thể diện cho người quốc gia Miền Nam’’

Chúng tôi vẫn nhớ lời Cụ nói vào năm 1975: ‘’Ông Đại Sứ à! Tôi đâu có ngán việt cộng. Nó muốn đánh, tôi đánh tới cùng. Tôi chỉ sợ mất nước, sống lưu đày ở xứ người ta. Nếu trời hại, nước tôi mất, tôi xin thề ở lại đây và mất theo nước mình’’. Jean Marie Mérillon: Saigon Et Moi, Paris, 1985.

Trong ngày 22 tháng 4, Lê Duẫn đã gởi điện văn cho Văn tiến Dũng, Lê đức Thọ, Phạm Hùng và Lê trọng Tấn cho biết ý kiến của Bộ Chính Trị nói rằng sau khi Tổng Thống Thiệu từ chức thì dường như Quân Đội Miền Nam đang: ‘’điều chỉnh sự bố trí lực lượng để lộ ý định giữ cho được hành lang đường số 4 từ Sài Gòn đến Cần Thơ’’  và ra lệnh phải đối phó kịp thời.



NGÀY THỨ TƯ

23 THÁNG 4/1975

Hai ngày sau khi ông Thiệu từ chức, tại Washington DC, Đại Sứ Liên Xô Dobrynin đến trao cho Ngoại Trưởng Henry Kissinger một bản thông điệp của Tổng Bí Thư cộng sản Liên Xô Breznev, trong đó, theo diễn dịch của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ , thì không những ‘’phía Việt Nam (tức Hà Nội) bảo đảm với Mac Tư Khoa rằng họ không có ý định thiết lập những chướng ngại cho sự di tản của người Mỹ, họ còn cho thấy rằng họ không có sự ham muốn hạ nhục Hoa Kỳ, và rất sẵn sàng thi hành bản Hiệp Định Paris’’. Trong phần tái bút, Brezhnev còn bày tỏ sự hy vọng rằng Hoa Kỳ sẽ không có hành động nào để cho tình hình tại Đông Dương trở nên trầm trọng hơn. Ngoại Trưởng Kissinger đã cho chuyển nguyên văn bức thông điệp nầy sang Sài Gòn cho Đại Sứ Martin, kèm theo lời bình luận của Kissinger. Đại Sứ Martin nói rằng chưa bao giờ ông Ngoại Trưởng lại gởi cho ông Đại Sứ một văn thư có tính cách tối quan trọng như vậy’’ Frank Snepp: Sách đã dẫn, trang 417.

Trong ngày 23.4, Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn đệ đơn từ chức lên Tổng Thống Trần Văn Hương và Tân Tổng Thống đa yêu cầu Nội Các Nguyễn Bá Cẩn xử lý thường vụ cho đến khi có chính phủ mới. Vào thời điểm nầy, dư luận ở Sài Gòn ai cũng biết rằng các thế lực ngoại quốc muốn ông Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống hay Thủ Tướng toàn quyền, tuy nhiên Cụ Trần Văn Hương lại muốn mời Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy thành lập chính phủ.

Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy là lãnh tụ của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến tức Đảng Tân Đại Việt, ông là người rất có uy tín trong giới trí thức cũng như ở trong giới quân chúng ở Miền Nam. Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy là người đã được Cụ Trần Văn Hương dành cho cảm tình rất sâu đậm từ khi ông còn trẻ tuổi, khi ông đang hoạt động trong tổ chức Thanh Niên Bảo Quốc Đoàn của ông Đỗ Văn Năng, một cơ quan ngoại vi của Đại Việt Quốc Dân Đảng vào hồi cuối thập niên 1940 và trong giai đoạn nầy Cụ Hương sống trong nhà ông Năng ở đường Bà Huyện Thanh Quan gần Vườn Tao Đàn.

Trong lúc đó, về phía Quân Đội thì lại có một nhóm Sĩ Quan bất mãn với Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Theo Trần Văn Đôn thì lúc 11 giờ sáng ngày 23.4, Trung Tướng Vĩnh Lộc, Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị, Đại Tá Nguyễn Huy Lợi, Đại Tá Vũ Quang và Đại Tá Trần Ngọc Huyến đã đến nhà ông và yêu cầu chỉ định người khác thay thế Đại Tướng Viên vì ông nầy ‘’không đủ khả năng, không làm đúng bổn phận, làm việc không hữu hiệu’’. Ông Trần Văn Đôn lúc đó là Xử Lý Thường Vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng đã trả lời rằng ‘’tình hình đã thay đổi, tự nhiên rồi cũng có người thay thế ông Viên’’. Thực ra thì ông Trần Văn Đôn đã biết rõ rằng Đại Tướng Cao Văn Viên nhất quyết không phục vụ với bất cứ tư cách nào trong một chính phủ do Dương Văn Minh lãnh đạo. 

Tổng Thống Trần Văn Hương Cử Tướng Phan Hòa Hiệp Đi Hà Nội.

Trong Decent Interval, Frank Snepp nói rằng ‘’Trong khi quân đội cộng sản Bắc Việt đang chuẩn bị và thao dượt cho hành động cuối cùng của họ là tấn công chiếm Sài Gòn thì ông Tổng Thống già Trần Văn Hương cũng tìm cách tiếp xúc kín với phái đoàn Bắc Việt tại Tân Sơn Nhất trong ngày hôm nay và ông đề nghị gởi một người trung gian đi Hà Nội để thảo luận ngưng bắn. Đề nghị của Ông Hương bị Hà Nội thẳng tay bác bỏ’’ 141 Frank Snepp: Sách đã dẫn. Trang 433.

Tác giả Nguyễn Khắc Ngữ cũng có đề cập đến việc nầy như sau: ‘’Thu xếp với Dương Văn Minh không xong, Cụ Trần Văn Hương liền tích tự mình lo việc điều đình với việt cộng. Với sự giúp đỡ của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, Trần Văn Hương đã cử một vị Tổng Trưởng đi theo chuyến bay liên lạc của Hoa Kỳ hàng tuần đi Hà Nội để xin điều đình nhưng Hà Nội đã không chịu bằng cách không cho chiếc máy bay trên bạ cánh cho đến khi vị Tổng Tr­ưởng kia rời  máy bay’’. Nguyễn Khắc Ngữ: Sách đã dẫn, trang 344.

Các tác giả của Bộ The Vietnam Experience cũng có đề cập đến vai trò của ông Tổng Trưởng nay như­ sau: ‘’ông Hương cũng không tin việc cộng sản Hà Nội sẵn sàng chịu thương thuyết với Dương Văn Minh. Ông nói rằng tôi sẽ chỉ tin vào việc đó sau khi tôi có đủ bằng chứng’’. Ông Hương cũng đưa ra một đề nghị hòa bình của ông, đó là đề nghị một cuộc ngưng bắn tức khắc và thiết lập một Hội Đồng Quốc Gia Hòa Giải, loan báo việc giải nhiệm chính phủ của ông Nguyễn Bá Cẩn mới được thành lập trong 9 ngày và đề nghị gởi Chuẩn Tướng Phan Hòa Hiệp Tổng Trưởng Thông Tin trong Nội Các Nguyễn Bá Cẩn làm Đặc Sứ đại diện cho Miền Nam đi Hà Nội. Cộng sản bác bỏ ngay cả ba đề nghị này một cách phách lối (contemlptuously), nhất là đề nghị về ngưng bắn.’’. The Vietnam Experence. Sách đã dẫn, trang 142.

Trong một cuộc tiếp xúc với Chuẩn Tướng Phan Hòa Hiệp, cựu Tổng Trưởng Thông Tin và Chiêu Hồi trong Nội Các Nguyễn Bá Cẩn, đồng thời cũng là cựu Trưởng Phái Đoàn Việt Nam Cộng Hòa trong Ủy Ban Liên Hợp 4 Bên hồi năm 1973, Tướng Hiệp đã cho người viết biết một vài chi tiết khá lý thú về chuyện này.

Tướng Phan Hòa Hiệp nói rằng vào khoảng hai ngày sau khi Tổng Thống Trần Văn Hương nhận chức (23 tháng 4), ông trở về nhà vào lúc đã khuya và được bà Hiệp cho biết là Văn Phòng Tổng Thống Trần Văn Hương đã gọi điện thoại nhiều lần vì Tổng Thống Hương muốn nói chuyện với ông. Tướng Hiệp vội vàng gọi điện thoại đến Phủ Tổng Thống và sau đó đã được nói chuyện với Tổng Thống Trần Văn Hương. Tổng Thống Hương đã nói với Tướng Hiệp rằng Cụ muốn tìm một đường dây để đề nghị thẳng với Bắc Việt về chuyện thương thuyết với Hà Nội. Cụ nói rằng chuyện thương thuyết này cần phải được xúc tiến sớm chừng nào tốt chừng đó và đường dây qua phái đoàn cộng sản Bắc Việt trong Ủy Ban Liên Hợp 4 Bên là nhanh nhất, do đó Cụ chỉ thị cho Tướng Phan Hòa Hiệp liên lạc với Phái Đoàn Bắc Việt để thăm dò và nếu họ chấp thuận thì Tướng Hiệp có thể đi ra Hà Nội, với tư cách là một nhân viên trong chính phủ (cabinet member) và đại diện cho chính phủ để mở đầu cho sự thương thuyết.

Tướng Hiệp nói rằng ông liên lạc với Phái Đoàn Hoa Kỳ và được biết rằng vào ngày hôm sau, 24 tháng 3 năm 1975, sẽ có một chuyến phi cơ C-13O đặc biệt từ Bangkok bay sang Sài Gòn để đưa một số nhân viên trong phái đoàn Bắc Việt ra Hà Nội rồi lại trở về Sài Gòn vào buổi tối hôm đó (đây là chuyến bay liên lạc cuối cùng giữa Sài Gòn với Hà Nội). Tướng Hiệp vào Phi Trường Tân Sơn Nhất nói chuyện với đại diện của Bắc Việt và nói thêm với họ rằng nếu Hà Nội đồng ý thì ông sẵn sàng đi Hà Nội. Đại diện của Bắc Việt vô cùng ngạc nhiên vì từ khi có những chuyến bay liên lạc Hà Nội-Sài Gòn sau Hiệp Định Paris, có nhiều Sĩ Quan trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã bay ra Hà Nội nhưng Tướng Hiệp thì dù có được mời, ông không bao giờ nhận lời. Tướng Hiệp nói ông yêu cầu người đại diện của Bắc Việt bay ra Hà Nội ngày hôm sau và khi trở về Tân Sơn Nhứt vào buổi tối thì cho ông biết kết quả.

Tướng Phan Hòa Hiệp nói với người viết rằng tối hôm đó ông suy nghĩ cặn kẽ và ông thấy rằng trong trường hợp mà ông được cộng sản cho phép ra Hà Nội, rất có thể là khi ra đến ngoài đó thì ông cũng có thể bị cộng sản bắt giữ, tuy nhiên nếu có điều kiện thuận lợi thì ông cũng cứ đi vì đó là thi hành một nhiệm vụ mà Tổng Thống Trần Văn Hương giao phó. Sáng hôm sau ông yêu cầu người Mỹ di tản gia đình ông sang Phi Luật Tân vì trong trường hợp nếu cộng sản Bắc Việt chấp thuận đề nghị của Tổng Thống Hương thì ông sẽ đi Hà Nội và nếu mà ông bị bắt thì ít ra gia đình của ông cũng đã được an toàn. Tướng Hiệp nói rằng chiều hôm sau, người đại diện của Bắc Việt trong Ủy Ban Liên Hợp 4 Bên từ Hà Nội trở về và cho ông biết rằng Hà Nội bác bỏ đề nghị thương thuyết của Tổng Thống Trần Văn Hương. Đại diện của Hà Nội còn nói thêm rằng Hà Nội đòi chính quyền Miền Nam phải đầu hàng vô điều kiện. Mạn đàm với cựu Chuẩn Tướng Phan Hòa Hiệp tại Anaheim, Califomia, ngày 4 tháng 1 năm 2003.

Đó là nỗ lực duy nhất mà chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cố gắng tìm cách gửi đại diện ra Hà Nội để thăm dò nhằm tiến đến một cuộc thương thuyết và người chủ trương đường lối này là Tân Tổng Thống Trần Văn Hương. Cả hai ông Đại Sứ Hoa Kỳ và Đại Sứ Pháp cũng cùng quan điểm như vậy và họ nghĩ rằng vẫn còn có thể giàn xếp để cho hai phe Sài Gòn và Hà Nội nói chuyện với nhau nhằm đạt được một giải pháp chính trị nào đó. Tuy nhiên, cả người Việt Nam, người Pháp và kể cả người Mỹ là Đại Sứ Martin cũng không thể hiểu được rằng cho đến giờ chót, người làm chính sách (policy maker) cao cấp nhất của nước Mỹ là Ngoại Trưởng Henry Kissinger không hề bao giờ có ý định để cho hai phe người Việt Nam đối nghịch có thể trực tiếp ngồi lại nói chuyện với nhau, dù lúc đó đã là những ngày cuối cùng của trận chiến tranh.

Trong cuốn ‘’Khi Đồng Minh Bỏ Chạy’’, tác giả cho biết rằng:

‘’Ở Phi Trường về (sau khi đưa cựu Tổng Thống Thiệu lên phi cơ đi Đài Loan,) Đại Sứ Martin cùng Đại Sứ Jean Marie Ménllon lại tiếp tục công việc sắp xếp giải pháp chính trị. Ong Martin gửi cho Kissinger một điện văn cho biết vẫn còn có thể điều đình giữa chính phủ Sài Gòn và việt cộng:

Ngày 26 tháng 4, Kissinger gủi mật điện gạt đi liền:

- Ông Đại Sứ đã hiểu lầm ý kiến của tôi về các cuộc điều đình với việt cộng. Tôi đã không nói đến giàn xếp giữa chính phủ Sài Gòn và việt cộng mà nói đến đến thương lượng giữa Hoa Kỳ và việt cộng. Tôi muốn bất cứ cuộc thảo luận nào giữa Hoa Kỳ và việt cộng cũng phải được  diễn ra tại Paris.

Vào giờ chót, Kissinger vẫn không muốn cho hai miền Bắc và Nam Việt Nam trực tiếp điều đình với  nhau mà không có sự kiểm soát của ông’’. Nguyễn Tiến Hưng: Khi Đồng Minh Tháo Chạy trang 216.

Cũng trong ngày này, theo Frank Snepp thì cũng có một màn hỏa mù khác xảy ra. Frank Snepp nói rằng sáng sớm ngày hôm đó, Đại Tá Harry Summers, Phó Trưởng Phái Đoàn Hoa Kỳ trong Ủy Ban Liên Hợp 4 Bên tại Tân Sơn Nhứt đã đáp chuyến phi cơ liên lạc cuối cùng từ Sài Gòn đi Hà Nội, có lẽ đó là chuyến bay mà Chuẩn Tướng Phan Hòa Hiệp nói đến trong đoạn trên. Trong chuyến bay này, một đại diện của Bắc Việt đã đến ngồi cạnh Đại Tá Summers và nói nhỏ với ông về một vài đề nghị riêng. Sau khi về đến Sài Gòn, Đại Tá Summers đã phúc trình rằng người tiếp xúc với ông đã đưa ra ba ‘’điều bình luận’’ (comments) đáng chú trọng, đó là:

l) Ủy Ban Liên Hợp 4 Bên trong đó có cả Phái Đoàn Hoa Kỳ gồm 15 người phải ở lại Miền Nam Việt Nam dù bất cứ chuyện gì xảy ra.

2) Phòng Tùy Viên Quân Sự của Hoa Kỳ (DAO) phải triệt thoái hoàn toàn.

3) Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ phải thương thuyết với ‘’tân chính phủ’’ về tương lai của Sứ Quán.

Sau khi Đại Sứ Graham Martin đọc bản thông điệp của Tổng Bí Thư Brezhnev, xem báo cáo này của Đại Tá Harry Summers cùng với báo cáo của Đại Sứ Hung Gia Lợi trong Ủy Ban Quốc Tế là ông Đại Sứ Toth, ông tin tưởng một cách lạc quan rằng cuộc vận động giữa Ngoại Trưởng Kissinger với lãnh tụ Liên Xô Brezhnev đã mang lại kết quả và ông hy vọng rằng Hà Nội sẽ không có ý làm nhục Hoa Kỳ mà sẽ tiến tới một giải pháp chính trị. Frank Snepp: Sách đã dẫn, trang 432.

Đó là giải pháp của Đại Sứ Pháp Merillon: Tổng Thống Trần Văn Hương phải từ chức và trao quyền lại cho cựu Đại Tướng Dương Văn Minh.



Каталог: groups -> 3849536 -> 989380657 -> name
groups -> PHẦn chuyển tiếp kính thưa quý vị và các bạn trẻ, giữa những ngưới Việt chúng ta, tôi nói
groups -> Ý Nga sưu tầm và cập nhật hóa ngày 21-4-2013, với nhạc của nhạc sĩ: TừYên, Hà Thúc Sinh vừa thêm vào
groups -> BÁo cáo môn: RÈn luyện nghiệp vụ SƯ phạM 3
groups -> Phản Bội hay Tự Do cho Việt Nam ?
groups -> Tin khoa hoc december 31, 2010 Những vụ phóng vệ tinh thất bại trong 2010 Trong năm 2010, một số quốc gia đã vấp phải các sự cố trong việc phóng vệ tinh vào không gian
groups -> Một Thời Bạn Học Revised 8/4/10 việt nam
name -> VIỆt nam cộng hòA 10 ngày cuối cùNG
3849536 -> Van. Phong. Lien. Doi. Xa. Hoi [B. E. S]
3849536 -> Hiểu thế nào về ‘Tội Tổ Tông’ ? Nguyễn Thùy Lời nói đầu

tải về 1.71 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   20




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương