VIỆt nam cộng hòA 10 ngày cuối cùNG



tải về 1.71 Mb.
trang14/20
Chuyển đổi dữ liệu12.05.2018
Kích1.71 Mb.
#38155
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   20

NGÀY THỨ NĂM

24 THÁNG 4/75

Trần Văn Hương Tiếp Xúc Với Dương Văn Minh.

Theo các tác giả Trần Văn Đôn trong Việt Nam Nhân Chứng, Frank Snepp trong Decent Interval và Oliver Tood trong Cruel Avril thì hồi 10 giờ sáng ngày 24.4.75, qua sự trung gian của Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, Tổng Thống Trần Văn Hương đã đến gặp cựu Đại Tướng Dương Văn Minh tại tư gia của Đại Tướng Khiêm trong Cư Xá Sĩ Quan tại Bộ Tổng Tham Mưu gần Phi Trường Tân Sơn Nhứt.

Đại Úy Nguyễn Văn Nhựt, cựu Sĩ Quan Tùy Viên của Tổng Thống Trần Văn Hương lại cho người viết biết rằng Cụ Hương không muốn gặp ông Minh ở Dinh Độc Lập cũng như tại Phủ Phó Tổng Thống ở đường Công Lý, Cụ cũng không muốn gặp ông Minh tại tư gia của ông Minh trên đường Hồng Thập Tự như ông Minh muốn, do đó Cụ đã nhờ Đại Tướng Trần Thiện Khiêm sắp đặt cuộc gặp gỡ nầy. Cụ Hương cũng không muốn việc nầy tiết lộ ra ngoài, do đó Cụ đã dùng trực thăng bay từ Phủ Phó Tổng Thống ở đường Công Lý đến Bộ Tổng Tham Mưu và ngay cả hai người phi công cũng chỉ được lệnh bay lên Tổng Tham Mưu sau khi Cụ lên phi cơ.

Trong bài diễn văn đọc trước Lưỡng Viện Quốc Hội ngày 26 tháng 4 năm 1975, Tổng Thống Trần Văn Hương có nói rằng: ‘’Trong các cuộc gặp gỡ tại tư thất của người bạn chung bởi vì họp mặt tôi  muốn tránh tiếng trước, không thể mời Đại Tướng đến Dinh Độc Lập nói chuyện. Một mặt tôi cũng không thể tự mình tới nhà Đại Tướng mà nói chuyện. Cho nên chúng tôi đã cùng nhau đến nhà một người bạn chung’’.

Trong cuộc tiếp xúc nầy, Tổng Thống Trần Văn Hương đã yêu cầu Tướng Minh nhận chức Thủ Tướng toàn quyền để thương thuyết với phe cộng sản theo đề nghị của Đại Sứ Pháp. Tổng Thống Trần Văn Hương đã nói với Lưỡng Viện Quốc Hội về việc gặp gỡ Tướng Dương Văn Minh rằng:

‘’Người ta bảo rằng Anh có đủ điều kiện để thương thuyết, vậy thì xin anh vì nước nhà, mọi tỵ hiềm đã qua, mọi sự không tốt đẹp đã xảy ra, xin anh vui lòng xóa bỏ để cùng nhau chung lưng dựng nước. Xin Anh chấp nhận cái ghế Thủ Tướng để đứng ra thương thuyết với phe bên kia’’.

Tuy nhiên Tướng Minh đã cương quyết từ chối và ngược lại ông đã yêu cầu Tổng Thống Hương từ chức, nhường chức vụ Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa lại cho ông Minh để được toàn quyền nói chuyện với phe bên kia.

Cuộc tiếp xúc đó coi như là đã hoàn toàn thất bại và Cụ Hương trở về Phủ Tổng Thống. Theo vị Sĩ Quan Tùy Viên của Tổng Thống Trần Văn Hương, đó là chuyến bay bằng trực thăng duy nhất kể từ khi Cụ nhận chức Tổng Thống và chuyến bay khứ hồi chỉ mất khoảng chừng nửa tiếng đồng hồ chứ Tổng Thống Trần Văn Hương không có ‘’bay vòng vòng khắp Sài Gòn-Chợ Lớn’’ như một vài người đã đồn đại sau nầy. Phỏng vấn cựu Đại Úy Nguyễn Văn Nhựt, Sĩ Quan Tùy Viên của Tổng Thống Trần Văn Hương.

Trong cuốn ‘’Cuộc Đời Của Tướng Nguyễn Khoa Nam’’, ông Nguyễn Mạnh Tri, một tong những tác giả cuốn sách nầy đã được cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu dành cho một cuộc phỏng vấn tại San Jose ngày 22.10.2000. Trong cuộc phỏng vấn nầy, cựu Tổng Thống Thiệu có nói như sau về việc ông bàn giao chức vụ Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương:

‘’Khi tôi quyết định từ chức, tôi chỉ giao quyền lại cho Cụ Hương mặc dù tôi có nghe nói ông Dương Văn Minh muốn thay thế Cụ Hương. Tôi từ chức là vì những lý do riệng của tôi và tôi nghĩ rằng đó là quyết định tốt nhất cho đất nước trong tình thế khó khăn lúc ấy. Tôi quyết định từ chức vì bổn phận bắt buộc tôi phải làm như vậy. Tôi tin rằng giao lại cho Cụ Hương, chắc chắn Cụ Hương sẽ không bao giờ chịu trao quyền lại cho việt cộng, họa chăng là việt cộng vào Dinh Độc Lập dí súng vào cổ Cụ. Cụ thà chịu để địch bắt chớ không bao giờ kêu gọi quân dân trao quyền cho bọn chúng’’. Nguyễn Manh Tri: ‘’Cuộc đời của Tướng Nguyễn Khoa Nam’’ do Hội Phát Huy Văn Hóa Việt Nam, Ann Arbor, Michigan xuất bản năm 2001.

Có lẽ sau ngày 21 tháng 4 năm 1975, ông Thiệu là một trong số những người hiếm hoi ủng hộ Cụ Trần Văn Hương. Ông Thiệu muốn Cụ Trần Văn Hương ngồi ở ghế Tổng Thống vì muốn bảo vệ cho quyền lợi của cá nhân của riêng ông, dù sao đi nữa thì Cụ Trần Văn Hương cũng không thể nào đối xử ‘’cạn tàu ráo máng’’ với ông Thiệu, còn các thế lực chính trị khác tại Sài Gòn thì gần như hầu hết đều chống lại việc Cụ Hương tiếp tục làm Tổng Thống. Trước hết là Tòa Đại Sứ Pháp vì giải pháp của người Pháp là dùng lá bài Dương Văn Minh, Tòa Đại Sứ Mỹ thì như trên đã nói chỉ muốn lo cho việc di tản ra khỏi Miền Nam và khoán trắng mọi sự sắp xếp cho ng­ười Pháp, tuy nhiên riêng Đại Sứ Graham Martin thì mong muốn Cụ Hương ngồi ở ghế Tổng Thống thêm dăm ba ngày nữa để giữ cái bộ mặt hợp hiến của chế độ Miền Nam, cựu Đại Tướng Dương Văn Minh thì chỉ muốn lên làm Tổng Thống ngay để có đủ toàn quyền thương thuyết với ‘’những người anh em bên kia’’ và cuối cùng là cựu Trung Tướng Trần Văn Đôn, Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng trong chính phủ Nguyễn Bá Cẩn cùng một số Tướng Tá thân cận của ông ta.

Theo lời của Trung Tướng Trần Văn Đôn kể lại trong ‘’Việt Nam Nhân chứng’’ thì ngay ngày hôm sau khi Cụ Hương tuyên thệ nhậm chức, một số Tướng lãnh như Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III, Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, Tư­ Lệnh Lữ Đoàn III Thiết Giáp đã gọi điện thoại ‘’khuyên’’ ông nên đứng ra lãnh nhiệm vụ Thủ Tướng. Đến ngày 25 tháng 4 thì cựu Tổng Thống Thiệu mời ông Đôn vào Dinh Độc Lập và trong buổi gặp mặt này, ông Thiệu có nói với ông rằng ‘’Ngoài ông Minh ra, ông là người có thể nhận lãnh được trách nhiệm này Tôi đã nghĩ đến ông từ năm 1973 nhưng vì tôi không thay đổi lập trường chống cộng triệt để của tôi nên không thể ngồi chung với họ, nếu chịu thương thuyết thì tôi đã mời ông làm Thủ Tướng từ năm 1973 rồi’’. ông Thiệu gọi điện thoại cho Cụ Hương và ‘’khuyên’’ Cụ rằng ‘’Nếu ông Dương Văn Minh không chịu làm Thủ Tướng toàn quyền thì Cụ  tìm một người khác có thể thương thuyết với bên kia và người đó theo tôi là ông Trần Văn Đôn’’. Trần Văn Đôn: Sách đã dẫn, trang 467.

Cũng theo lời Trần Văn Đôn thì đến 4 giờ 30 chiều 24 tháng 4, Tướng Khiêm gọi điện thoại cho ông Đôn biết là Tổng Thống Trần Văn Hương sẽ chỉ định Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy lãnh tụ Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến làm Tân Thủ Tướng. Cụ Hương biết Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy từ hồi thập niên 1940 trước khi sang Pháp du học và Cụ rất quý trọng ông Huy. Sau đó ông Đôn đến gặp Dương Văn Minh và ông Minh tha thiết yêu cầu ông Đôn giàn xếp thế nào để cho Cụ Hương đồng ý giao quyền lại cho ông ta càng sớm chừng nào tốt chừng đó để thương thuyết với phe bên kia.

Tướng Đôn nghĩ rằng nên có áp lực về phía Quân Đội để Cụ Hương chấp nhận giải pháp này và ông ta đã điện thoại mời hai Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và Cao Văn Viên đến nhà ông Dương Văn Minh, tuy nhiên cả hai ông này không đến nhà ông Minh mà họ đến thẳng Dinh Độc Lập. Đại Tướng Khiêm vào nói chuyện với Cụ Hương, kế đó là Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy và sau đó Tổng Trưởng Quốc Phòng Trần Văn Đôn cùng Tổng Tham Mưu Trưởng Cao Văn Viên trình bày về tình hình quân sự: Vòng đai Sài Gòn đang bị thu hẹp, đạn dược thiếu và tinh thần chiến đấu của binh sĩ quá sa sút.

Tổng Thống Trần Văn Hương nói rằng ông chia xẻ với số phận của anh em Quân Nhân tại chiến trường, ông sẽ sống chết với anh em binh sĩ trong Quân Đội. Sau đó ông chỉ định Đại Tướng Cao Văn Viên làm Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, có nghĩa là Tướng Cao Văn Viên có toàn quyền chỉ huy và điều động Quân Đội, một chức vụ mà trong suốt thời Đệ Nhị Cộng Hòa do chính ông Thiệu nắm giữ. Đại Tướng Cao Văn Viên phải miễn cưỡng nhận lời, tuy nhiên ông yêu cầu Tổng Thống Trần Văn Hương một điều, đó là ‘’nếu Tổng Thống phải giao quyền lại cho Đại Tướng Dương Văn Minh thì tôi xin Tổng Thống cho tôi được nghỉ dài hạn không lương vì tôi không thể làm việc dưới quyền Dương Văn Minh’’. Theo lời Trần Văn Đôn thì Tổng Thống Trần Văn Hương chấp thuận lời yêu cầu này. Trước khi ra về, ông Đôn còn nói thêm với Cụ Hương rằng ‘’Xin Cụ nghiên cứu lại vì phía bên kia họ chỉ muốn nói chuyện với ông Minh mà thôi.’’.

Tối hôm đó, ông Đôn đến nhà Dương Văn Minh thì đã có sự hiện diện của Nghị Sĩ Nguyễn Văn Huyền, Nghị Sĩ Vũ Văn Mẫu và ông Brochand, Cố Vấn Tòa Đại Sứ Pháp. Ông Minh cho ông Đôn biết là Cụ Hương không muốn từ chức, Cố Vấn Brochand tỏ ra thất vọng vì ông ta cho biết Hà Nội nhất quyết không nói chuyện với bất cứ nhân vật nào ngoại trừ Dương Văn Minh. Ông Đôn trấn an nhóm này và nói rằng ‘’ông Hương mới lên mà ép buộc ông phải từ chức thì cũng khó xử cho ông ấy, hơn nữa còn có Hiến Pháp và Quốc Hội’’. Nghị Sĩ Nguyễn Văn Huyền đồng ý và sau đó thì cả ông Minh lẫn ông Vũ Văn Mẫu đều cho rằng ông Hương cố trì hoãn như vậy nhưng thế nào rồi cũng chấp thuận từ chức.



Lá Bài Trần Văn Đỗ? 

Vào cuối tháng 4 năm 1975, sau khi ông Nguyễn Văn Thiệu từ chức, Tổng Thống Trần Văn Hương trong một tuần lễ ngắn ngủi kế nhiệm chức vụ Tổng Thống theo Hiến Pháp đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm người để thương thuyết với Bắc Việt ngõ hầu tìm được một giải pháp ít bi thảm hơn cho Miền Nam và cuối cùng đã phải ‘’trao quyền’’ lại cho cựu Đại Tướng Dương Văn Minh, một người mà hồi đó tại Miền Nam người ta đồn rằng ông ta là người duy nhất có thể nói chuyện được với cộng sản Bắc Việt. Sau ngày 30 tháng 4 thì tất cả mọi người đều thấy rõ điều đó không đúng sự thật vì trong hai ngày ngắn ngủi lên làm Tổng Thống, cộng sản không hề nói chuyện với Dương Văn Minh và cũng không bao giờ có ý định nói chuyện với ông ta cả.

Trong những ngày cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, sau khi hơn một nửa lãnh thổ bị rơi vào tay cộng sản, vào khoảng cuối tháng 3 và đầu tháng 4 năm 1975, một số dư luận về phía ngoại quốc có đề cập đến việc đã đến lúc Miền Nam nên ‘’nói chuyện’’ với cộng sản Bắc Việt và tên tuổi của Bác Sĩ Trần Văn Đỗ cũng có được nhiều người nhắc nhở đến.

Trong một cuốn Hồi Ký được xuất bản vào năm 2003 ông Nguyễn Bá Cẩn, vị Thủ Tướng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa có cho biết:

‘’Theo lời Phó Thủ Tướng Nguyễn Lưu Viên thuật lại với Tiến Sĩ Lâm Lễ Trinh (đăng trong Tạp chí Human Rigbts viết bằng Pháp văn) thì Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm nói rằng ‘’không có một chính phủ ở một quốc gia nào còn có thể đứng vững sau một sự sụp đổ kinh thiên động địa như vậy. Một khi đất nước đã mất 14 Tỉnh rồi mà không có một nhân vật nào từ chính phủ cho tới Tổng Tham Mưu bị trừng phạt thì là một việc vô lý. Và Thủ Tướng Khiêm nói ông ta xin tự nguyện làm ‘’vật tế thần’’.

Từ Tổng Thống Thiệu cho đến Thủ Tướng Khiêm và Phó Thủ Tướng Viên đều đồng ý là phải có một biện pháp gì mạnh hơn quyết định sự cải tổ Nội Các. Sau đó, theo lời Phó Thủ Tướng Nguyễn Lưu Viên thì Tổng Thống Thiệu đọc lại tờ trình của Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, trong đó có đoạn đề cập đền giải pháp nếu cần có một Tân Nội Các thì những nhân vật sau đây được Thủ Tướng Khiêm đề nghị với Tổng Thống Thiệu:

1. Bác Sĩ TrầnVăn Đỗ.

2. Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy.

3. Chủ Tịch Thượng Nghị Viện Trần Văn Lắm.

4. Chủ Tịch Hạ Nghị Viện Nguyễn Bá Cẩn’’. Nguyễn Bá Cẩn: Đất N­ước Tôi, tác giả xuất bản, San Jose 2003, trang 365-366.

Như vậy thì theo nhận xét của Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Bác Sĩ Trần Văn Đỗ được xem là một trong những nhân vật có đủ khả năng để thay thế ông để đảm nhận chức vụ Thủ Tướng và trong số 4 người được ông đề nghị, tên của Bác Sĩ Trần Văn Đỗ được đứng vào hàng đầu, tuy nhiên Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã chọn người đứng hàng thứ tư trong danh sách này là ông Nguyễn Bá Cẩn làm Thủ Tướng.

Người viết có một thời gian được phục vụ dưới quyền Bác Sĩ Trần Văn Đỗ cho nên người viết biết được rằng giữa Đại Tướng Trần Thiện Khiêm và Bác Sĩ Trần Văn Đỗ thì chỉ có một vài liên hệ thân hữu, có quen biết nhau chứ hai người không hề có liên hệ họ hàng hay là bạn bè thân thiết gì cho lắm khiến cho ông Khiêm đã vì cảm tình cá nhân mà để tên Bác Sĩ Trần Văn Đỗ đứng hàng đầu trong bản đề nghị gửi lên Tổng Thống Thiệu.

Bác Sĩ Trần Văn Đỗ là em ruột của Luật Sư Trần Văn Chương, người đảm nhiệm chức vụ Bộ Trưởng Ngoại Giao trong chính phủ của Cụ Trần Trọng Kim vào năm 1945 và dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa làm Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Washington từ năm 1955 cho đến năm 1963 thì từ chức đề phản đối Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ông Trần Văn Chương cũng là thân phụ của bà Trần Lệ Xuân tức là bà Ngô Đình Nhu.

Năm 1954, khi Bác Sĩ Trần Văn Đỗ đang giữ chức vụ Đại Tá, Giám Đốc Nha Quân Y của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thì ông Ngô Đình Diệm được Quốc Trưởng Bảo Đại chỉ định thành lập một Tân chính phủ thay thế cho Hoàng Thân Bửu Lộc. Dù rằng đến ngày 7 tháng 7 năm 1954 chính phủ Ngô Đình Diệm mới ra mắt tại Sài Gòn, nhưng ngay từ trước khi rời nước Pháp về Việt Nam vào cuối tháng 6 năm 1954, ông Ngô Đình Diệm đã mời Bác Sĩ Trần Văn Đỗ đảm nhận chức vụ Tổng Truởng Ngoại Giao và Tân Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ đã được chỉ thị của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm bay sang Thụy Sĩ để thay thế cho Ngoại Trưởng Nguyễn Quốc Định cầm đầu Phái Đoàn của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam tham dự Hội Nghị về Đông Dương đang diễn ra tại Genève.

Bác Sĩ Trần Văn Đỗ là người đại diện cho Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam đã không ký vào Bản Hiệp Định Genève về Đông Dương ngày 20 tháng 7 năm 1954 chia đôi đất nước tại Vỹ tuyến 17.

Năm 1955, Bác Sĩ Trần Văn Đỗ từ chức Bộ Trưởng Ngoại Giao cho đến năm 1965 mới trở lại giữ chức Ngoại Trưởng trong chính phủ của Bác Sĩ Phan Huy Quát và sau đó tiếp tục giữ chức vụ này trong Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương tức là chính phủ của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Từ năm 1968 cho đến năm 1965, Bác Sĩ Trần Văn Đỗ không hề giữ một chức vụ nào trong các chính phủ dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa sau này.

Vào thời điểm năm 1975, Bác Sĩ Trần Văn Đỗ được nhiều người nói đến không phải vì ông dã từng giữ chức vụ Ngoại Trưởng dưới nhiều chính phủ trước đó, nhưng người ta chú ý đến ông vì một lý do khác mà ngay cả người Việt Nam ở Miền Nam cũng có ít người được biết: Bác Sĩ Trần Văn Đỗ là nhân vật Miền Nam duy nhất đã được cộng sản Bắc Việt mời đến gặp gỡ (được mời chứ không có xin hay yêu cầu như những người khác) không những chỉ một lần mà đến hai lần: Lần đầu tiên tại Genève vào tháng 7 năm 1954 và lần thứ hai tại Paris vào khoảng năm 1969 hay 1970.

Bác Sĩ Trần Văn Đỗ có kể lại cho nhiều người, trong số đó có cả người viết, về chuyện ông được cộng sản mời đến gặp Phạm văn Đồng, Trưởng Phái Đoàn của Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Hội Nghị Genève khi ông vừa mới đến Thụy Sĩ hồi cuối tháng 6 năm 1954.

Bác Sĩ Trần Văn Đỗ cho biết lúc đó ông chỉ là một Bác Sĩ Y Khoa, không có một kinh nghiệm gì về Ngành Ngoại Giao, tuy nhiên, qua sự giới thiệu của ông Ngô Đình Nhu là cháu vợ của ông, khi ông được ông Ngô Đình Diệm khẩn khoản mời làm Tổng Trưởng Ngoại Giao để thay thế cho Giáo Sư Nguyễn Quốc Định mà những người ủng hộ ông Diệm cho rằng ‘’quá thân Pháp’’  thì ông cũng phải nhận lời vì thì giờ quá cấp bách, lúc đó đã vào cuối tháng 6 mà Thủ Tướng Pháp Mendes France thì đã long trọng hứa hẹn sẽ giải quyết vấn đề Đông Dương trước ngày 20 tháng 7.

Bác Sĩ Trần Văn Đỗ nói trong khi ông đến Genève vào cuối tháng 6 thì Phái Đoàn của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam không được người Pháp cho biết một điều gì về việc họ đang thương lượng với Việt Minh, tuy nhiên ông có nghe một vài dư luận hành lang cho biết một cách mơ hồ về những giải pháp có thể tiến đến một cuộc hưu chiến tại Đông Dương và một trong những giải pháp đó là chia cắt nước Việt Nam thành hai phần, không rõ chia cắt ở điểm nào, địa phương nào. Khi ông đến Genève thì các phái đoàn tham dự Hội Nghị đang tạm ‘’ngưng họp’’ (recess) và trong thời gian này, Trưởng Phái Đoàn Pháp là Thủ Tướng kiêm Ngoại Trưởng Mendes France đang về Paris tham khảo với chính giới Pháp, do đó ông có thêm thì giờ để thăm dò và tìm hiểu tình hình các phái đoàn tham dự hột nghị: Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Liên Bang Xô Viết, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Cao Miên, Lào và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tức là Việt Minh do Thủ Tướng Phạm văn Đồng lãnh đạo. Vào đầu tháng 7, vài người bạn của Bác Sĩ Đỗ đang sống tại Paris báo cho ông Đỗ biết rằng Luật Sư Phan Anh có nhờ họ nhắn với ông rằng ông ta muốn gặp. Bác Sĩ Đỗ nói rằng Luật Sư Phan Anh là bạn của Luật Sư Trần Văn Chương, anh ruột của ông và cũng là bạn của ông thời còn ở Hà Nội trước năm 1945, ông ta từng làm Bộ Trưởng Thanh Niên trong Chính Phủ Trần Trọng Kim và vào thời gian 1954 thì ông đang làm Bộ Trưởng Kinh Tế của Việt Minh và cũng đang là một thành viên trong phái đoàn của Phạm văn Đồng. Ông Đỗ trả lời rằng ‘’anh em bạn cũ muốn gặp nhau thì gặp chứ có chuyện gì mà phải ngại!’’. Sau đó ông đã sang nơi trú ngụ của phái đoàn Việt Minh để gặp Luật Sư Phan Anh và tại đó ông đã gặp cả Phạm văn Đồng.

Bác Sĩ Đỗ nói rằng sau phần chào hỏi, Phạm văn Đồng hỏi ngay về vấn đề chia cắt đất nước và khi ông hỏi lại là chia cắt từ đâu thì Phạm văn Đồng nói rằng ‘’ở vỹ tuyến thứ 13’’. Bác Sĩ Đỗ nói rằng đây là lần đầu tiên ông nghe nói một cách chính thức về vấn đề chia cắt và cũng là lần đầu tiên ông nghe nói đến ‘’vỹ tuyến thứ 13’’. Phạm văn Đồng cũng hỏi ý kiến ông về vấn đề ‘’tổng tuyển cử’’  và khi Bác Sĩ Đỗ hỏi chừng nào thì Phạm văn Đồng trả lời rằng có lẽ trong vòng 6 tháng. Khi Phạm văn Đồng hỏi ý kiến của ông về cả hai vấn đề này thì ông chỉ trả lời một cách ỡm ờ là ‘’không có ý kiến gì’’  vì quả thật thì Bác Sĩ Đỗ cũng như phái đoàn Việt Nam chẳng hay biết gì về những quyết định trọng đại này.

Bác Sĩ Trần Văn Đỗ nói rằng nhờ ông tự ý đi sang thăm phái đoàn của Việt Minh nên tình cờ mới biết được rằng Việt Minh và các cường quốc đã đồng ý về giải pháp chia cắt chứ không phải là ‘’da beo’’ tức là ngư­ng bắn tại chỗ và về sau thì ông được biết rằng giải pháp này đã được họ thỏa thuận với nhau từ cuối tháng 4 năm 1954 tức là ngay cả trước khi trận Điện Biên Phủ kết thúc vào ngày 7 tháng 5 năm 1954. Ngoài ra họ cũng còn đề cập đến vấn đề tổng tuyển cử, những vấn đề sính tử đối với người Việt Nam mà phái đoàn của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam không hề được biết mảy may gì cả. Chuyện nực cười là chính ông, người cầm đầu phái đoàn này lại chỉ được biết về hai vấn đề tối quan trọng này qua sự tiết lộ của ông Phạm văn Đồng Trưởng Phái Đoàn của Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tức là phe đối thủ của phe Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam mà sau này người ta vẫn gọi là ‘’phe quốc gia’’. Ông Trần Văn Đỗ kể lại chuyện này với một nụ cười chua xót và ông nói rằng ‘’người ta định đoạt số phận của nhân dân mình mà chính mình cũng không hay biết gì hết’’.

Bác Sĩ Đỗ cho biết rằng cuộc gặp gỡ này diễn ra trong một bầu không khí rất thân hữu, khi ông Phan Anh giới thiệu ông Phạm văn Đồng thì ông ta nói rằng: ‘’Xin giới thiệu với anh đây là ‘’Anh Tô’’. Tên thật của Phạm văn Đồng là ‘’Tô’’, do đó chỉ trong vòng đồng chí, bạn bè thân hữu thì người ta mới gọi là ‘’anh Tô’’. Ông cho biết rằng sau một hồi chuyện vãn xã giao thì ông ra về và ngày hôm sau chính ông Phạm văn Đồng lại dẫn một nhóm sang thăm đáp lễ phái đoàn của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam. Bác Sĩ Trần Văn Đỗ cũng cho biết thêm rằng cho đến ngày Hội Nghị Genève về Đông Dương kết thúc vào ngày 21 tháng 7 năm 1954 thì giữa hai phái đoàn Việt Minh do Phạm văn Đồng lãnh đạo và Phái Đoàn của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam do ông lãnh đạo không hề có chuyện cãi vã, không hề có thái độ hận thù gì cả.

Ông nói rằng ngày hôm sau khi ông gặp ông Phạm văn Đồng, báo chí tại Thụy Sĩ đã đăng tải tin này dưới cái tít ‘’Cuộc Gặp Gỡ Giữa Hai Huynh Đệ Thù Nghịch’’ (La rencontre desfrères ennemis) và đó cũng là một điều may mắn cho Phái Đoàn Quốc Gia Việt Nam vì sau đó thì các phái đoàn như Pháp và Hoa Kỳ đã đến tiếp xúc với ông và trao cho ông những tài liệu chính thức: Đó là một cái ‘’note verbale’’ tức là một sự thỏa thuận bằng miệng giữa Pháp, Anh và Mỹ từ ngày 27 tháng 4 năm 1954 chấp nhận giải pháp chia cắt nước Việt Nam và nếu chia cắt tại vỹ tuyến thứ 18 thì có thể chấp nhận được.

Bác Sĩ Trần Văn Đỗ cũng cho biết rằng ngoài việc gặp gỡ ông Phạm văn Đồng, trong thời gian Hội Nghị Genève, ông cũng còn được gặp Thủ Tướng Trung Cộng Chu ân Lai và chính ông Chu ân Lai có ngỏ lời mời ông và ông Ngô Đình Luyện sang thăm viếng Bắc Kinh. Chuyện này ông có tường trình lên Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ngay sau khi ông về đến Sài Gòn, tuy nhiên sau đó ông không nghe Thủ Tướng Diệm nhắc nhở gì đến chuyện này vì chỉ ít lâu sau thì ông từ chức.

Chuyện Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ gặp Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm văn Đồng hồi Hội Nghị Genève năm 1954 rất ít người được biết vì dưới thời Ngô Đình Diệm, chính quyền không cho phép phổ biến những tin tức có liên quan đến cộng sản như vấn đề này. Nhưng sau năm 1975, chính Bác Sĩ Trần Văn Đỗ đã kể lại chuyện này qua một lá thư gửi cho cựu Thiếu Tướng Đỗ Mậu và ông này đã cho đăng vào Phụ Bản của cuốn sách Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi. Người viết xin trích lại một đoạn như sau:

Paris ngày 30 tháng 8 năm 1983

Nhắc lại Hội nghị Genève thì không mấy ai biết bề trong thế nào. Ai cũng tưởng tượng trong bàn hội nghị bàn cãi kẻ nói qua người nói lại như đi chợ trả giá. Nhưng sự thật chẳng có bàn cải gì trong phòng hội nghị cả.

Tôi sang Genève hỏi nhân viên phái đoàn thì họ nói lúc này nghỉ Hè, các Trưởng Phái Đoàn đều vắng mặt, trừ các Phái Đoàn Việt Nam, Lào và Cao Mên. Không có tin tức gì các Phái Đoàn nói chuyện với nhau, không ai đá động gì đến ta cả. Trong lúc đó có tin hành lang nói đến việc chia xẻ đất nước. Tin đồn không biết thiệt hư, ở đâu ra. Phía Pháp trước khi tôi qua Genève, ông Tổng Trưởng Guy la Chambre (Ministre des états Associés-Tổng Trưởng Các Quốc Liên Kết tức là Đông Dương), hứa có tin gì thì sẽ cho mình biết nhưng không bao giờ cho mình biết gì cả.

Bởi vậy nên tối 3 hay 4 tháng 7 gì đó, hai ông Nguyễn ngọc Bích và Nguyễn mạnh Hà đến trụ sở hỏi tôi có bằng lòng gặp Phạm văn Đồng không. Tôi nói tôi không có complex (mặc cảm) gì cả, gặp ai cũng được, ở đâu cũng được lúc nào cũng được. Hôm sau tôi đi với ông Nguyễn Hữu Châu qua trụ sở Việt Minh gặp Phạm văn Đồng, có mặt Hoàng văn Hoan, Trần công Tường. Chào hỏi xong, ông Đồng nói đến vấn đề chia xẻ đất. Tôi hỏi chia chỗ nào ông Đồng trả lời: Lối vỹ tuyến thứ 13, rồi đem bản đồ ra chỉ về đường đi từ Pleiku xuống An Khê. Hỏi thì tôi trả lời không có ý kiến. Đồng nói. ‘’nhưng chia chỉ tạm thời vì tính sẽ có tổng tuyển cử để thống nhất, trong vòng 6 tháng’’. Tôi trả lời chưa có ý kiến gì vì mới tới.

Ngày hôm sau, Phạm văn Đồng sang đáp lễ nhưng không có nói gì khác. Nhờ vậy tôi mới biết việc họ bàn tính với nhau, định đoạt số phận mình mà không cho mình biết.

Vài giờ sau khi tôi nói chuyện với bên Việt Minh thì báo chí tung ra ‘’a rencontre des frères ennemis’’ vì đây là lần đầu tiên mà hai bên gặp nói cbuyện riêng với nhau.

Tôi về đến nhà thì Phái Đoàn Pháp kế đến Phái Đoàn Mỹ xin lại gặp tôi. Người Pháp hỏi tôi nói chuyện với Phạm văn Đồng có chi lạ cho họ biết với. Tôi nói tôi đi thăm ông Đồng cũng như đi thăm các ông thăm xã giao’’. Đỗ Mậu: Việt Nam Máu Lửa Quê H­ương Tôi, trang 1441-1442.

Hai nhân vật mà Bác Sĩ Trần Văn Đỗ đề cập đến là Nguyễn ngọc Bích và Nguyễn mạnh Hà là hai nhà trí thức Việt Nam rất nổi tiếng trong giới người Việt Nam đang sống tại Pháp. Nguyễn mạnh Hà là một nhà trí thức nổi tiếng thân Việt Minh ngay từ thời năm 1945, tuy nhiên Bác Sĩ Nguyễn ngọc Bích thì không phải là một người thân cộng sản.

Bác Sĩ Nguyễn ngọc Bích là một nhân vật mà đa số người Việt Nam ở miền Bắc và miền Trung ít biết đến, tuy nhiên người Việt Nam ở Nam Bộ tức là Nam Kỳ thì không có ai mà lại không biết đến ông, nhưng mà dưới một cái tên khác: Bác Vật Nguyễn ngọc Bích. Ông Nguyễn ngọc Bích là con của ông Nguyễn ngọc Tương, Giáo Tông của Đạo Cao Đài tại Bến Tre. Vào thập niên 1930, ông thi đậu vào Trường Politechnique tại Pháp. Trước ông cũng có hai ngư­ời đã thi đậu vào trường nổi tiếng này là Trung Tướng Nguyễn Văn Xuân về sau làm Thủ Tướng Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam đầu tiên vào năm 1948 và Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn, Bộ Trưởng Giáo Dục trong Chính Phủ Trần Trọng Kim vào năm 1945. Sau khi tốt nghiệp Trường Politechnique, ông lại theo học Ngành Kỹ Sư tại École des Ponts et Chaussées tức là Trường Kỹ Sư Kiều Lộ, một trong những Trường Lớn (Grándes Écoles) của nước Pháp. Sau khi tốt nghiệp Kỹ Dư kiều lộ, ông trở về Việt Nam phục vụ trong Ngành Công Chánh, người Việt Nam gọi là Trường Tiền. Hồi đó, tại Việt Nam chưa có trường nào đào tạo Ngành Kỹ Sư cho nên danh từ này chưa được thông dụng và riêng tại Nam Kỳ thì đa số dân chúng gọi những người tốt nghiệp bằng Kỹ Sư ở Pháp bằng ‘’Bác Vật’’, do đó mà ông được mọi người gọi là ông ‘’Bác Vật Nguyễn ngọc Bích”

Tháng 8 năm 1945, sau khi người Nhật đầu hàng, ng­ười Pháp trở lại Nam Việt nhằm tái lập chế độ thuộc địa tại Nam Kỳ như­ng nhân dân đã nổi lên chống lại người Pháp và cuộc kháng chiến tại Nam Bộ bùng nổ vào tháng 9 năm 1945. Bác Vật Nguyễn ngọc Bích cũng hăng say tham gia kháng chiến và ông được cử làm chỉ huy một đơn vị kháng chiến tại vùng Tiền Giang. Nhằm ngăn chận không cho quân Pháp tiến về chiếm Tỉnh Mỹ Tho và các Tỉnh miền Tây, Bác Vật Nguyễn ngọc Bích đã chỉ huy những toán kháng chiến phá sập các cây cầu quan trọng trên Quốc Lộ 4 từ Sài Gòn về miền Tây như cầu Bến Lức, cầu Tân An thuộc Tỉnh Tân An, cầu Long Định thuộc Tỉnh Mỹ Tho và cầu Cái Răng thuộc Tỉnh Cần Thơ v.v...Kỹ Sư Nguyễn ngọc Bích được đồng bào Nam Bộ xem như là một vị ‘’anh hùng kháng chiến chống Pháp và tên tuổi, uy tín của ông nổi bật hơn cả những cán bộ cao cấp Việt Minh tại Nam Bộ. Chính trong thời gian này, ông được Việt Minh cử giữ chức Khu Bộ Phó Khu 9 tức là Vùng Hậu Giang. Cựu Thủ Tướng cộng sản Võ văn Kiệt vào thời gian đó chỉ là một cán bộ cấp Quận đã nói về Kỹ Sư Nguyễn ngọc Bích như sau:

‘’Nguyễn ngọc Bích tham gia kháng chiến, bị địch bắt và trục xuất khỏi Việt Nam khi là Khu Bộ Phó Khu 9. Thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến tôi có dịp gặp Nguyễn ngọc Bích trong chiến khu. Khi đó ông Ngọc Bích là Khu Bộ Phó Khu 9, một ‘’dân Tây’’ đẹp trai và đặc biệt nhiệt tình’’. Trầm Hương: Đêm Trắng của Đức Giáo Tông, nhà xuất bản Công  An Nhân dân, Sài Gòn 2002, trang...

Người Pháp điều tra và họ biết được người chỉ huy việc phá cầu này phải là một người có hiểu biết thật nhiều về cầu cống và họ biết ngay người đó không ai khác hơn là Bác Vật Nguyễn ngọc Bích, cựu sinh viên Trường Ponts et Chausées tại Pháp. Người Pháp đã huy động mấy Tiểu Đoàn đi truy lùng Kỹ Sư Nguyễn ngọc Bích và sau cùng thì nhờ có sự điềm chỉ, họ đã bắt sống được ông vào năm 1946.

Theo ông Chester Cooper, một chuyên gia đã từng phục vụ cho Trung Ương Tình Báo CIA của Hoa Kỳ thì ‘’Vì ông Nguyễn ngọc Bích càng ngày càng có uy tín trong quần chúng Nam Bộ mà lại không theo cộng sản cho nên bọ tìm cách loại ông và báo cho gián điệp của Pháp biết hành tung của ông. Không rõ Việt Minh có thực sự phản bội mà điềm chỉ cho tình báo của người Pbáp nơi trú ẩn để bắt ông bay không, điều đó không có gì rõ rệt, tuy nhiên ông Nguyễn ngọc Bích thì luôn luôn nghi ngờ rằng đó chính là nguyên nhân khiến cho ông bị Pháp bắt’’. Chester cooper: The Lost Crusade: America in Vietnam, Dodd, Mead & Company. New York. 1970, trang 123.

Trên nguyên tắc, tất cả mọi sinh viên tốt nghiệp Trường Politechnique đều đương nhiên trở thành sĩ quan trong quân đội Pháp và dĩ nhiên ông Nguyễn ngọc Bích cũng là một sĩ quan của Pháp, vậy mà ông lại có những hoạt động chống lại quân đội Pháp, do đó người Pháp đưa ông ra Tòa Án Quân Sự. Ông bị khép vào tội ‘’phản nghịch’’ và bị kết án tử hình tại Sài Gòn. Tuy nhiên nhờ sự can thiệp tích cực của giới cựu sinh viên các Trường Grandes Écoles tại Pháp và sự vận động tích cực của vợ ông là Bác Sĩ Heriette Bùi Quang Chiêu mà người Pháp tại Đông Dương phải trả tự do cho ông với điều kiện là ông phải rời khỏi Việt Nam sang sống ở Pháp. Sau khi sang Pháp, ông Nguyễn ngọc Bích không hành nghề Kỹ Sư kiều lộ mà trở lại đi học Ngành Y Khoa và sau khi tốt nghiệp Bác Sĩ, ông chuyên nghiên cứu về ngành ung thư.

Vào năm 1961, ông trở về Việt Nam và cùng với Giáo Sư Nguyễn Văn Thoại ghi danh ứng cử Tổng Thống, tuy nhiên liên danh này bị bất hợp lệ vì Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã cho ghi thêm một điều khoản vào luật bầu cử quy định rằng tất cả mọi ứng cử viên Tổng Thống và Phó Tổng Thống phải cư ngụ tại Việt Nam ít nhất là hai năm, một điều kiện mà nếu được áp dụng vào tháng 10 năm 1955 thì chính ông Ngô Đình Diệm cũng không hợp lệ vì ông mới trở về Việt Nam vào cuối tháng 6 năm 1954.

Trong thời gian sống ở Pháp, Bác Sĩ Nguyễn ngọc Bích thường hay tham dự những cuộc hội họp trong giới trí thức nhằm đòi người Pháp phải trao trả độc lập cho Việt Nam, tuy nhiên Bác Sĩ Nguyễn ngọc Bích không hề theo cộng sản. Ông Nguyễn ngọc Châu, con trai của Bác Sĩ Nguyễn ngọc Bích, thời trước 1975 là một trong những vị Giám Đốc của Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín tại Sài Gòn và hiện đang sống tại Paris, có cho người viết biết rằng ông Gaston Phạm ngọc Thuần, anh của Đại Tá Phạm ngọc Thảo, đã từng làm Đại Sứ của việt cộng tại Đông Đức nhưng sau năm 1975 thì đã ‘’vượt biên’’ sang tỵ nạn tại Pháp, ông ta là bạn của Kỹ Sư Nguyễn ngọc Bích trước năm 1945 và đã nói cho ông Châu biết rằng trong thời kỳ tham gia kháng chiến, dù có được Việt Minh mời mọc, thuyết phục nhiều lần nhưng Kỹ Sư Nguyễn ngọc Bích cương quyết từ chối không chịu gia nhập vào đảng cộng sản, ông chỉ theo kháng chiến để chống lại thực dân Pháp mà thôi.

Trong thời gian sống tại Pháp, Bác Sĩ Nguyễn ngọc Bích chuyên nghiên cứu về bệnh ung thư và cũng có viết một số bài có giá trị đăng trên báo chí. Sau khi bị bác đơn không được tham dự cuộc bầu cử Tổng Thống vào năm 1961, Bác Sĩ  Nguyễn ngọc Bích có viết một bài nhan đề ‘’Vietnam-An Independent Viewpoinf’’ (Việt Nam-Một Quan Điểm Độc Lập) đăng trên The China Quarterly) số tháng 1-3 năm 1962. The chia Quarterly là một tam cá nguyệt san vô cùng giá trị chuyên nghiên cứu về các vấn đề Á Châu và trong số báo này, ngoài Bác Sĩ Nguyễn ngọc Bích còn có bài của những học giả nổi tiếng khác như là Philippe Devillers, P. J. Honey, Bernard Fall, Gerard Tongas, William Kaye, ông Hoàng Văn Chí và nhà báo như Phong Lê Văn Tiến.

Trong phần giới thiệu về tác giả, tạp chí China Quarterly viết rằng:

‘’Bác Sĩ Nguyễn ngọc Bích là một trong những người Việt Nam đầu tiên được tốt nghiệp Trường Politechnique ở Paris, sau đó ông trở về phục vụ tại Nam Kỳ, thuộc địa của Pháp. Sul Đệ Nhị Thế Chiến, ông trở thành một chỉ huy cao cấp trong phong trào kháng chiến tại Nam Bộ nhưng mà ông đã bị các đồng đội cộng sản phản bội điềm chỉ cho người Pháp bắt vì ông nhất quyết chủ trương công cuộc kháng chiến là để chống lại người Pháp để dành độc lập cho Việt Nam chứ không phải cho đảng cộng sản. Thoát được bản án tử bình nhờ một thỏa hiệp ân xá giữa hai phe, sau đó ông sang sinh sống tại Pháp cho đến bây giờ. Ông hiện là Giám Đốc một nhà xuất bản tại Paris và là một Y Khoa Bác Sĩ, tuy nhiên ông vẫn còn rất chăm chú theo dõi rất sát mọi diễn biến chính trị tại Việt Nam. Ý kiến của ông về các vấn đề Miền Nam Việt Nam rất được nhiều người tôn trọng và ông cũng được họ xem như là một người có thể kế vị ông Ngô Đình Diệm. Bác Sĩ Nguyễn ngọc Bích có nộp đơn tham dự vào cuộc bầu cử Tổng Thống năm 1961 nhưng vào giờ chót thì liên danh này lại bị chính quyền Sài Gòn tuyên bố là bất hợp lệ vì lý do ‘’kỹ thuật’’. The China Quarterly, January-march 1962, trang 221.

Người viết có được đọc bài này và nhận thấy rằng tuy được viết vào năm 1962 nhưng Bác Sĩ Nguyễn ngọc Bích có nhiều ý kiến vô cùng độc đáo, không những của một nhà trí thức mà còn là một nhà chính trị, một nhà kinh tế và một nhà xã hội có cái nhìn rất xa và rất rộng. Trong bài này, ông chỉ trích những sai lầm về chính trị của cả hai chế độ Hà Nội cũng như Sài Gòn và đã đưa ra những nhận định rất xây dựng về các vấn đề kinh tế cũng như là xã hội tại cả hai miền. Nếu còn sống, có lẽ ông cũng có thể đóng góp được một phần nào đó trong lãnh vực chính trị tại Miền Nam vào thời gian giữa thập niên 1960 sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị giết. Tiếc thay khi cảm thấy đã đến giai đoạn cuối cùng của bệnh ung thư, ông trở về sống những ngày cuối cùng tại quê hương và từ trần vào ngày 4 tháng 12 năm 1966 tại Bến Tre.

Luật Sư Đinh Thạch Bích có được may mắn hầu chuyện với Bác Sĩ Nguyễn ngọc Bích mấy lần trước ngày ông tạ thế có nói với ng­ười viết rằng Bác Sĩ Nguyễn ngọc Bích quả thực đúng là một ngư­ời ‘’quốc gia chân chính’’.

Các ông Nguyễn mạnh Hà, Bác Sĩ Nguyễn ngọc Bích và Luật Sư­ Phan Anh đều là bạn của Bác Sĩ Trần Văn Đỗ do đó mà khi ông Đỗ làm Tổng Trưởng Ngoại Giao, họ đã móc nối cho ông Đỗ gặp gỡ Phạm văn Đồng để hai bên nói chuyện với nhau ngõ hầu có thể tìm được một giải pháp nào tốt đẹp hơn cho Việt Nam tuy nhiên vào năm l954 thì số phận của Việt Nam lại do các cường quốc quyết định như lời của Bác Sĩ Đỗ: ‘’người ta định đoạt số phận của nhân dân mình mà chính mình cũng không bay biết gì hết!’’.

Nhà báo Pháp nổi tiếng Jean Iacouture cũng có nhận xét về Bác Sĩ Trần Văn Đỗ như sau: ‘’Tân Tổng Trưởng Ngoại Giao của Việt Nam, Bác Sĩ Trần Văn Đỗ đã sang Genève đại diện cho chính phủ của ông tại hội nghị với một thái độ hòa hoãn, đầy tư cách và tinh thần thực tiễn rất đáng quý’’.

Lacouture cũng có kể lại cuộc gặp gỡ giữa Ngoại Trưởng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm văn Đồng và Ngoại Tr­ưởng Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Trần Văn Đỗ như sau:

Ngày hôm sau, 13 tháng 7, là một ngày vô cùng quan trọng. Mendes-France gặp Chu ân Lai và Phạm văn Đồng, cả Trần Văn Đỗ cũng gặp Phạm văn Đồng. Sau khi Mandes France rời Genève về Paris, Phạm văn Đồng tiếp Trần Văn Đỗ, Ngoại Trưởng của phe Quốc Gia, một cơ bội mà ai cũng ngạc nhiên và vô cùng khích lệ.

Phan Anh, Bộ Trưởng Kỹ Nghệ và Thương Mại  là một nhân viên trong phái đoàn Việt Minh, vốn là bạn thân của anh Bác Sĩ Trần Văn Đỗ. Ngay sau khi ông Đỗ đến Genève, Phan Anh đã nhắn với ông ta rằng cả hai vị Ngoại Trưởng nên gặp gỡ nhau. Bác Sĩ Trần Văn Đỗ trả lời: ‘’những người anh em cùng huyết thống thì làm sao mà có thể từ chối không gặp gỡ nhau ?’’

Và sau đó thì Phạm văn Đồng và Trần Văn Đỗ đã chính thức gặp gỡ đối diện nhau, cả hai người đều gầy ốm khẳng khiu như nhau, đều có gương mặt khắc khổ nghiêm trang như nhau và cũng đều có những mối ưu tư khắc khoải về một tổ quốc chung đang bị cảnh tan nát vì chiến tranh. Đây là cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa hai phe, và cuộc tiếp xúc này chứ không phải là cuộc thảo luận chính tri giữa đôi bên đã được mọi người xem như là một việc rất đáng khích lệ.

Tuy nhiên hai vị Tổng Trưởng có thảo luận với nhau về một vấn đề có liên hệ đến cả hai người nhiều nhất: Cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Lần đầu tiên ông Phạm văn Đồng đề nghị một cách cụ thể là cuộc tuyển cử sẽ được tổ chức trong vòng 6 tháng, một thời hạn mà trước đó ông ta cũng có mập mờ nói đến. Ông Trần Văn Đỗ tỏ ra thận trọng, không có phản đối những mà điều hiển nhiên đối với ông và cả hai Đồng Minh Pháp và Hoa Kỳ đều hiểu rằng nếu tổng tuyển cử trong thời gian chỉ có 6 tháng sau ngày Việt Minh chiến thắng thì khó mà có thể thắng được họ tại phòng bỏ phiếu’’. Philippe Devillers & Jean Lacouture End of a War. Indochina 1954, Frederick A. Praeger. New York 1969, trang 281-282.

Bác Sĩ Trần Văn Đỗ cũng cho biết thêm rằng ngoài việc gặp gỡ ông Phạm văn Đồng, trong thời gian Hội Nghị Genève, ông cũng còn được gặp Thủ Tướng Trung Cộng Chu ân Lai và chính ông Chu ân Lai có ngỏ lời mời ông và ông Ngô Đình Luyện sang thăm viếng Bắc Kinh. Chuyện này ông có tường trình lên Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ngay sau khi ông về đến Sài Gòn, tuy nhiên sau đó ông không nghe Thủ Tướng Diệm nhắc nhở gì đến chuyện này vì chỉ ít lâu sau thì ông từ chức.

Theo Bác Sĩ Trần Văn Đỗ thì đây là lần đầu tiên Thủ Tướng Trung Cộng Chu ân Lai đã ngõ lời mời đại diện của Miền Nam Việt Nam sang viếng thăm Bắc Kinh, tuy nhiên mấy năm sau đó thì Chu ân Lai lại còn ngõ lời mời và đề nghị thiết lập liên lạc ngoại giao trên cấp Tổng Lãnh Sự với Việt Nam Cộng Hòa và lần thứ nhì thì đề nghị này đã được chuyển đến ông Ngô Đình Luyện, Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại London. Cựu Đại Sứ Ngô Đình Luyện cũng có tiết lộ chuyện này với một số ng­ười thân tín của ông và mới đây, một trong những người đó là cựu Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ có ghi lại như­ sau:

Ông Ngô Đình Luyện kể cho tôi nghe một bí mật hết sức quan trọng mà tôi chưa nghe bao giờ.

Ngày Thủ Tướng Chu ân Lai viếng Anh Quốc (tôi quên bẵng nhớ năm nào), phái đoàn của Chu ân Lai đông lắm, có đến hơn 100 người và được chính phủ Anh đón tiếp rất long trọng. Ông Luyện được một tham vụ ngoại giao của Tòa Đại Sứ Trung Quốc đem biếu hai vò rượu ‘’Mao Thái’’, kèm tấm thiệp của Thủ Tướng Chu ân Lai mời dự tiếp tân ở Tòa Đại Sứ Trung Quốc với sự hiện diện của Nữ Hoàng Anh.

Khi ông được Đại Sứ Trung Quốc giới thiệu với Thủ Tướng Chu ân Lai, Thủ Tướng rất niềm nở, nói đã biết ông là em của Tổng Thống Việt Nam, là người ông rất kính trọng và ngưỡng mộ. Ông xin ông Luyện chuyển lời thăm của Mao Chủ Tịch đến Ngô Tổng Thống. Ông Chu ân Lai nói ông không có cơ hội để nói nhiều với Đại Sứ Luyện nhưng đã chỉ thị cho Đại Sứ Trung Quốc đến gặp Đại Sứ Luyện trình bày chi tiết sau.

Sau đó, ông Đại Sứ Trung Quốc đến thăm ông Luyện ở Tòa Đại Sứ Việt Nam. Đại Sứ Trung Cộng nói với ông Luyện rằng Chủ Tịch Mao trạch Đông rất cảm phục lòng yêu nước và những gì Ngô Tổng Thống đã làm cho Miền Nam Việt Nam được phồn thịnh như ngày nay. Ý của Chủ Tịch Mao là muốn có liên lạc ngoại giao với Miền Nam Việt Nam.

Theo ý Mao trạch Đông, trước tiên hai bên sẽ đặt liên lạc trên cấp Tổng Lãnh Sự, sau đó sẽ nâng lên cấp Đại Sứ nếu tình thế cho phép.Theo Mao trạch Đông thì hai bên sẽ có liên lạc chặt chẽ về văn hóa và bình thường hóa việc buôn bán giữa hai quốc gia. Trung Quốc cũng sẽ giàn xếp để hai Miền Nam Bắc Việt Nam có đại diện giữa hai miền, sau dó sẽ đi đến việc liên lạc, tiếp tế và buôn bán giũa hai miền.

Ông Luyện trả lời là sẽ trình Tổng Thống Ngô Đình Diệm và sẽ trả lời ông Đại Sứ Trung Cộng sau.

Ông Luyện đích thân về Sài Gòn trình Tổng Thống Diệm việc này. Sau đó gần hai tháng, ông được Tổng Thống triệu về và cho biết là sau khi đã nhờ ông Đại Sứ Trung Hoa Quốc Gia về tham khảo ý kiến Tổng Thống Tưởng Giới Thạch, Tổng Thống cũng tham khảo ý kiến với Đại Sứ Hoa Kỳ thì đi đến kết luận là việc này chưa thể đồng ý trong giai đoạn này được’’. Nguyễn Hữu Duệ: Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tác giả xuất bản. San Diego 2003, trang 33-34.

Sự tiết lộ này cho thấy rằng hồi năm 1954 khi ông Chu ân Lai ngỏ lời mời Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ sang thăm Bắc Kinh là theo ý kiến của Mao trạch Đông và đến mấy năm sau thì nhà lãnh đạo Trung Hoa cộng sản này cũng vẫn còn có ý đó, lần này còn đi xa hơn nữa, ông ta đã đề nghị việc thiết lập liên lạc ngoại giao, văn hóa và thương mại với Miền Nam Việt Nam mà chắc chắn rằng đó không phải là điều mà các nhà lãnh đạo cộng sản Hà Nội mong muốn. Ông Nguyễn Hữu Duệ nói rằng ông không nhớ rõ năm nào nhưng việc đó xảy ra khi ông Ngô Đình Diệm còn làm Tổng Thống tức là phải trước năm 1963. Thật là một điều đáng tiếc cho Miền Nam Việt Nam vì nếu hồi đó mà Miền Nam thiết lập mối bang giao, dù chỉ là thương mại, với Trung Hoa cộng sản thì đó là một điều vô cùng có lợi về phương diện ngoại giao vì trong trường hợp đó thì Trung Cộng sẽ ít thân thiện hơn với Hà Nội và cũng sẽ ít đối nghịch hơn đối với Miền Nam. Thật là đáng tiếc khi chính quyền Ngô Đình Diệm đã bỏ lỡ cơ hội đến hai lần.

Tuy nhiên đến 10 năm sau thì chuyện liên lạc với Trung Hoa cộng sản lại được nhắc nhở đến và lần này thì phía muốn xích lại gần Trung Hoa cộng sản lại chính là Việt Nam Cộng Hòa. Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng cho biết rằng trong một cuộc phỏng vấn cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tại London vào ngày 8 tháng 8 năm 1978, ông Thiệu đã tiết lộ rằng:

‘’Vào mùa Thu năm 1974, Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc đã đề nghị với Tổng Thống Nguyên Văn Thiệu là Việt Nam Cộng Hòa nên bí mật tiếp xúc với Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa để yêu cầu các nhà lãnh đạo Trung Cộng giảm thiểu bớt sự ủng bộ của họ dành cho cộng sản Bắc Việt là Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời tại Miền Nam. Lúc đó thì Tổng Thống Thiệu đang sẵn sàng thỏa hiệp với Trung Cộng về vấn đề khai thác dầu hỏa trong vùng thềm lục địa biển Nam Hải và theo đuổi một đường lối ngoại giao mới theo đó thì Việt Nam Cộng Hòa chấp nhận ảnh hưởng của Trung Cộng trong vùng Đông Nam Á’’.

Sau đó ông đã phỏng vấn Luật Sư Vương Văn Bắc tại Paris vào ngày 22 tháng 8 năm 1985 về việc này và được Luật Sư Bắc cho biết thêm như sau:

‘’Trong thời gian ông Bắc làm Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Anh từ năm 1972 đến năm 1973 ông có quen thân một vị Dân Biểu Anh thuộc Đảng Bảo Thủ. Vào cuốn năm 1974, lúc đó ông Vương Văn Bắc đang làm Tổng Trưởng Ngoại Giao người bạn Dân Biểu Anh nầy có tên trong một Phái Đoàn Quốc Hội Anh sắp sang viếng thăm Bắc Kinh. Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc đã nhờ ông Đại Sứ Việt Nam tại London nhân danh ông tiếp xúc với vị Dân Biểu này và nhờ ông ta thăm dò với giới lãnh đạo Trung Cộng về khả năng có thể xích lại gần (rapprochement) giữa Bắc Kinh và Sài Gòn. Ông Bắc hy vọng rằng có thể lợi dụng được sự nghi ngờ sâu xa giữa Hà Nội với Trung cộng sau chuyến công du của Tổng Thống Nixon tại Bắc Kinh. Vị Dân Biểu Anh này đã nói chuyện với Thứ Trưởng Ngoại Giao Trung Cộng là ông Kiều Quán Hoa và đã được ông này cho biết rằng lập trường của Trung Hoa cộng sản là hoàn toàn ủng hộ chính phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Kiều Quán Hoa cũng nói thêm rằng vì lý do đó mà nếu muốn thay đổi đường lối đối với Sài Gòn thì cũng đã quá trễ rồi. Như vậy thì  Ông Vư­ơng Văn Bắc đã biết rõ rằng Trung Cộng đang cố gắng gây dựng chính phủ Cách Mạng Lâm Thời như là một lực lượng để cầm quyền tại Miền Nam đương đầu với ảnh hưởng của chế độ Hà Nội. Khi ủng bộ Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời ý đồ  của Trung Cộng là duy trì ảnh hưởng của họ tại Đông Dương sau khi người Mỹ triệt thoái ra khỏi vùng này’’.

Khi Ngoại Trưởng Bắc trình với Tổng Thống Thiệu về việc Trung Cộng khước từ đề nghị của Việt Nam thì Thống Thiệu nói rằng: Người Trung Hoa quá tự tin.

Họ tự nhủ rằng ‘’Tại sao mà bây giờ chúng tôi lại phải giúp cho Miền Nam ? Bây giờ chúng tôi đã có trọn nước Việt Nam rồi’’.  Họ tin tưởng rằng Bắc Việt sẽ để cho chính phủ Cách Mạng Lâm Thời cai trị Miền Nam, như vậy thì chẳng có lý do gì lại chia xẻ một miếng bánh với Thiệu.

Có điều nực cười là người Mỹ can thiệp vào Việt Nam với lý do ‘’be bờ’’ ảnh hưởng của Trung Cộng trong lòng Đông Nam Á thì đến khi cuộc chiến gần tàn, ông Thiệu cảm thấy rằng Việt Nam sắp sửa bị Hoa Kỳ bỏ rơi vì chiến lược của Nixon là nghiêng về phía Trung Cộng, do đó ông Thiệu muốn quay sang Trung Cộng để tìm cách ‘’be bờ’’ cộng sản Bắc Việt. Ông Thiệu sẵn sàng đi với Bắc Kinh còn hơn bị Hà Nội thống trị. Ông Thiệu tin rằng Trung Cộng cũng sợ ảnh hưởng của Hà Nội tại Đông Dương hơn là Sài Gòn do đó họ có thể sẽ bỏ rơi Bắc Việt vì họ nghĩ rằng chính Bắc Việt mới là đối thủ chính của Trung Cộng tại Đông Dương. Viễn kiến của ông Thiệu rất đúng, tuy nhiên tiếc thay ông đã hành động quá trễ rồi’’. Nguyễn Tiến Hưng & Jenold Schecter: Sách đã dẫn, trang 313-314.

Có lẽ Bác Sĩ Trần Văn Đỗ có ‘’duyên’’ với những người lãnh đạo cộng sản như Thủ Tướng Chu ân Lai của Trung Cộng và Thủ Tướng Phạm văn Đồng của cộng sản Bắc Việt cho nên gần khoảng 15 năm sau thì nhân một chuyến viếng thăm Paris với tư cách cá nhân, ông lại được cộng sản Bắc Việt ‘’mời’’ đến gặp một lần thứ hai.

Bác Sĩ Trần Văn Đỗ có kể lại với một số thân hữu rằng nhân một chuyến ông sang Pháp về việc gia đình, người viết không nhớ rõ vào khoảng cuối năm 1969 hay đầu năm 1970 gì đó, thì ông nhận được lời mời của ông Xuân Thủy, Bộ Trưởng Ngoại Giao và cũng dự Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại cuộc Hòa Đàm Paris. Lúc bấy giờ Hội Nghị Paris đang ở trong tình trạng mà báo chí gọi là ‘’đánh đánh đàm đàm’’, tuy Việt Nam Cộng Hòa cũng có phái đoàn chính thức tham dự hội nghị nhưng cộng sản Bắc Việt chỉ nói chuyện với Hoa Kỳ và tuyệt đối không bao giờ tiếp xúc hay nói chuyện trực tiếp với phái đoàn Miền Nam.

Bác Sĩ Trần Văn Đỗ lúc đó không còn giữ một chức vụ gì trong chính phủ Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1968 (cho đến năm 1975), ông chỉ là một người công dân thường mà thôi, vì thế cho nên ông vô cùng ngạc nhiên khi ông được chính Bộ Trưởng Xuân Thủy mới đến gặp. Bản tính dễ dãi, hiền hòa, cởi mở, hiếu khách và không hề có mặc cảm, Bác Sĩ Trần Văn Đỗ nói rằng thấy chuyện này cũng hay hay và thú vị cho nên ông đã nhận lời dù rằng ông không có quen biết thân tình gì với ông Xuân Thủy. Tuy nhiên, vì cuộc gặp gỡ này vào giai đoạn đó có phần vô cùng tế nhị về những phương diện ngoại giao và chính trị cho nên ông đã nhờ Tòa Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Paris phúc trình việc này về Sài Gòn. Bác Sĩ Trần Văn Đỗ nói với người viết rằng ông không giữ chức vụ gì trong chinh phủ cho nên ông không cần phải xin phép ai cả, tuy nhiên ông phải cho Tòa Đại Sứ biết vì ông chỉ muốn thông báo cho các giới chức có thẩm quyền ở Sài Gòn biết về việc này mà thôi. Ông cũng nói thêm rằng tuy Sài Gòn có đưa ra một vài ý kiến nhưng ông khẳng định ông lúc đó chỉ là một thường dân và cuộc gặp gỡ này là do phía cộng sản chủ động cho nên ông sẽ chỉ lắng nghe những điều gì họ muốn nói mà thôi.

Bác Sĩ Trần Văn Đỗ nói rằng khác với lần gặp gỡ trước tại Genève có tính cách chính thức vì ông đang giữ chức Tổng Trưởng Ngoại Giao của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam và ông Phạm văn Đồng đang giữ chức vụ Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Ngoại Giao của Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, lần này thì ông Xuân Thủy đang giữ chức Bộ Trưởng Ngoại Giao kiêm Trưởng Phái Đoàn của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Paris còn ông thì chỉ là một ‘’phó thường dân’’ cho nên cuộc gặp gỡ chỉ có tính cách cá nhân mà thôi. Bác Sĩ Đỗ nói rằng trong suốt buổi gặp gỡ, ông gọi Xuân Thủy bằng ‘’ông Bộ Trưởng’’ và ông Xuân Thủy thì gọi ông là ‘’Bác Sĩ’’ chứ cả hai người không hề gọi nhau bằng tiếng ‘’Anh’’ như đối với ông Phạm văn Đồng hồi năm 1954.

Bác Sĩ Trần Văn Đỗ nói rằng ông Xuân Thủy và một vài người phụ tá đã đón tiếp ông một cách niềm nỡ và cởi mở, tuy nhiên câu chuyện chỉ loanh quanh trong vòng xã giao, nói những chuyện thông thường mà thôi chứ tuyệt đối không có đả động gì đến chuyện chính trị, nhất là chuyện liên quan đến hòa đàm. Ông nói rằng sau hai tiếng đồng hồ chuyện vãn một cách thân tình thì ông ra về và chuyện ông gặp gỡ Xuân Thủy thật sự cũng chỉ có vậy mà thôi, chẳng có gì quan trọng cả.

Bác Sĩ Đỗ nói rằng sau khi đến gặp ông Xuân Thủy thì ông lại gặp phải nhiều chuyện rắc rối làm cho ông rất bực mình.


Каталог: groups -> 3849536 -> 989380657 -> name
groups -> PHẦn chuyển tiếp kính thưa quý vị và các bạn trẻ, giữa những ngưới Việt chúng ta, tôi nói
groups -> Ý Nga sưu tầm và cập nhật hóa ngày 21-4-2013, với nhạc của nhạc sĩ: TừYên, Hà Thúc Sinh vừa thêm vào
groups -> BÁo cáo môn: RÈn luyện nghiệp vụ SƯ phạM 3
groups -> Phản Bội hay Tự Do cho Việt Nam ?
groups -> Tin khoa hoc december 31, 2010 Những vụ phóng vệ tinh thất bại trong 2010 Trong năm 2010, một số quốc gia đã vấp phải các sự cố trong việc phóng vệ tinh vào không gian
groups -> Một Thời Bạn Học Revised 8/4/10 việt nam
name -> VIỆt nam cộng hòA 10 ngày cuối cùNG
3849536 -> Van. Phong. Lien. Doi. Xa. Hoi [B. E. S]
3849536 -> Hiểu thế nào về ‘Tội Tổ Tông’ ? Nguyễn Thùy Lời nói đầu

tải về 1.71 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   20




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương