VIỆt nam cộng hòA 10 ngày cuối cùNG


Người Mỹ Không Muốn Lưu Lại Bằng Chứng



tải về 1.71 Mb.
trang11/20
Chuyển đổi dữ liệu12.05.2018
Kích1.71 Mb.
#38155
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   ...   20

Người Mỹ Không Muốn Lưu Lại Bằng Chứng

Trong ngày thứ sáu 18 tháng 4, Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật về viện trợ quân sự cho tài khóa 1976 trên 3 tỷ đô-la nhưng trong số những quốc gia nhận được quân viện không có Việt Nam Cộng Hòa. Như­ vậy có nghĩa là sau ngày 30 tháng 6 năm 1975, dù có còn tồn tại, Việt Nam Cộng Hòa cũng không còn nhận được một số tiền viện trợ nào dành cho quân sự nữa.

Sau khi Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa, Đại Sứ Graham Martin cho biết là vào ngày 18 tháng 4 năm 1975, Ngoại Trưởng Henry Kissinger đã chỉ thị ông rằng ‘’Tổng Thống Ford đã chấp thuận để cho Đại Sứ Martin đề nghị với Tổng Thống Thiệu là ông ta nên từ chức’’.

Theo cựu Đại Sứ Bùi Diễm thì sau khi ông về đến Sài Gòn vào trung tuần tháng 4 năm 1975, Đại Sứ Hoa Kỳ Graham Martin đã nói với ông rằng: ‘’ông phải nói sự thật với ông Thiệu’’. Cái sự thật mà Đại Sứ Martin muốn nói là ‘’ông Thiệu đã hết thời rồi’’ (Thiệu was finished) và nếu cần thì chính ông Martin sẽ đích thân nói với ông Thiệu điều đó. Tuy nhiên ông Martin muốn nhờ ông Bùi Diễm vào gặp để nói với ông Thiệu như vậy và yêu cầu ông Diễm cho ông ta biết ngay sau khi đã nói chuyện với ông Thiệu về vấn đề này. Đại Sứ Bùi Diễm cố gắng liên lạc nhưng vẫn không gặp được Tổng Thống Thiệu. Đến ngày thứ sáu 18 tháng 4 thì ông gặp Đại Sứ Martin và đã cho ông Martin biết như­ vậy, rồi qua ngày hôm sau thứ bảy 19 tháng 4, lại nói chuyện điện thoại lần nữa với ông Đại Sứ Mỹ. Lần nầy Đại Sứ Diễm cho ông Martin biết rằng ông đã nhắn với Tổng Thống Thiệu qua Đại Tá Chánh Văn Phòng Võ Văn Cầm và cả cựu Trung Tướng Trần Văn Đôn, Tổng Trưởng Quốc Phòng, nhưng ông Thiệu vẫn chưa trả lời. Đại Sứ Graham Martin nói với ông Bùi Diễm rằng: ‘’được rồi như vậy thì tôi phải  đích thân vào gặp ông ta.’’ Bùi Diễm with David Canoff: In the Jaws ofhistory, Houghton Mifflin Company, Boston, 1987, trang 332

Thực ra thì Đại Sứ Martin đã đề cập đến chuyện ông Thiệu từ chức với Ngoại Trưởng Kissinger vào ngày hôm trước và đã được Kissinger đồng ý. Trong cuốn sách ‘’Khi Đồng Minh Tháo Chạy’’ của Nguyễn Tiến Hưng được xuất bản vào đầu năm 2005 thì: ‘’ngày 17 tháng 4, ông Martin đề nghị với Kissinger trong một công điện tối mật để đồng ý cho ông thuyết phục ông Thiệu từ chức:

Nếu Quốc Hội bỏ phiếu chống viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa thì địa vị của ông Thiệu là hết rồi. Bởi vậy, trừ khi có chí thị không đồng ý tôi sẽ cố gắng thuyết phục ông Thiệu và cho ông ta biết rõ đây chỉ là ý kiến cá nhân của tôi với t­ư cách là một người bạn chân thành. Sau khi suy nghĩ mọi đàng, tôi đã đi đến kết luận là chỗ đứng của ông ta trong lịch sử sẽ được bảo đảm hơn nếu xét tất cả những gì ông đã làm cho đất nước này. Nếu ông ta không chịu mà cứ tham quyền cố vị thì cơ hội cuối cùng để cứu vãn Miền Nam Việt Nam như một quốc gia còn có chút tự do sẽ không còn nữa.

Tôi sẽ cho ông Thiệu rõ tôi đã đi đến một kết luận vô tư là nếu ông ta không chịu xuống thì các Tướng lãnh dưới quyền ông sẽ bắt buộc ông làm việc này. Có một cách rút lui êm đẹp và trang trọng nhất là ông tự ý từ chức và nói cho đồng bào biết rằng ông phải làm như vậy để bảo vệ Hiến Pháp và để chính phủ kế vị có thể dễ dàng điều đình cứu vãn n­ước Việt Nam Tự Do. ‘’ông Kissinger đồng ý’’. Nguyễn Tiến Hư­ng: Khi Đồng Minh Tháo Chạy, trang 388.

Ông Nguyễn Tiến Hưng cho biết thêm rằng không phải đến ngày 17 tháng 4 mà còn sớm hơn nữa:

‘’Ở đây tôi còn nhớ, khi tạm biệt Đại Sứ Martin để lên đường đi công tác Washington ngày 15 tháng 4 tự nhiên ông hỏi tôi:

Nhân tiện tôi muốn hỏi ông bao giờ thì Tổng Thống của ông từ chức ?

Hết sức ngạc nhiên: Tôi không biểu ông Đại Sứ muốn nói gì cả! Tôi đáp. Tôi để ý đây là lần đầu tiên thấy ông Martin dùng từ ngữ ‘’Tổng Thống của ông’’  thay vì ‘’ông Tổng Thống’’ hay là ‘’Tổng Thống Thiệu’’. Tôi thông báo cáo cho ông Thiệu ngay về câu hỏi trớ trêu này tr­ước khi lên máy bay”. Nguyễn Tiến Hưng: Khi Đồng Minh Tháo Chạy, trang 387-388.

Theo hồi ký của cựu Đại Sứ Pháp Jean-marie Mérillon thì tối 18 tháng 4 năm 1975, Đại Sứ Hoa Kỳ Graham Martin gọi điện thoại cho ông và lần đầu tiên Đại Sứ Mỹ đã nói rõ với ông về ý định của Hoa Kỳ đối với Miền Nam Việt Nam. Theo Frank Snepp, tác giả cuốn Decent Interval thì trong những ngày tháng cuối cùng của Miền Nam Việt Nam, hai ông Đại Sứ Hoa Kỳ và Pháp đã có những mối liên lạc vô cùng mật thiết. Tác giả cuốn sách này cho biết Đại Sứ Mỹ Martin đã ra lệnh phá một phần bức tường ngăn đôi hai Tòa Đại Sứ và xây một cánh cửa để hai bên liên lạc với nhau mà người ngoài không ai hay biết, đồng thời ông Đại Sứ Pháp cũng gắn thêm một điện thoại riêng ở trong phòng vệ sinh để liên lạc với Đại Sứ Martin vì ông không muốn ngay cả nhân viên trong Tòa Đại Sứ biết việc ông tiếp xúc gần như thường trực với ông Đại Sứ Mỹ.

Đại Sứ Mérillon cho biết hôm đó Đại Sứ Martin đã ‘’lưỡng lự rất nhiều rồi mới nói với tôi rằng Hoa Kỳ sẽ bỏ rơi Miền Nam Việt Nam’’. Đại Sứ Martin nói thêm rằng ‘’Đối với chính trường nước Mỹ, chiến tranh Việt Nam đã chầm dứt ngay sau Hiệp Định Paris 1973, vấn đề còn lại là giải thể Quân Đội Hoa Kỳ tại Đông Dư­ơng mà thôi.’’

Đại Sứ Mérillon tiết lộ rằng ông Martin muốn nhờ Đại Sứ Pháp làm trung gian chuyển đạt ý muốn của Mỹ cho phía việt cộng và Đại Sứ Pháp đã trả lời rằng ‘’nếu không có gì trở ngại trong việc liên lạc thì tôi có thể làm thỏa mãn điều ông yêu cầu trong khoảng 5 tiếng đồng hồ. Tuy nhiên, vì phải phúc trình lên chính phủ Pháp cho nên xin ông Đại Sứ vui lòng gửi cho tôi một văn thư chính thức ủy thác cho tôi cái nhiệm vụ này’’ Đại Sứ Martin trả lời rằng ‘’điều đó không thể được’’. Người ta không muốn lưu lại bằng chứng.

Đại Sứ Mérillon bèn nói với Đại Sứ Mỹ: ‘’Như thế thì kể từ giờ phút nầy, nước Pháp sẽ đảm nhận vai trò tái lập hòa bình cho Việt Nam theo chủ thuyết của Pháp’’. Jean Marie Mérillon: ‘’Saigon ét Moi’’

Thật ra thì việc chính phủ Pháp dính dáng đến tình hình chính trị tại Miền Nam Việt Nam vào những ngày tháng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa khởi đầu từ cuộc gặp gỡ giữa Phạm văn Đồng và Đại Sứ Pháp tại Bắc Việt hồi cuối tháng 1 năm 1975.

Theo Oliver Todd, tác giả Cruel Avril thì Đại Sứ Pháp Philippe Richer đến Hà Nội vào ngày 27 tháng 1 năm 1975. Cựu sinh viên Học Viện Quốc Gia Hành Chánh gọi tắt là ENA, tức là bạn đồng môn với Tổng Thống Pháp Giscard d'Estaing, Nhà Ngoại Giao Richer vốn là tù nhân của Đức Quốc Xã trong trại tập trung Buchenwald, cựu sĩ quan trong Quân Đội Pháp đã từng phục vụ tại Lào và ông ta rất hiểu rõ cộng sản. Vài tuần trước khi ông Richer đến Hà Nội, Thủ Tướng cộng sản Phạm văn Đồng đã nhờ ông Francois Missoffe, Sứ Giả đặc biệt của chính phủ Pháp tại Á Châu, đòi người Mỹ phải áp lực để Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu phải ra đi. Phạm văn Đồng tiếp Đại Sứ Philippe Richer lần đầu tiên vào cuối tháng giêng năm 1975 và trong cuộc gặp gỡ này, Phạm văn Đồng đã nói với tân Đại Sứ Pháp: ‘’Tôi hy vọng rằng ông Đại Sứ mang đến cho tôi sự trả lời’’. Đại Sứ Richer chỉ trả lời một cách ỡm ờ vì ông không hề nhận được chỉ thị rõ rệt nào của chính phủ Pháp về vấn đề này.

Vào ngày 22 tháng 3 năm 1975, trong một bữa tiệc khoản đãi Ngoại Giao Đoàn tại Hà Nội, một cán bộ cộng sản đến nói với Đại Sứ Richer: ‘’Thưa ông Đại Sứ, Thủ Tướng muốn nói chuyện với ông ngay bây giờ’’. Trong cuộc tiếp xúc này Đại Sứ Richer đã hỏi Phạm văn Đồng: ‘’Thủ Tướng nghĩ thế nào về lực lượng thứ ba tại Miền Nam ?’’ Phạm văn Đồng trả lời. ‘’Nhóm đó là bạn của các ông. Bây giờ thì tình thế không thể thay đổi được nữa’’, người Pháp các ông phải làm một cái gì. Thiệu phải ra đi’’ Oliver Todd: Sách đã dẫn, trang 185.

Đại Sứ Philippe Richer suy nghĩ cặn kẽ và đến hai ngày sau thì ông mới phúc trình việc này về Bộ Ngoại Giao Pháp.

Theo Paul Dreyfuss, tác giả cuốn Et Saigon Tomba, thì vào ngày 24 tháng 3 năm 1975, trong một cuộc tiếp xúc với Đại Sứ Pháp Philippe Richer tại Hà Nội, Thủ Tướng Bắc Việt Phạm văn Đồng đã nói với Đại Sứ Richer bằng một giọng đầy thúc giục: ‘’thế nào, bao giờ thì người Pháp mới hành động ?  Bây giờ đã đến lúc các bạn của ông trong phe thứ ba ở Sài Gòn nên bỏ bớt dè dặt để lật đổ Nguyên Văn Thiệu và thành lập một chính phủ khả dĩ có thể nói chuyện được với chúng tôi’’.

Vì lời lẽ khẩn khoản này của Phạm văn Đồng, Đại Sứ Philippe Richer vội vã bay về Paris để tường trình lên Chính phủ Pháp đề nghị mới này của cộng sản Bắc Việt. Dreyfuss: ‘’Et saigon tomba’’, trang 171.

Theo Oliver Todd thì vào ngày 8 tháng 4 năm 1975, sau khi cộng sản chiếm Đà Nẵng, Phạm văn Đồng lại tiếp kiến Đại Sứ Philippe Richer và ông ta đã nói với Đại Sứ Pháp rằng Bắc Việt sẽ cần đến sự hợp tác của các chuyên viên cũng như là các nhà đầu t­ư người Pháp để giúp cho họ khai thác những mỏ dầu hỏa tại Miền Nam thay thế cho các công ty Hoa Kỳ. Tuy được xem như­ là một người có khuynh hướng thiên tả, Đại Sứ Philippe Richer không mấy tin tưởng gì đến những lời của Phạm văn Đồng và ông ta tin rằng khi chiếm được Miền Nam thì chỉ có đảng cộng sản nắm quyền và sẽ không có lực lượng thứ hai thứ ba nào khác. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho Oliver Todd vào năm 1986 tại Paris, cựu Đại Sứ Richer đã cho biết rằng trong một trong những bức công điện gởi về Bộ Ngoại Giao Pháp đề cập đến những đề nghị của Phạm văn Đồng, ông có trình bày ý kiến riêng của ông như vậy và do đó mà cả Bộ Ngoại Giao cũng như Tổng Thống Giscard d'Estaing không có ai ưa ông. Oliver Todd nói rằng thật là một điều nực cười khi mà Đại Sứ Richer, một người được xem như­ là thiên tả, lại chẳng tin tưởng gì đến những lời đường mật của cộng sản Bắc Việt, trong khi đó thì Đại Sứ Jean-marie Mérillon, cũng là cựu sinh viên trường ENA, một người được xem như­ là khuynh hữu, lại nghĩ rằng có thể tin được vào những lời hứa hẹn của Bắc Việt qua lời của Phạm văn Đồng.

Chính phủ Pháp liên lạc với Hoa Kỳ để tìm hiểu quan điểm của người Mỹ, tuy nhiên chính phủ của Tổng Thống Gerald Ford lúc đó đang bị cả hai Viện Quốc Hội do Đảng Dân Chủ kiểm soát trói tay trói chân và không thèm quan tâm cứu xét đến những yêu cầu của Tổng Thống Ford nhằm viện trợ khẩn cấp cho Việt Nam Cộng Hòa, do đó Hoa Kỳ đồng ý để cho Pháp vận động hòa bình cho Miền Nam Việt Nam. Sau khi được sự đồng ý của Hoa Kỳ, Tổng Thống Pháp Giscard d’ Estaing đã ra lệnh cho Đại Sứ Pháp tại Sài Gòn nỗ lực dàn xếp với mọi phe phái ngõ hầu tìm cho được một giải pháp thuận lợi hơn cho Miền Nam Việt Nam.

Đó là lý do tại sao Đại Sứ Pháp tại Sài Gòn Jean-marie Mérillon đã tiếp xúc với Đại Sứ Mỹ Graham Martin ngày 18 tháng 4 năm 1975 và với sự khuyến khích của Đại Sứ Martin, ông đã đến gặp Tổng Thống Nguyên Văn Thiệu tại Dinh Độc Lập hai ngày sau đó. Trong khi cuộc tấn công của cộng sản đang bị Sư Đoàn 18 của Việt Nam Cộng Hòa chống trả mãnh liệt tại Xuân Lộc, trong khi Đại Sứ Mérillon đang tiếp xúc với Đại Sứ Martin ở Sài Gòn để tìm cách thuyết phục Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức ngỏ hầu tìm kiếm hòa bình cho Miền Nam Việt Nam thì Trung Ương Cục Miền Nam của cộng sản đã thi hành quyết định của Hà Nội chuẩn bị tiếp thu Sài Gòn và các Tỉnh, Thị Xã, không hề có một chỉ thị nào về vấn đề thương thuyết với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Trung Ương Cục đã đánh bức điện văn mang số 458/TV ngày 18 tháng 4 năm 1975 gửi cho các Khu Ủy, B.6 (Tây Ninh,) N.50 (Bình Phước,) P.10 (Sài Gòn-Gia Định,) Quân Ủy Miền và các Ban, Ngành KBN (KBN là bí danh của Trung Ương Cục Miền Nam) chỉ thị về việc ‘’chớp thời cơ tấn công địch ở các Thành Phố Thị Trấn, Thị Xã và vùng tôn giáo’’. Chỉ thị nầy ra lệnh các cấp bộ địa phương phải tập trung chỉ đạo, tập trung sức mạnh với các lực lượng quần chúng để nổi dậy, khởi nghĩa nắm lấy chính quyền và đồng thời cho biết rằng sẽ có những chỉ thị riêng về việc ‘’tiếp thu quản lý xây dựng sau khi dứt điểm giải phóng các Thành Phố, Thị Xã, thị trấn v.v…’’ và ngay cả việc đối xử với tù hàng binh ở Miền Nam.



Chính Sách Đối Xử Với ‘’Ngụy quân, Ngụy Quyền’’. 

Cũng trong ngày hôm đó tại Hà Nội, các cấp lãnh đạo đảng cộng sản đã hoàn tất việc quy định về sự phân loại và chính sách đối xử với tù binh và hàng binh tại Miền Nam. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính sách này lại được áp dụng cho tất cả các công chức, cán bộ và Quân Nhân Việt Nam Cộng Hòa mà cộng sản gọi chung là ‘’ngụy quân, ngụy quyền’’ sau khi đi trình diện để ‘’học tập cải tạo’’.

Ngày 18 tháng 4 năm 1975, Ban Bí Thư Trung Ương đảng cộng sản đã gửi Chỉ Thị mang số 218-CT/TW đến tất cả các đảng ủy tại Miền Nam về chính sách đối với tù và hàng binh Miền Nam.

Vì nhận thấy chính sách đối với ‘’ngụy quân, ngụy quyền’’ này của cộng sản Bắc Việt trước ngày 30 tháng 4 có ảnh hưởng đến gần như hầu hết Quân Cán Chính của Việt Nam Cộng Hòa sau này, người viết xin trích đăng lại nguyên văn bản ‘’chỉ thị: Của Ban Bí Thư số 218-CT/WT ngày 18 tháng 4 năm 1975’’ này để làm tài liệu:

‘’Trong tình hình mới hiện nay, số lượng tù binh, binh sĩ địch giác ngộ trở về và làm binh biến khởi nghĩa ngày càng lớn, vùng giải phóng của ta ở Miền Nam ngày càng mở rộng và hoàn chỉnh. Ban Bí Thư quy định phân loại và chính sách đối xử như sau:

PHÂN LOẠI

1. Binh sĩ khởi nghĩa: Là những binh sĩ địch có hành động chống lại địch, đi với cách mạng nh­ư khởi nghĩa làm binh biến, làm nội ứng, phá hoại địch, trực tiếp hay gián tiếp hay tiếp giúp cho cuộc chiến đấu của ta.

2. Binh sĩ giác ngộ trở về với cách mạng: (không nên gọi là hàng binh) là những binh sĩ địch chủ động bỏ hàng ngũ địch sang hàng ngũ cách mạng.

3. Tù binh: Là những binh sĩ địch bị ta bắt trong chiến đấu hoặc sau chiến đấu.

4.Tàn binh ra trình diện: Là những binh sĩ địch bị ta đánh phải bỏ chạy trốn, sau đó ra trình diện với cơ quan chính quyền cách mạng.

CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI TỪNG LOẠI

1. Binh sĩ khởi nghĩa: Về chính trị, coi như quần chúng cách mạng, về sinh hoạt vật chất được đãi ngộ như­ cán bộ, chiến sĩ ta, được xếp công tác tùy treo trình độ giác ngộ chính trị và năng lực từng người. Ai có công với cách mạng thì được khen thưởng. Ai có năng lực chuyên môn kỹ thuật thì được sử dụng theo tài năng, ai bị thương vong trong khi hàng động cách mạng thì được đối xử như thương binh tử sĩ ta.

2. Binh sĩ giác ngộ trở về với cách mạng: Được hưởng quyền công dân, được đối xử về tinh thần và vật chất như những công dân bình thường.

3. Tù binh: Được đối xử nhân đạo theo đúng chính sách của ta. Trong tình hình hiện nay, giải quyết như­ sau:

a/ Đối với những Binh Lính và Hạ Sĩ Quan:

- Số có gia đình ở vùng giải phóng thì giải thích chính sách rồi cho về nhà, giao cho chính quyền địa phương đăng ký và giáo dục.

- Số quê ở lùng địch tạm chiếm hoặc ở xa chưa về được thì tạm thời tập trung lại để quản lý giáo dục và dùng làm lao động. Khi có điều kiện sẽ cho về với gia đình.

b/ Đối với Sĩ Quan: Tất cả đều phải tập trung giam giữ, quản lý giáo dục và lao động, sau này tùy sự tiến bộ của từng người sẽ phân loại và sẽ có chính sách giải quyết cụ thể.

Những người có chuyên môn kỹ thuật (kể cả lính và sĩ quan) mà ta cần thì có thể dùng vào từng việc trong một thời gian nhất định, nhưng phải cảnh giác và phải quản lý chặt chẽ, sau này tùy theo yêu cầu của ta và tùy theo sự tiến bộ của từng người mà có thể tuyển dụng vào làm ở các ngành ngoài quân đội:

c/ Đối với các phần tử ác ôn, Tình Báo An Ninh Quân Đội, Sĩ Quan Tâm Lý, Bình Định Chiêu Hồi, đầu sỏ của đảng phái trong Quân Đội, thì bất kể là Lính, Hạ Sĩ Quan hay Sĩ Quan đều phải tập trung cải tạo dài hạn, giam giữ riêng ở nơi an toàn và quản lý chặt chẽ.

d/ Đối với những người vốn là Quân Nhân của ta nhưng đã đầu hàng địch, tham gia Quân Đội ngụy thì sẽ xử như tù binh. Kẻ nào làm việc cho địch như Gián Điệp, Tâm Lý Chiến, Bình Định Chiêu Hồi, chỉ huy đánh phá cách mạng thì xử án như bọn ác ôn.

4. Tàn binh địch ra trình diện:

a/ Những người ra trình diện và tích cực làm n­hững công việc ta giao hoặc có công phát hiện những sự bí mật, kho tàng và tài liệu của địch, chỉ cho ta những tên đầu sỏ phản động còn lẩn trốn, giúp ta sử dụng những vũ khí kỹ thuật của địch, kêu gọi được nhiều tàn binh ra trình diện thì đối xử như binh sĩ giác ngộ trở về với nhân dân.

b/ Còn nói chung đổi xử tương tự như­ tù binh, nhưng cần chú ý.

- Binh Lính Hạ Sĩ Quan thì đăng ký, thu vũ khí, giải thích chính sách, nếu quê ở vùng giải phóng thì cho về nhà ngay, giao cho chính quyền địa phương quản lý giáo dục. Số quê ở vùng địch còn kiểm soát hoặc ở xa chưa về được thì tập trung giáo dục và dùng làm lao động.

Đối với Sĩ Quan, phải giữ lại để giáo dục cải tạo, nhưng tùy hoàn cảnh chính trị từng nơi mà có cách làm thích hợp để bọn còn lẫn trốn không quá sợ hãi, dám ra trình diện. Lúc đầu, có thể chưa cần giam giữ ngay, tùy tình hình sẽ lần lượt tập trung lại sau.

- Những tên ác ôn Gián Điệp và những tên có nhiều tội ác thì bắt giữ ngay.

- Những tên không chịu ra trình diện theo thời gian quy định thì phải bắt giữ. Tên nào lẫn trốn để chống phá ta thì sẽ bị trừng trị theo tội phá hoại hiện hành.

5. Riêng đối với Phòng Vệ Dân Sự và Dân Vệ đã tan rã:

- Phòng Vệ Dân Sự thì giải tán tổ chức, tịch thu vũ khí, trang bị phương tiện quân sự và coi họ như­ dân thường.

Dân Vệ thì giao cho chính quyền địa phương đăng ký, quản lý giáo dục, không tập trung lại như­ tù binh.

- Những tên là Quân Chủ Lực, Bảo An phái sang chỉ huy và làm nòng cốt trong Dân Vệ, Phòng Vệ dân sự và những tên là ác ôn Tình Báo, thì phải xử trí nh­ư các loại tù binh nói trên.

Các loại Binh Lính Sĩ Quan địch đã bỏ ngũ về nhà, về hưu, giải ngũ, thì coi như dân thường. Người nào trong số nầy có tội ác thì do chính quyền địa phương xử trí theo chính sách chung đối với những người phạm tội.

6- Những trường hợp khác:

- Những Quân Nhân của địch biệt phái sang làm việc ở Ngành Hành Chánh, Cảnh Sát thì do cơ quan an ninh của ta xử trí.

- Những Sĩ Quan có ảnh hưởng trong các dân tộc thiểu số và các tôn giáo, nếu cần thiết cho việc tranh thủ quần chúng thì có thể có chính sách chiếu cố thích hợp.

Đối với những sĩ quan cấp Tướng hoặc Đại Tá, nếu xét cần sử dụng có lợi cho cách mạng thì có thể có chính sách đối xử thích hợp.

- Tù Binh là Quân Nhân Mỹ và các Quân Nhân nước ngoài khác, phải giam riêng, phải đối xử nhân đạo.

- Những tù binh ngụy bị bắt hồi 1972 hiện nay còn giữ thì xử trí như tù binh hiện nay. Những tên là Lính và Hạ Sĩ Quan nếu đã cải tạo tốt, có quê ở vùng giải phóng thì cho về với gia đình.

CHÚ Ý:


1. Những cơ sở binh vận, quân báo và an ninh của ta được cử vào hoạtt động trong Quân Đội địch đều là cán bộ chiến sĩ của ta phải giải quyết chính sách chu đáo, tuyệt đối không được lẫn lộn với binh sĩ địch.

2. Hiện nay không lấy tù binh, tàn binh để bổ sung quân số cho các lực lượng vũ trang của ta.

3. Tất cả các loại tù binh, tàn binh đều giam giữ ở B, không đưa ra A, trừ những trường hợp còn khai thác gấp để phục vụ yêu cầu của ta.

T/M BAN BÍ THƯ

TỐ HỮU

Văn Kiện Đảng, trang 286-290. Ghi chú: Trong thời gian này, Tố Hữu còn là Ủy Viên Trung Ương Đảng phụ trách Ban Bí Thư, về sau mới được đề cử vào Bộ Chính Trị và giữ chức Trưởng Ban Văn Hóa Tư Tưởng.



Có một điều đáng chú ý là trong loại 6 ‘’Những trường hợp khác’’ có một câu nói rằng ‘’những tù binh ngụy bị bắt hồi 1972 hiện nay còn giữ thì xử trí như tù binh hiện nay’’. Điều này chứng tỏ rằng sau khi ký Hiệp Định Ba Lê vào năm 1974 cộng sản Bắc Việt vẫn còn giam giữ và đã không trao trả một số tù binh bị họ bắt giữ trước năm 1973 cho Việt Nam Cộng Hòa đúng theo tinh thần của hiệp định. Lưu văn Lợi, phụ tá của Lê đức Thọ tại hội nghị Ba Lê cho biết rằng vấn đề trao trả tù binh và tù dân sự đã được thảo luận sôi nổi giữa Bắc Việt và Hoa Kỳ trong phiên họp ngày 17 tháng 10 năm l972. Trước đó, vào ngày 14 tháng 10, Phái đoàn Bắc Việt đã gửi cho Phái đoàn Hoa Kỳ một công hàm nói rằng:

‘’Theo Luật Pháp quốc tế trong cuộc chiến tranh khi chiến sự chấm dứt thì tất cả những người của các bên bị bắt phải được trao trả ngay. Hơn thế nữa, với tính chất  của cuộc chiến tranh ở Miền Nam Việt Nam thì sau khi ngừng bắn, việc trao trả những người dân sự cũng như  việc trao trả những người quân sự của các bên bị bắt giữ là một nghĩa vụ mà không bên nào được thoái thác và trì hoãn.

Phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cho rằng trong vấn đề này phía Hoa Kỳ bên vực cho một lập trư­ờng rất sai trái để một bên có thể tiếp tục giam giữ những người dân sự của bên kia’’. Lưu văn Lợi và Nguyễn anh Vũ: ‘’Các Cuộc Thương Lượng Lê Đức Thọ-Kissinger tại Paris’’, xuất bản tại Hoa Kỳ, trang 309.

Vào năm 1993 khi Trần văn Trà được cử làm Trưởng Phái đoàn của ‘’Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời’’  trong Ban Liên Hợp 4 Bên tại Tân Sơn Nhứt Sài Gòn, ông ta đã tuyên bố rằng ‘’chúng ta đã trả tất cả tù binh Mỹ-ngụy mà ta giữ’’ Hai năm sau, chỉ thị về chính sách đối với tù hàng binh của Bắc Việt do Tố Hữu thay mặt Ban Bí Th­ư của Đảng Lao Động Việt Nam ký ngày 18 tháng 4 năm 1975 cho thấy là Trần văn Trà đã nói láo, rõ ràng chỉ thị này đã thừa nhận cộng sản Hà Nội không trao trả một số tù binh của Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1973, Hà Nội đã vi phạm Hiệp Định Ba Lê do chính họ ký kết và như vậy thì theo lời của chính Hà Nội trong công hàm gửi cho Hoa Kỳ ngày 14 tháng 10 năm 1972 thì ‘’đó là trái đạo lý, không công bằng và vô nhân đạo’’.



NGÀY CHỦ NHẬT

20 THÁNG 4/1975

Trong cuốn Hồi Ký ‘’Đất Nước Tôi’’ được xuất bản vào năm 2003, vị Thủ Tướng cuối cùng của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa là ông Nguyễn Bá Cẩn cho biết rằng: ‘’Cũng chính ngày 20 tháng 4 nầy, trong lúc cộng sản Bắc Việt đang chặt tay, chặt chân để bóp cổ và chọc thủng bụng theo thế đánh mà bọn chúng thường rêu rao để tuyên truyền thì Đồng Minh của Việt Nam Cộng Hòa đã ‘’trảm thủ’’ Miền Nam bằng một nhát gươm ân huệ. Thật vậy, sáng hôm ấy, Đại Sứ Martin đến gặp Tổng Thống Thiệu. Sau khi Đại Sứ Martin ra về thì một màn khói im lặng và bí mật bao phủ Dinh Độc Lập cho đến sáng hôm sau’’ (Nguyễn Bá Cẩn: Đất Nước Tôi, Hoa Hoa Press, Derwood, Maryland, trang 420)

Ngày Chủ Nhật 20 tháng 4 không chỉ có Đại Sứ Hoa Kỳ Graham Martin mà còn có cả Đại Sứ Pháp Mérillon đến hội kiến với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tại Dinh Độc Lập với mục đích thuyết phục ông từ chức để cứu vãn tình hình vì phe công sản dứt khoát không chịu thương thuyết với ông. Theo Frank Snepp và các tác giả của bộ ‘’The Vietnam experience’’  thì Đại Sứ Mérillon vào gặp Tổng Thống Thiệu trước Đại Sứ Martin, tuy nhiên theo Oliver Todd thì ông Đại Sứ Pháp vào gặp Tổng Thống Thiệu sau ông Đại Sứ Hoa Kỳ.

Oliver Todd cho biết vào ngày 20 tháng 4, Đại Sứ Mérillon đến Dinh Độc Lập một mình và nói chuyện thẳng với Tổng Thống Thiệu. Đại Sứ Mérillon nói rằng:

‘’Thưa Tổng Thống, tôi đến gặp Ngài tại vì tình hình đã trở nên vô cùng nghiêm trọng. Không còn vấn đề quân sự nữa’’. Tổng Thống Thiệu không trả lời và Đại Sứ Mérillon nói tiếp: ‘’Tôi thấy chỉ còn là vấn đề chính trị. Cần phải để cho một tiến trình dân chủ được khai triển’’.

Tổng Thống Thiệu ngồi nghe trong khi Đại Sứ Mérillon tiếp tục trình bày gần như là độc thoại về những thực tế mà ông Thiệu dần dần bắt đầu hiểu. Đại Sứ Mérillon nói rằng chính phủ chỉ còn nắm giữ được vài Thành Phố lớn nhưng ba phần tư lãnh thổ đã bị mất vào tay cộng sản, rồi ông Đại Sứ nói đến những mối liên lạc thân hữu giữa cá nhân hai người và cả giữa bà Thiệu và bà Mérillon nữa, ông kêu gọi đến trách nhiệm trước lịch sử, đến danh dự cá nhân và yêu cầu Tổng Thống Thiệu nên làm một sự hy sinh lớn lao cho dân tộc Việt Nam qua một sự thương thuyết không thể tránh khỏi để cho một vài quyền lợi nào đó còn có thể cứu vãn được.

Tổng Thống Thiệu bắt đầu nói đến những tái phối trí cần thiết, về sự phản bội của Mỹ và tinh thần chủ bại của một số Tướng lãnh. Rồi Tổng Thống Thiệu kết thúc cuộc hội kiến bằng một câu nói rất bình dân: ‘’thôi, tới đâu hay tới đó’’ và ông Đại Sứ ra về’’ (ghi chú: Oliver Todd: Sách đã dẫn, trang 312)

Vào hồi 10 giờ sáng, đến lượt Đại Sứ Hoa Kỳ Graham Martin vào gặp Tổng Thống Thiệu và cuộc gặp kéo dài trong một tiếng rưỡi đồng hồ.

Đại Sứ Martin trước hết trình bày với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu về nhận định của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ đối với tình hình quân sự hiện tại. Thực ra thì bản nhận định nầy đã được Frank Nepp, một chuyên viên phân tích tình báo (intelligence analyst) của CIA soạn thảo. Trong cuốn Decent Interval, Frank Nepp tiết lộ rằng ông đã được Polga, Giám Đốc CIA tại Sài Gòn ra chỉ thị phải ‘’soạn thảo bản nhận định càng đen tối càng tốt chừng đó. Đại Sứ Martin sẽ dùng bản nhận định nầy để thuyết phục ông Thiệu rằng đã đến lúc ông ta phải ra đi’’.

Đại Sứ Martin đã đưa cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bản nhận định do Frank Nepp viết nguyên văn như sau:

‘’Với cuộc sụp đổ của các cuộc phòng thủ của Quân Đội của chính phủ quanh Tỉnh Lỵ Xuân Lộc và sự tiếp tục gia tăng tập trung quân đội của cộng sản trong Vùng 3 Chiến Thuật cán cân lực lượng trong vùng chung quanh Sài Gòn hiện nay đã nghiêng về phía Bắc Việt và việt cộng. Mặc dù chính phủ vẫn còn có thể tăng viện cho một trong những mục tiêu có thể sẽ bị tấn công như Biên Hòa-Long Bình ở về phía Đông Sài Gòn, các Tỉnh Long An, Hậu Nghĩa ở về phía Tây hay Tỉnh Bình Dương ở về phía Bắc, tuy nhiên lực lượng của chính phủ sẽ không đủ sức mạnh để phòng thủ tất cả các mục tiêu nầy một cách hữu hiệu. Mặt khác về phía Bắc Việt và việt cộng thì chỉ trong vòng ba hay bốn ngày, họ lại có đủ khả năng phóng ra những cuộc hành quân phối hợp trên mức nhiều sư đoàn vào tất cả những mục tiêu nầy. Như vậy thì chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sẽ phải đối phó với một tình trạng mà trong đó Sài Gòn sẽ bị cô lập và sẽ không còn liên lạc được với bên ngoài chỉ trong vòng vài tuần lễ và có thể rơi vào tay của các lực lượng Bắc Việt, việt cộng trong vòng 3 hay 4 tuần lễ’’.

(Frank Nepp nói rằng ông muốn viết ‘’chỉ vài tuần lễ’’ nhưng Polgar không muốn như vậy. Frank Nepp cũng cho biết thêm rằng sau khi ra đi, ông Thiệu vẫn còn để bản nhận định nầy trên bàn giấy của ông trong Dinh Độc Lập. Khi việt cộng chiếm Sài Gòn, Văn tiến Dũng đã lấy được bản nhận định nầy và đã cho đăng nguyên văn trong cuốn sách ‘’Đại Thắng Mùa Xuân’’ của ông ta. Frank Nepp: Sách đã dẫn, trang 382).

Sau nầy, trong một buổi tường trình với Ủy Ban Ngoại Giao Hạ Viện Mỹ vào ngày 22 tháng 1 năm 1976, Đại Sứ Martin nói rằng ông ta đến gặp Tổng Thống Thiệu ‘’với tư cách cá nhân, ông ta không đại diện cho Tổng Thống Gerald Ford, không đại diện cho Ngoại Trưởng Henry Kissinger và cũng không nói chuyện với tư cách là Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng Hòa, ông chỉ nói chuyện với tư cách là một người đã từng quan sát tình hình ở Đông Nam Á từ bao nhiêu năm qua và cũng là một người mà trong hai năm qua đã bỏ ra nhiều thì giờ tìm hiểu tất cả ngọn ngành của các vấn đề quân sự tại Việt Nam’’.

Sau khi trình bày với Tổng Thống Thiệu về nhận định đầy đen tối về tình hình trong một vài ngày sắp tới, Đại Sứ Martin nói rằng ông không hề nói với Tổng Thống Thiệu là ông ta phải từ chức, ông ‘’chỉ trình bày với Tổng Thống Thiệu một cách rõ ràng, chính xác và khách quan về nhận định của người Mỹ đối với tình hình hiện tại’’.

Đại Sứ Martin nói rằng ông nói với Tổng Thống Thiệu, sau khi phân tích và so sánh lực lượng hai bên và nếu cả hai điều dồn lực lượng vào trận đánh cuối cùng thì các cân quân sự về phía Việt Nam Cộng Hòa rất bi quan. Kết luận của tôi là nếu cộng sản quyết tâm đánh để tiêu diệt Sài Gòn thì Sài Gòn không thể cầm cự được hơn một tháng. Dù sự phòng thủ có khéo léo, dũng cảm và quyết tâm đến đâu chăng nữa thì cũng không thể kéo dài quá ba tuần lễ.

‘’Tôi nói, theo ý kiến của tôi thì Hà Nội muốn giữ Sài Gòn nguyên vẹn chứ không muốn Sài Gòn trở thành một đống gạch vụn khi họ chiếm đóng. Tuy nhiên không ai biết được một cách chắc chắn rằng Hà Nội sẽ không biến Sài Gòn thành bình địa nếu mà không có một sự thương thuyết nhằm vào việc đình chiến”. Graham Martin: Bản Điều Trần Tại Ủy Ban Ngoại Giao của Hạ Viện Hoa Kỳ tại Washington ngày 22 tháng 1 năm 1976.

Đại Sứ Martin nói trắng rằng đây là một việc mà chỉ có một mình Tổng Thống Thiệu mới có quyền quyết định, tuy nhiên ông Đại Sứ cũng ‘’nhắc khéo’’  Tổng Thống Thiệu là đa số người Việt Nam đều quy trách ông Thiệu là người phải chịu trách nhiệm trước sự thảm bại quân sự trong hơn một tháng qua, đa số người Việt Nam không tin rằng ông Thiệu còn có đủ khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng nầy và họ tin tưởng rằng nếu ông Thiệu ra đi thì việc thương thuyết với phe cộng sản sẽ dễ dàng hơn.

Tổng Thống Thiệu hỏi Đại Sứ Martin rằng nếu ông ra đi, liệu Quốc Hội Hoa Kỳ có thay đổi ý kiến mà bỏ phiếu chấp thuận viện trợ bổ túc cho Việt Nam Cộng Hòa hay không thì Đại Sứ Martin trả lời rằng nếu cách đây vài tháng, việc đó có thể giúp Việt Nam Cộng Hòa có thêm vài ba phiếu tại Quốc Hội Mỹ, tuy nhiên đó là việc đã qua. Đại Sứ nói thêm rằng ‘’giả thử như Quốc Hội Mỹ chấp thuận viện trợ bổ túc cho Việt Nam Cộng Hòa đi nữa thì sự viện trợ đó cũng không thể đến kịp thời để thay đổi tình hình quân sự tại Miền Nam’’.

Thật ra thì khoảng 10 ngày trước đó, vào ngày 10 tháng 4, Tổng Thống Hoa Kỳ Gerald Ford trong một bài diễn văn được truyền hình trên toàn nước Mỹ đã cho biết rằng ông đã yêu cầu Quốc Hội cung cấp 722 triệu đô la viện trợ quân sự bổ túc cho Việt Nam Cộng Hòa theo đề nghị của Đại Tướng Frederick Weyand và còn xin thêm 250 triệu nữa để cung cấp thực phẩm, thuốc men và cứu trợ cho người tỵ nạn, tuy nhiên đề nghị đã bị Thượng Viện lúc bấy giờ do Đảng Dân Chủ kiểm soát ngâm tôm, không cứu xét.

Qua ngày 16 tháng 4, trong một bài diễn văn đọc trước ‘’Hội Các Nhà Biên Tập Báo Chí Hoa Kỳ (American Society of Newspaper Ediors), Tổng Thống Tổng Thống Ford đã lên án Quốc Hội bội ước không giữ đúng sự cam kết và nghĩa vụ trợ giúp cho Việt Nam Cộng Hòa trong khi Liên Xô và Trung Cộng lại gia tăng nỗ lực viện trợ cho đồng minh của họ là cộng sản Bắc Việt. Dùng ngôn từ của giới mộ điệu football, Tổng Thống Ford nói rằng: ‘’Tôi cảm thấy muốn phát bệnh khi mà trong hiệp chót (của trận football) nước Mỹ đã không có một nỗ lực đặc biệt nào, không có một chút cam kết dù là nhỏ nhoi trong việc viện trợ kinh tế và quân sự mà Việt Nam Cộng Hòa cần phải có để có thể tránh được tình trạng bi thảm nầy’’.

Ngày hôm sau 17 tháng 4, Tiểu Ban Quân Vụ của Thượng Viện Hoa Kỳ do Đảng Dân Chủ kiểm soát biểu quyết không chấp thuận bất cứ viện trợ quân sự bổ nào cho Việt Nam Cộng Hòa, điều nầy có nghĩa là vấn đề viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa sẽ không còn được đưa ra cứu xét trước Thượng Viện Hoa Kỳ nữa.

Qua ngày 18 tháng 4, Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật về viện trợ quân sự tài khóa 1976 trên 3 tỷ đô la dành cho nhiều nước trên thế giới, nhưng trong số những quốc gia nhận được viện trợ không có Việt Nam Cộng Hòa. Như vậy có nghĩa là sau ngày 30 tháng 6 năm 1975, dù có còn tồn tại, Việt Nam Cộng Hòa cũng sẽ không còn nhận được một số tiền viện trợ nào dành cho quân sự nữa, không còn ngân khoản nào để mua súng đạn, nhiên liệu và cũng không còn để trả lương cho Quân Đội nữa.

Sau khi Việt Nam Cộng Hòa bị cộng sản cưỡng chiếm, Đại Sứ Graham Martin đã điều trần với Quốc Hội rằng: ‘’Tôi nói với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu rằng kết luận của tôi là dù các Sĩ Quan trong Quân Đội vẫn còn phải tiếp tục chiến đấu, nhưng gần như hầu hết các vị Tướng lãnh của ông Thiệu đều tin rằng đó là một cuộc chiến vô vọng, trừ khi mà bên cạnh sự chiến đấu đó phải bắt đầu khởi sự tiến trình thương thuyết. Tôi nói với ông Thiệu rằng các Tướng lãnh tin tưởng rằng tiến trình đó không thể nào được khởi sự trừ khi ông Thiệu ra đi hoặc là ông Thiệu phải thực hiện ngay tiến trình thương thuyết đó với phe cộng sản. Tôi nói tôi có cảm tưởng rằng nếu ông Thiệu không từ chức ngay tức khắc thì các Tướng lãnh của ông buộc ông phải ra đi’’.

Sau khi Đại Sứ Martin nói hết những điều cần nói. Tổng Thống Thiệu cam kết với ông Martin là ông ‘’sẽ làm bất cứ những gì mà tôi nghĩ rằng có lợi nhất cho đất nước của chúng tôi’’. The Vietnam Experience, Sách đã dẫn, trang 136.



Каталог: groups -> 3849536 -> 989380657 -> name
groups -> PHẦn chuyển tiếp kính thưa quý vị và các bạn trẻ, giữa những ngưới Việt chúng ta, tôi nói
groups -> Ý Nga sưu tầm và cập nhật hóa ngày 21-4-2013, với nhạc của nhạc sĩ: TừYên, Hà Thúc Sinh vừa thêm vào
groups -> BÁo cáo môn: RÈn luyện nghiệp vụ SƯ phạM 3
groups -> Phản Bội hay Tự Do cho Việt Nam ?
groups -> Tin khoa hoc december 31, 2010 Những vụ phóng vệ tinh thất bại trong 2010 Trong năm 2010, một số quốc gia đã vấp phải các sự cố trong việc phóng vệ tinh vào không gian
groups -> Một Thời Bạn Học Revised 8/4/10 việt nam
name -> VIỆt nam cộng hòA 10 ngày cuối cùNG
3849536 -> Van. Phong. Lien. Doi. Xa. Hoi [B. E. S]
3849536 -> Hiểu thế nào về ‘Tội Tổ Tông’ ? Nguyễn Thùy Lời nói đầu

tải về 1.71 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   ...   20




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương