UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ SÁU quốc hội khoá XII


- Hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp của tỉnh tham gia xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường xuất khẩu



tải về 3.4 Mb.
trang27/43
Chuyển đổi dữ liệu07.07.2016
Kích3.4 Mb.
#1536
1   ...   23   24   25   26   27   28   29   30   ...   43

- Hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp của tỉnh tham gia xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường xuất khẩu;


- Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thu mua, tạm trữ, bảo quản hàng hoá thuỷ hải sản đông lạnh;

- Quản lý giá cả thị trường nhất là thị trường vật tư nông nghiệp, đảm bảo đầu vào cho sản xuất nông nghiệp.

Trả lời: (tại Công văn số 7913/BCT-KH ngày 13/8/2009)

Về vấn đề thứ nhất

Hàng năm, Cục Xúc tiến thương mại (XTTM) Bộ Công Thương đều gửi đến Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các Sở Công Thương và các Trung tâm xúc tiến thương mại địa phương trong cả nước Quyết định phê duyệt Chương trình XTTM trọng điểm quốc gia, đồng thời đăng tải công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng như Báo Công Thương, Truyền hình Công Thương, Bản tin xuất khẩu, Trang thông tin điện tử của Cục XTTM nhằm phổ biến, tuyên truyền rộng rãi tới cộng đồng doanh nghiệp trong cả nước nói chung và tỉnh Bạc Liêu nói riêng được biết, tìm hiểu và chủ động đăng ký với các đơn vị chủ trì chương trình để tham gia và hưởng lợi.

Để giải quyết những yêu cầu cấp bách về XTTM trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu, đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển thị trường nội địa, Bộ Công Thương đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ các giải pháp cần thực hiện ngay đối với các ngành hàng, góp phần giảm bớt khó khăn của doanh nghiệp trong hoạt động xuất nhập khẩu và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 80/2009/QĐ-TTg ngày 21 tháng 5 năm 2009 về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Quy chế xây dựng và thực hiện chương trình xúc tiến thương mại quốc gia giai đoạn 2006-2010 ban hành kèm theo Quyết định số 279/2005/QĐ-TTg. Theo quyết định trên, các cơ quan XTTM địa phương đủ năng lực được phép tham gia chương trình XTTM quốc gia với tư cách là đơn vị chủ trì chương trình.

Sau khi Quyết định 80/2009/QĐ-TTg nêu trên được ban hành, Bộ Công Thương đã khẩn trương triển khai các hoạt động sau :

- Tổ chức tại ba miền các buổi phổ biến, quán triệt những nội dung mới của Chương trình đến các tổ chức XTTM địa phương, các Hiệp hội ngành hàng... để các đơn vị chủ động xây dựng kế hoạch và thực hiện chương trình ngay sau khi Quyết định trên có hiệu lực..

- Hướng dẫn bằng văn bản để UBND các tỉnh, thành phố triển khai thực hiện Quyết định 80/2009/QĐ-TTg trong khuôn khổ chương trình XTTM quốc gia, cũng như theo chương trình XTTM của tỉnh tại các địa phương.

- Chỉ đạo các đơn vị thuộc Cục XTTM tăng cường công tác phối hợp, hướng dẫn tổ chức thực hiện Quyết định; đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện để đảm bảo các hoạt động XTTM đạt được mục tiêu và kết quả đề ra.

Cho tới nay, Cục XTTM (Bộ Công Thương) đã tiếp nhận đề án của 18 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đề xuất thực hiện trong khuôn khổ chương trình XTTM quốc gia năm 2009 và 2010. Đề nghị Lãnh đạo tỉnh Bạc Liêu chỉ đạo các cấp có thẩm quyền sớm xây dựng đề án gửi Bộ Công Thương để kịp tổng hợp.

Về vấn đề thứ hai

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thu mua, tạm trữ, bảo quản hàng hoá thuỷ hải sản đông lạnh, thực hiện ý kiến của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2008 và triển khai nhiệm vụ năm 2009 của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn (Thông báo số 03/TB-VPCP ngày 5 tháng 1 năm 2009 của Văn phòng Chính phủ), hiện nay Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang triển khai xây dựng đề án thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi cho doanh nghiệp vay vốn ngân hàng xây dựng kho trữ đông để dự trữ và lưu thông thuỷ sản.

Riêng về hỗ trợ lãi suất ngân hàng đối với tạm trữ, bảo quản hàng hoá thuỷ sản đông lạnh cần được nghiên cứu giải quyết trong mối quan hệ tổng thể theo hướng ưu tiên cho các doanh nghiệp sản xuất và chế biến xuất khẩu. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Trưởng Ban chỉ đạo điều hành sản xuất và tiêu thụ cá basa, cá tra vùng đồng bằng Sông Cửu Long (BCĐ) đã có chỉ đạo tại văn bản số 1980/BNN-NTTS ngày 8 tháng 7 năm 2009 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn gửi các tỉnh ĐBSCL, đề nghị UBND tỉnh Bạc Liêu có văn bản kiến nghị cụ thể gửi Ban chỉ đạo.

Về vấn đề thứ ba

Theo Nghị định số 170/2003/NĐ-CP ngày 25 tháng 12 năm 2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Giá và Nghị định số 75/2008/NĐ-CP ngày 9 tháng 6 năm 2008 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 170/2003/NĐ-CP thì các loại vật tư nông nghiệp như phân bón hoá học, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y không thuộc danh mục hàng hoá, dịch vụ do nhà nước định giá. Giá những mặt hàng trên do tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh tự định giá và cạnh tranh về giá theo quy định của pháp luật. Song cũng theo các Nghị định này thì phân bón hoá học, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y thuộc danh mục hàng hoá, dịch vụ thực hiện việc bình ổn giá và phải đăng ký giá. Việc bình ổn giá và quản lý việc đăng ký giá theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.

Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giá, theo sự phân công của Chính phủ, thời gian qua, Bộ Công Thương đã tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định số 107/2008/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2008 quy định xử phạt hành chính các hành vi đầu cơ, găm hàng, tăng giá quá mức, đưa tin thất thiệt, buôn lậu và gian lận thương mại, đồng thời chỉ đạo lực lượng Quản lý thị trường phối hợp với các lực lượng chức năng kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm về chất lượng hàng hoá, niêm yết giá và bán theo giá niêm yết. Chi cục Quản lý thị trường các tỉnh đã và sẽ tiếp tục phối hợp với Thanh tra các Sở Nông nghiệp địa phương kiểm tra, xử lý các vi phạm về chất lượng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y ngoài danh mục đang lưu hành trên thị trường, góp phần tích cực vào việc quản lý giá cả thị trường vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp.
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
Tại Công văn số 6751/NHNN-VP ngày 01/9/2009 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trả lời ý kiến, kiến nghị cử tri tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XII như sau:

1. Các ý kiến, kiến nghị liên quan đến chính sách hỗ trợ lãi suất:

1.1. Về thủ tục vay vốn (kiến nghị của cử tri tỉnh Gia Lai, Ninh Thuận, Nam Định, Ninh Bình, Phú Thọ):

Triển khai Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 23/01/2009 và Quyết định số 443/QĐ-TTg ngày 04/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ lãi suất, Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời có các văn bản hướng dẫn cụ thể đối tượng hỗ trợ lãi suất, hồ sơ vay vốn, phương thức thực hiện, quy trình và trách nhiệm của ngân hàng và khách hàng; đồng thời chỉ đạo các đơn vị trong toàn ngành tích cực thông tin, tuyên truyền về thủ tục vay vốn hỗ trợ lãi suất đến doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ sản xuất, nhất là trên địa bàn nông thôn.

Theo Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 23/01/2009 và Quyết định số 443/QĐ-TTg ngày 04/4/2009, các ngân hàng thương mại thực hiện hỗ trợ lãi suất đối với các khoản vay ngắn hạn, trung và dài hạn của tổ chức, cá nhân theo cơ chế tín dụng thông thường. Vì vậy, hồ sơ vay vốn hỗ trợ lãi suất cũng phải có chứng từ chứng minh mục đích sử dụng vốn vay để đảm bảo việc hỗ trợ lãi suất đúng đối tượng thụ hưởng. So với hồ sơ vay vốn tín dụng thông thường, hồ sơ vay vốn hỗ trợ lãi suất chỉ bổ sung thêm Giấy đề nghị hỗ trợ lãi suất (làm 01 lần khi phát sinh khoản vay lần đầu) Giấy xác nhận số tiền lãi được hỗ trợ để làm cơ sở cho ngân hàng thương mại xác định đối tượng hỗ trợ lãi suất và hạch toán, thống kê số tiền hỗ trợ lãi suất để báo cáo Ngân hàng Nhà nước.

Kết quả kiểm tra, giám sát cho thấy chương trình hỗ trợ lãi suất phù hợp với quy định của pháp luật, đảm bảo an toàn và đáp ứng được mục tiêu thúc đẩy sản xuất – kinh doanh, ngăn chặn suy giảm kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Riêng việc triển khai cơ chế hỗ trợ lãi suất để mua máy móc thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn theo Quyết định 497/QĐ-TTg ngày 17/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ còn chậm do có một số vướng mắc như: (i) Chưa có văn bản pháp luật quy định về địa bàn nông thôn nên các ngân hàng thương mại gặp khó khăn trong việc xác định đối tượng khách hàng vay thuộc địa bàn nông thôn; (ii) Mức tiền cho vay tối đa được hỗ trợ lãi suất nhỏ hơn nhiều so với nhu cầu thực tế; (iii) Việc đăng ký của các doanh nghiệp tại Sở Công thương để được xác nhận là sản phẩm được sản xuất trong nước triển khai chậm; (iv) Việc xác nhận của Ủy ban Nhân dân cấp xã đối với đối tượng được vay vốn, hỗ trợ lãi suất theo quy định tại Quyết định 497/QĐ-TTg mất nhiều thời gian, có nơi Ủy ban Nhân dân chưa xác định rõ đối tượng vay vốn có được hỗ trợ lãi suất hay không... Hiện nay Bộ Công thương đang chủ trì nghiên cứu, trình Thủ tướng Chính phủ có biện pháp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc nêu trên.



1.2. Về sửa đổi, bổ sung Điều 2 Thông tư số 02/2009/TT-NHNN theo hướng không bắt buộc phải trả nợ cũ xong, vay lại khoản mới thì mới được hỗ trợ lãi suất (kiến nghị của cử tri tỉnh Đồng Tháp):

Điều 2, Thông tư số 02/2009/TT-NHNN ngày 3/2/2009 của Ngân hàng Nhà nước không quy định phải trả nợ cũ xong, vay lại khoản mới thì mới được hỗ trợ lãi suất. Tuy nhiên, để được vay vốn, khách hàng vay phải đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định, trong đó, điều kiện quan trọng là khách hàng vay phải có khả năng hoàn trả nợ. Nếu được tổ chức tín dụng cho vay thì khách hàng sẽ được xem xét hỗ trợ lãi suất theo quy định.



1.3. Về đối tượng hỗ trợ lãi suất:

- Về mở rộng đối tượng hỗ trợ lãi suất (kiến nghị của cử tri tỉnh Phú Thọ): Cơ chế hỗ trợ lãi suất là một trong những giải pháp kích cầu của Chính phủ nhằm giảm giá thành sản phẩm và chi phí đầu tư, duy trì và phát triển sản xuất - kinh doanh, tạo việc làm. Đến nay, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các cơ chế hỗ trợ lãi suất đối với khoản vay ngắn hạn, trung và dài hạn bằng đồng Việt Nam, các khoản vay ở khu vực nông thôn, các khoản vay của hộ nghèo và đối tượng chính sách; các khoản vay ở Ngân hàng Thương mại, Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Quỹ Đầu tư phát triển địa phương. Sau 7 tháng triển khai thực hiện, cơ chế hỗ trợ lãi suất đã góp phần chuyển biến kinh tế theo hướng tích cực (tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm 2009 đạt 3,9%, lạm phát trong 7 tháng đầu năm ở mức 3,22%, thị trường trong nước tiếp tục mở rộng, sản xuất ổn định); phần lớn các doanh nghiệp duy trì được sản xuất kinh doanh và giữ việc làm (theo khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, có 91% doanh nghiệp có thể duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh); các cân đối kinh tế vĩ mô cơ bản vẫn được giữ vững; lãi suất đã về mức của thời kỳ kinh tế ổn định. Vì vậy, hiện nay không nên mở rộng đối tượng được vay hỗ trợ lãi suất mà tập trung tổ chức thực hiện có hiệu quả, đúng pháp luật các cơ chế hỗ trợ lãi suất hiện hành.

- Về hỗ trợ lãi suất đối với khoản vay ngắn hạn bằng đồng tiền Việt Nam để sản xuất kinh doanh trước ngày 1/2/2009 (kiến nghị của cử tri tỉnh Quảng Ngãi, Ninh Bình): Mục tiêu của chính sách hỗ trợ lãi suất là hỗ trợ đối với các khoản vay để đầu tư sản xuất – kinh doanh mới nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội, do đó, tại Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 23/1/2009, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định chỉ hỗ trợ đối với những khoản vay phát sinh từ ngày 1/2/2009. Điều này cũng được Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng chỉ đạo tại văn bản số 1806/VPCP-KTTH ngày 23/3/2009 của Văn phòng Chính phủ (không được dùng nguồn vốn hỗ trợ lãi suất để hỗ trợ đối với các khoản tín dụng phát sinh trước thời điểm 01/02/2009).

- Về đề nghị bổ sung quỹ tín dụng nhân dân được hỗ trợ lãi suất theo Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 23/01/2009 và Quyết định số 333/QĐ-TTg ngày 10/3/2009 (kiến nghị của cử tri tỉnh Gia Lai, Hà Nam): Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở (QTD) có mục tiêu hoạt động chủ yếu là tương trợ giữa các thành viên, nhằm phát huy sức mạnh tập thể và từng thành viên trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống. Thành viên của QTD chủ yếu là hộ gia đình, cá nhân; những thành viên này cũng là khách hàng vay vốn của ngân hàng thương mại để sản xuất - kinh doanh và được hỗ trợ lãi suất nếu khoản vay thuộc đối tượng hỗ trợ lãi suất theo quy định của pháp luật. Do vậy, việc các QTD không tham gia hỗ trợ lãi suất không ảnh hưởng lớn đến hoạt động và tình hình tài chính của QTD.

Thực tế triển khai cơ chế hỗ trợ lãi suất cho thấy các ngân hàng thương mại phải thực hiện một khối lượng lớn công việc về xây dựng quy trình nghiệp vụ; chương trình quản lý, báo cáo; tập huấn và đào tạo; tăng cường công tác tuyên truyền; kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay để đảm bảo việc hỗ trợ lãi suất đúng quy định của pháp luật… Với điều kiện về nhân lực, cơ sở vật chất, quản trị điều hành của QTD như hiện nay, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, các tổ chức tín dụng sẽ gặp không ít trở ngại, khó khăn để thực hiện hỗ trợ lãi suất kịp thời, đúng quy định của pháp luật.

Để hỗ trợ tài chính cho các QTD, Ngân hàng Nhà nước đã trình Chính phủ cho phép miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với QTD trong năm 2009. Nếu được Chính phủ chấp thuận, Ngân hàng Nhà nước sẽ phối hợp với các bộ, ngành có liên quan hướng dẫn QTD thực hiện.

- Về đề nghị bổ sung đối tượng không thuộc hộ nghèo được hỗ trợ lãi suất để đầu tư sản xuất, chăn nuôi (kiến nghị của cử tri tỉnh Quảng Trị, Vĩnh Long, Vĩnh Phúc): Việc phân loại các đối tượng được hỗ trợ lãi suất phụ thuộc vào nhu cầu sử dụng vốn, chứ không phân theo đối tượng là hộ nghèo hay không phải hộ nghèo. Nếu hộ nông dân có nhu cầu vay vốn để sản xuất, chăn nuôi và đủ điều kiện vay vốn theo cơ chế tín dụng thông thường, thì được các ngân hàng thương mại xem xét cho vay và thực hiện hỗ trợ lãi suất theo quy định hiện hành.

1.4. Về đề nghị hướng dẫn cụ thể cho các ngân hàng thương mại về hỗ trợ lãi suất (kiến nghị của cử tri tỉnh An Giang):

Đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành đầy đủ văn bản hướng dẫn thực hiện hỗ trợ lãi suất, trong đó quy định cụ thể về đối tượng, ngành nghề được hỗ trợ; chế độ hoá đơn, chứng từ để áp dụng giải ngân… Trong quá trình triển khai thực hiện, Ngân hàng Nhà nước cũng đã có nhiều công văn giải đáp, xử lý các vướng mắc đối với từng trường hợp cụ thể. Các ngân hàng thương mại cần nghiên cứu và tiếp tục thực hiện việc cho vay hỗ trợ lãi suất theo các quy định của pháp luật hiện hành. Trường hợp gặp khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện, ngân hàng và khách hàng có thể gửi công văn hoặc liên hệ với Ngân hàng Nhà nước qua đường dây nóng để được hướng dẫn cụ thể.



1.5. Về đề nghị chuyển đủ 100% số tiền các ngân hàng thương mại đã hỗ trợ lãi suất cho khách hàng và cấp bù chi phí hoặc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các ngân hàng thương mại thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất (kiến nghị của cử tri tỉnh Ninh Bình):

Theo quy định của cơ chế hỗ trợ lãi suất, hàng tháng, Ngân hàng Nhà nước đã chuyển cho các ngân hàng thương mại, công ty tài chính từ 80% - 90% số lãi tiền vay đã hỗ trợ lãi suất, số còn lại sẽ được Ngân hàng Nhà nước chuyển cho ngân hàng thương mại sau khi nhận được báo cáo quyết toán về hỗ trợ lãi suất của ngân hàng thương mại vào cuối năm. Quy định này nhằm nâng cao trách nhiệm của các ngân hàng thương mại trong việc thực hiện cho vay hỗ trợ lãi suất.

Trong quá trình triển khai cơ chế hỗ trợ lãi suất, các ngân hàng thương mại phải trả chi phí để thực hiện một khối lượng lớn công việc như ban hành các văn bản hướng dẫn quy trình nghiệp vụ, tập huấn và đào tạo, xây dựng chương trình phần mềm quản lý và báo cáo… Tuy nhiên, kết quả hoạt động kinh doanh 6 tháng đầu năm 2009 của các ngân hàng thương mại vẫn đạt khá cao so với cùng kỳ năm 2008. Do đó, kiến nghị về việc cấp bù chi phí hoặc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các ngân hàng thương mại thực hiện hỗ trợ lãi suất là không phù hợp trong điều kiện hiện nay.

2. Các kiến nghị khác liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng:

2.1. Về đơn giản hóa thủ tục vay vốn ngân hàng (kiến nghị của cử tri tỉnh Long An, Kiên Giang, Nghệ An, Thái Nguyên, Hải Dương):

Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng do Ngân hàng Nhà nước ban hành chỉ quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc và khung pháp lý chung. Trên cơ sở đó, các tổ chức tín dụng chủ động ban hành các quy định về quy trình, thủ tục cho vay áp dụng trong đơn vị mình. Hiện nay, quy trình cho vay của ngân hàng thương mại đối với khách hàng đã có nhiều đổi mới theo hướng đơn giản hoá thủ tục, giảm bớt phiền hà cho khách hàng. Thời gian giải quyết cho vay đã được rút ngắn, khả năng thẩm định khoản vay của tổ chức tín dụng đã được nâng cao. Bên cạnh đó, các ngân hàng thương mại đã tích cực mở rộng mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch để thu hút vốn, mở rộng cho vay và cung ứng các dịch vụ cho doanh nghiệp, người dân; lập các tổ cho vay lưu động để tiếp cận và đáp ứng tốt hơn nhu cầu vay vốn của khách hàng; thực hiện công khai hoá tại trụ sở giao dịch của ngân hàng mình những thông tin cần thiết về quy trình, thủ tục vay vốn để khách hàng nắm bắt và thực hiện.



2.2. Về lãi suất (kiến nghị của cử tri tỉnh và thành phố Hải Phòng, Trà Vinh, Quảng Bình, Phú Thọ, Đăk Lăk, Cà Mau):

- Về ổn định lãi suất tiền gửi và cho vay: Điều 1, Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam, lãi suất huy động và cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng do tổ chức tín dụng ấn định và không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố. Lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước ấn định trên cơ sở cung - cầu vốn và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ, các tổ chức tín dụng điều chỉnh tăng/giảm lãi suất huy động, cho vay phù hợp với quy định của pháp luật, lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước thông báo và kế hoạch kinh doanh của mình. Từ 01/02/2009 đến nay, Ngân hàng Nhà nước liên tục duy trì lãi suất cơ bản ở mức 7,0%/năm; theo đó lãi suất huy động, lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng tối đa là 10,5%/năm.

- Về đề nghị ngân hàng thương mại cần tự động giảm lãi suất cho vay đối với các khế ước ký kết trước khi hạ lãi suất: Theo quy định hiện hành, mức lãi suất cho vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận nhưng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố từng thời kỳ (trừ trường hợp cho vay thoả thuận đối với các nhu cầu vốn phục vụ đời sống và nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng). Như vậy, tổ chức tín dụng và khách hàng có thể thoả thuận việc áp dụng lãi suất cho vay cố định hoặc lãi suất cho vay có điều chỉnh. Đối với trường hợp áp dụng lãi suất cố định, thì mức lãi suất cho vay ghi trong hợp đồng tín dụng được áp dụng trong suốt thời gian vay vốn. Đối với trường hợp áp dụng lãi suất cho vay có điều chỉnh, mức lãi suất cho vay được điều chỉnh theo từng kỳ và ghi trong hợp đồng tín dụng phù hợp với quy định hiện hành.

- Về đề nghị giảm mức lãi suất cho vay trung và dài hạn xuống 4-5%/năm: Hiện nay, lãi suất cho vay trung, dài hạn bằng VND của các ngân hàng thương mại phổ biến mức 10-10,5%/năm, sau khi được hỗ trợ lãi suất, lãi suất thực tế khách hàng trả cho ngân hàng thương mại ở mức 6 - 6,5%/năm, gần tương đương với lãi suất cho vay bằng USD (khi vay vốn bằng USD khách hàng vay có thể phải chịu rủi ro về tỷ giá). Do vậy, mức lãi suất hiện nay là phù hợp với cung - cầu thị trường và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.

- Về điều chỉnh giảm lãi suất đối với các khoản vay có lãi suất cao và áp dụng cơ chế cấp bù do điều chỉnh lãi suất: Tại Chỉ thị số 06/2008/CT-NHNN ngày 31/12/2008, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo tổ chức tín dụng xem xét điều chỉnh lãi suất cho vay của các hợp đồng tín dụng đã ký kết trước đây xuống mức lãi suất cho vay hiện hành; không phạt do quá hạn trả nợ vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá do tác động của khủng hoảng tài chính thế giới. Theo đó, các ngân hàng thương mại đã chủ động điều chỉnh giảm lãi suất cho vay đối với các khoản vay phát sinh trước ngày 01/01/2009 với mức giảm khá lớn: từ 16-18%/năm xuống 12,5%/năm và từ ngày 16/4/2009 giảm xuống 10,5%/năm; đồng thời không phạt do quá hạn trả nợ vay đối với doanh nghiệp và hộ sản xuất. Việc xem xét điều chỉnh lãi suất cho vay còn phụ thuộc vào khả năng tài chính của ngân hàng thương mại, Chính phủ không có cơ chế cấp bù cho số tiền chênh lệch do điều chỉnh giảm lãi suất cho vay.

- Về giảm lãi suất các khoản vốn vay trung, dài hạn hoặc khoanh nợ, giãn nợ cho doanh nghiệp và hộ nông dân gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh như đóng tàu, nuôi tôm…: Luật Các tổ chức tín dụng và các quy định pháp luật hiện hành không quy định việc các tổ chức tín dụng được thực hiện khoanh nợ đối với khách hàng, trường hợp đặc biệt phải do Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định và Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn tổ chức thực hiện.

Tuy nhiên, để giảm bớt khó khăn cho khách hàng gặp khó khăn về tài chính không trả được các khoản nợ đến hạn, Ngân hàng Nhà nước cho phép tổ chức tín dụng, trong các trường hợp cụ thể, được quyền xem xét, quyết định cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi tiền vay (Quyết định số 783/2005/QĐ-NHNN ngày 31/5/2005 của Ngân hàng Nhà nước). Do đó, nếu khách hàng có khó khăn về tài chính, chưa trả được nợ vay ngân hàng đến hạn, có thể làm việc trực tiếp với ngân hàng thương mại để được xem xét cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi tiền vay theo cơ chế tín dụng hiện hành.



- Về hiện tượng khi vay vốn phải đóng trước lãi suất 6 tháng: Theo quy định tại Khoản 1, Điều 3, Quy định phương pháp tính và hạch toán, thu trả lãi của Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng (ban hành kèm theo Quyết định số 652/QĐ-NHNN ngày 17/5/2001 của Ngân hàng Nhà nước), việc tính thu, trả lãi phụ thuộc vào hình thức huy động vốn, hình thức cho vay hay đầu tư do tổ chức tín dụng quy định hoặc thỏa thuận với khách hàng (nếu có). Có 3 cách tính thu, trả lãi là: (i) tính thu, trả lãi theo định kỳ; (ii) tính thu, trả lãi trước; (iii) tính thu, trả lãi sau.

Hiện nay, hầu hết các tổ chức tín dụng áp dụng cách tính thu, trả lãi theo định kỳ hoặc sau (các kỳ hạn trả lãi cùng với kỳ hạn trả nợ gốc hoặc theo kỳ hạn riêng theo tháng, quý hoặc vụ). Nhưng, cũng có trường hợp khách hàng và ngân hàng thỏa thuận áp dụng cách tính thu, trả lãi trước. Như vậy, hình thức thu, trả lãi trước không vi phạm quy định về tính, thu và trả lãi hiện hành. Tuy nhiên, dù áp dụng hình thức thu và trả lãi nào thì cũng phải dựa trên cơ sở thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng khi ký kết hợp đồng tín dụng. Trường hợp ngân hàng vi phạm các thỏa thuận của hợp đồng tín dụng đã ký kết, khách hàng có quyền khiếu nại với cơ quan chức năng để xử lý theo pháp luật.



- Về hiện tượng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn lấy lãi suất cộng vào vốn vay để tính lãi: Theo quy định tại Điều 9, Quyết định số 652/2001/QĐ-NHNN ngày 17/5/2001 của Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy định phương pháp tính và hạch toán thu, trả lãi của Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng, số tiền làm căn cứ để tính lãi là số tiền thực tế đã cho khách hàng vay. Việc ngân hàng thương mại cộng thêm số lãi phải trả của khách hàng để làm căn cứ tính lãi là không phù hợp với quy định hiện hành. Về vấn đề này, Ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh Cà Mau kiểm tra, xác minh, làm rõ. Kết quả kiểm tra cho thấy đây là hiện tượng xảy ra từ những năm trước và đã được Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Cà Mau phát hiện, chấn chỉnh kịp thời, hiện nay không còn phát sinh hiện tượng này. Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh Cà Mau tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động tín dụng trên địa bàn, đảm bảo việc tính, thu và trả lãi vay ngân hàng đúng quy định.

2.3. Về xử lý nợ vay đối với hộ nông dân bị thiệt hại do thiên tai và các doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm (kiến nghị của cử tri tỉnh Bình Định):

Thực hiện chủ trương kích cầu nhằm ngăn chặn tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu, ngày 31/12/2008, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Chỉ thị số 06/2008/CT-NHNN về thực hiện các biện pháp nhằm góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh, lưu thông hàng hóa, ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, theo đó, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện đồng bộ một số giải pháp đối với khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng, như: cơ cấu lại thời hạn trả nợ, xem xét miễn giảm lãi theo quy định, không phạt nợ quá hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, để tạo điều kiện cho các hộ nông dân, các doanh nghiệp vượt qua khó khăn.

Bên cạnh đó, để triển khai thực hiện Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28/10/2008 của Chính phủ về việc ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Ngân hàng Nhà nước đang chủ trì xây dựng Nghị định về chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn nhằm tạo cơ chế đồng bộ để khuyến khích các tổ chức tín dụng đẩy mạnh cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.

2.4. Về hỗ trợ vay vốn cho người nông dân sản xuất chè với mức vay từ 30 triệu đồng trở lên/ha, lãi suất ưu đãi và thời gian vay từ 3 năm trở lên (kiến nghị của cử tri tỉnh Thái Nguyên):

Theo quy định tại Quyết định số 131/2009/QĐ-TTg ngày 23/01/2009 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư số 02/2009/TT-NHNN ngày 03/02/2009 của Ngân hàng Nhà nước, thì các tổ chức, cá nhân, trong đó có người nông dân vay vốn sản xuất chè (dưới 12 tháng) bằng đồng Việt Nam được hỗ trợ 4%/năm lãi suất vay vốn, thời gian hỗ trợ lãi suất tối đa là 08 tháng, kể từ ngày giải ngân, áp dụng trong năm 2009 đối với các khoản vay theo hợp đồng tín dụng được ký kết và giải ngân trong khoảng thời gian từ ngày 01/02 đến ngày 31/12/2009.

Mức vốn cho vay tuỳ thuộc vào chi phí thực tế tính trên 01 ha tại thời điểm vay vốn, thời hạn cho vay căn cứ vào chu kỳ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu vay vốn để sản xuất chè cần trực tiếp liên hệ với ngân hàng thương mại tại địa phương để được xem xét cho vay và hỗ trợ lãi suất theo quy định hiện hành của pháp luật.

2.5. Về tăng thời gian vay đối với dự án phát triển chăn nuôi, dự án có tính chất dài hạn như đánh bắt hải sản xa bờ và chế biến nước mắm (kiến nghị của cử tri tỉnh Bắc Giang, Kiên Giang):

Theo Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, tổ chức tín dụng được quyền xem xét quyết định cho khách hàng vay theo 3 thể loại: cho vay ngắn hạn (thời hạn đến 12 tháng), cho vay trung hạn (thời hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng) và cho vay dài hạn (thời hạn từ trên 60 tháng trở lên). Việc cho vay ngắn hạn, trung hạn, hay dài hạn do tổ chức tín dụng quyết định căn cứ vào đơn xin vay, chu kỳ sản xuất, kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và nguồn vốn cho vay của tổ chức tín dụng. Do đó, khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng cần đề xuất cụ thể phương án sản xuất kinh doanh, quy trình sản xuất, thời gian thu hồi vốn để tổ chức tín dụng có căn cứ xác định thời hạn cho vay phù hợp.



2.6. Về đề nghị có hướng dẫn cụ thể việc bảo lãnh của các ngân hàng Việt Nam với các doanh nghiệp để doanh nghiệp vay vốn nước ngoài và tăng cường hoạt động bảo lãnh tín dụng (kiến nghị của cử tri thành phố Hải Phòng, tỉnh Lạng Sơn):

Ngày 26/6/2006, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã có Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN về việc ban hành Quy chế bảo lãnh ngân hàng. Theo Quy chế này, các ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước cho phép hoạt động thanh toán quốc tế được thực hiện bảo lãnh cho doanh nghiệp để vay vốn nước ngoài. Trình tự và thủ tục cấp bảo lãnh do các ngân hàng quy định.

Ngoài ra, doanh nghiệp còn có thể tiếp cận bảo lãnh tín dụng theo 2 quy định sau:

- Bảo lãnh tín dụng từ Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại các tỉnh, thành phố (Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa). Đây là tổ chức tài chính hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, đảm bảo hoàn vốn và bù đắp chi phí. Những đối tượng được Quỹ này bảo lãnh gồm: Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được xếp vào loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật; hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, hộ gia đình kinh doanh cá thể theo quy định tại Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3/2/2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh; chủ trang trại, hộ nông dân, ngư dân… thực hiện dự án nuôi thủy sản, đánh bắt xa bờ, trồng cây công nghiệp, chăn nuôi.

- Bảo lãnh tín dụng của Ngân hàng Phát triển Việt Nam (theo quy định tại Quyết định số 14/2009/QĐ-TTg ngày 21/1/2009 và Quyết định số 60/2009/QĐ-TTg ngày 17/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế bảo lãnh doanh nghiệp): Đối tượng được bảo lãnh gồm các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, kể cả hợp tác xã, có vốn điều lệ tối đa 20 tỷ đồng hoặc sử dụng dưới 1.000 lao động vay vốn của ngân hàng thương mại hoạt động hợp pháp tại Việt nam để thực hiện dự án đầu tư sản xuất kinh doanh (vay vốn đầu tư tài sản cố định); phương án sản xuất kinh doanh (vay vốn lưu động) phù hợp với quy định của pháp luật. Ngân hàng Nhà nước cũng đã ban hành Thông tư số 12/2009/TT-NHNN ngày 28/5/2009 hướng dẫn một số nội dung thực hiện bảo lãnh nêu trên của Ngân hàng Phát triển Việt Nam.

Do đó, các tổ chức, cá nhân có nhu cầu bảo lãnh tín dụng, đề nghị liên hệ trực tiếp với tổ chức tín dụng, Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại các tỉnh, thành phố hoặc Ngân hàng Phát triển Việt Nam chi nhánh tỉnh, thành phố để được hướng dẫn cụ thể.



2.7. Về phản ảnh tình trạng gây nhũng nhiễu của cán bộ tín dụng ngân hàng khi cho dân vay vốn phát triển sản xuất nông nghiệp vẫn còn tiếp diễn (kiến nghị của cử tri tỉnh Đắk Lắk):

Để đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn, hiệu quả, thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước, bên cạnh việc bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các sai phạm của tổ chức tín dụng; đã quan tâm, chỉ đạo các tổ chức tín dụng tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ, viên chức và người lao động; yêu cầu các tổ chức tín dụng phải công khai, minh bạch các quy định, thủ tục trong quan hệ với ngân hàng, nhất là trình tự, thủ tục vay vốn, … nhằm chống gây phiền hà, quan liêu, sách nhiễu; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ và xử lý nghiêm minh các hành vi tiêu cực.

Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, viên chức của các tổ chức tín dụng có phong cách và thái độ làm việc nghiêm túc, được khách hàng đánh giá tốt. Tuy nhiên, cũng còn một số ít cán bộ, trong đó có cán bộ tín dụng thực hiện chưa nghiêm túc các quy định của tổ chức tín dụng, gây phiền hà nhũng nhiễu đối với khách hàng. Để có cơ sở chấn chỉnh, xử lý các trường hợp này, Ngân hàng Nhà nước đề nghị cử tri cung cấp thông tin cụ thể tên, địa chỉ của cán bộ tín dụng có hành vi nhũng nhiễu để Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam kiểm tra và xử lý.

3. Các kiến nghị liên quan đến đồng tiền Việt Nam:

3.1. Về đề nghị nghiên cứu, sớm có giải pháp khắc phục chất lượng tiền Polymer, tiền xu và hiện tượng tiền Polymer mệnh giá 500.000 đồng và 20.000 đồng tương đối giống nhau nên dễ gây nhầm lẫn trong tiêu dùng (kiến nghị của cử tri tỉnh Ninh Thuận):

Nhằm tăng cường khả năng chống giả và độ bền, sạch của đồng tiền, từ năm 2003 đến năm 2006, Ngân hàng Nhà nước đã phát hành vào lưu thông bộ tiền polymer gồm 6 mệnh giá, được in trên chất liệu polymer, cài đặt nhiều yếu tố bảo an có khả năng chống giả cao, dễ kiểm tra nhận biết. Ngoài ra, để tránh nhầm lẫn giữa các mệnh giá, Ngân hàng Nhà nước đã thiết kế mỗi mệnh giá có kích thước, màu sắc khác nhau và dễ dàng nhận biết bằng mắt thường. Cụ thể, loại mệnh giá 500.000 đồng có kích thước 152 cm x 65 cm, màu lơ tím sẫm; loại mệnh giá 20.000 đồng có kích thước 136 cm x 65 cm, màu xanh lơ đậm. Như vậy, có thể dễ dàng phân biệt được tờ mệnh giá 500.000 đồng và 20.000 đồng cũng như phân biệt được với các tờ mệnh giá khác qua màu sắc, kích thước, cụm số mệnh giá và dòng chữ mệnh giá.



- Về chất lượng tiền polymer: Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp với cơ quan chức năng (Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an; Viện vệ sinh dịch tễ Trung ương) phân tích, đánh giá chất lượng tiền polymer về độ bền, sạch và khả năng chống giả. Kết quả cho thấy đồng tiền polymer có tuổi thọ và khả năng chống giả cao hơn tiền cotton; tiền polymer sạch, không bám bẩn, không hấp thụ tạp chất, vi khuẩn như tiền cotton. Ngoài các ưu điểm trên, tiền polymer có đặc điểm là chịu nhiệt kém, Ngân hàng Nhà nước khuyến nghị người sử dụng tiền không dùng bàn là để là tiền polymer, không để tiền polymer gần lửa. Thực tế, các đồng tiền này đã lưu thông được 3 năm, việc đồng tiền bị nhàu, mòn mực là hiện tượng khách quan (tiền cotton chỉ có tuổi thọ 1,5 năm). Tuy nhiên, với trách nhiệm của mình, Ngân hàng Nhà nước đang tiếp tục nghiên cứu các khâu trong quy trình thiết kế và in ấn nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng của các đồng tiền trong lưu thông.

- Về chất lượng tiền kim loại: Sau một thời gian phát hành tiền kim loại vào lưu thông, thực tế cho thấy các đồng tiền mệnh giá 5.000 đồng, 500 đồng và 200 đồng đảm bảo chất lượng tốt; riêng đồng tiền 2.000 đồng và 1.000 đồng nhanh bị xỉn màu do chất liệu để đúc 2 loại đồng tiền này là thép mạ đồng kẽm dễ bị ô xy hóa. Để nâng cao chất lượng của 2 đồng tiền này, Ngân hàng Nhà nước đã trình và được Chính phủ phê duyệt phương án thay đổi chất liệu lớp mạ (sử dụng chất liệu thép mạ đồng thiếc).

3.2. Về đề nghị có giải pháp tránh thiệt thòi cho nông dân do không phân biệt được mà sử dụng tiền giả, có biện pháp hữu hiệu hơn, tăng nặng khung hình phạt đối với đối tượng vi phạm khi sản xuất, mua bán và cố tình lưu hành tiền giả trên thị trường (kiến nghị của cử tri tỉnh Vĩnh Long, Tây Ninh):

Luật pháp Việt Nam quy định Nhà nước không bồi hoàn cho người có tiền giả bị thu giữ vì tiền giả không phải là đồng tiền do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành và không được pháp luật thừa nhận. Đây cũng là nguyên tắc được áp dụng tại tất cả các nước trên thế giới. Do đó, người dân cần nắm được cách nhận biết tiền giả, tiền thật để tránh rủi ro và góp phần phát hiện, ngăn chặn tội phạm tiền giả.

Nhằm hạn chế rủi ro về tiền giả và tổn thất không đáng có cho người sử dụng tiền, Ngân hàng Nhà nước đã thường xuyên tăng cường các hình thức hướng dẫn về cách nhận biết tiền thật, tiền giả như đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, phát hành tờ rơi, niêm yết áp phích trước quầy giao dịch các NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố, các tổ chức tín dụng và các đơn vị có hoạt động ngân hàng. Đặc biệt, trong năm 2008, Ngân hàng Nhà nước đã phát hành thí điểm cuốn tài liệu “Tiền Việt Nam và cách nhận biết” ở 7 tỉnh biên giới phía Bắc; dự kiến trong 3 năm tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ phát hành cuốn tài liệu này đến các hộ gia đình ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa trên toàn quốc. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước luôn chủ động phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành liên quan trong công tác đấu tranh ngăn chặn, phòng chống tội phạm tiền giả; tiếp tục nghiên cứu áp dụng các biện pháp công nghệ nhằm nâng cao khả năng chống làm giả của đồng tiền Việt Nam.

Điều 180, Bộ Luật Hình sự Việt Nam quy định hình phạt đối với các tội danh làm tiền giả, vận chuyển, tàng trữ, lưu hành, mua, bán tiền giả, như sau: phạt tù từ ba năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân tùy theo mức độ phạm tội; người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 03/QĐ-TTg ngày 2/1/2009 phê duyệt Đề án “Nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, séc giả, ngân phiếu giả, công trái giả và các giấy tờ có giá giả khác”. Việc triển khai Đề án này sẽ tăng cường hơn nữa công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm liên quan đến tiền giả và các giấy tờ có giá giả khác.



4. Các kiến nghị khác:

4.1. Về đề nghị quan tâm, điều chỉnh tỷ giá hợp lý để doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh với doanh nghiệp các nước khác (kiến nghị của cử tri thành phố Hải Phòng, tỉnh Lạng Sơn):

Ngân hàng Nhà nước chủ trương điều hành chính sách tỷ giá theo hướng linh hoạt có điều tiết, dựa trên tín hiệu thị trường nhưng duy trì sự ổn định tương đối của tỷ giá nhằm góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô, trong đó có mục tiêu khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập siêu. Với mục tiêu khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, trong điều hành tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước phải cân nhắc thận trọng các yếu tố, nhất là trong điều kiện hàng xuất khẩu của Việt Nam có tỷ trọng hàng nhập khẩu kết tinh bên trong ở mức cao (chiếm 60 – 70% trong các mặt hàng gia công xuất khẩu chủ lực). Mặt khác, điều hành tỷ giá phải đặt trong mối quan hệ hài hòa với các cân đối vĩ mô của nền kinh tế, đặc biệt là khả năng trả nợ nước ngoài.

Nếu thực hiện phá giá đồng nội tệ thiếu thận trọng sẽ dẫn tới những tác động tiêu cực đối với cán cân thương mại do mức tăng xuất khẩu và giảm nhập khẩu khi phá giá đồng nội tệ sẽ không đủ bù đắp cho việc phải trả giá đắt cho hàng nhập khẩu. Bên cạnh đó, đồng nội tệ giảm giá có thể trực tiếp làm tăng mặt bằng giá trong nước thông qua giá hàng nhập khẩu, cũng như gián tiếp làm tăng áp lực lạm phát thông qua tăng chi phí sản xuất đầu vào dẫn tới tăng giá thành sản phẩm đầu ra. Mặt khác, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam chủ yếu cạnh tranh với các nước trong khu vực Châu Á, Thái Bình Dương. Trong thời gian qua, tỷ giá VND được duy trì ở mức ổn định và giảm giá nhẹ trong khi đồng tiền của các nước khác lên giá so với USD nên thực chất đã có tác dụng nâng cao tính cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam so với các nước khác trong khu vực.

4.2. Về đề nghị xem xét giảm hoặc không thu các loại phí dịch vụ ngân hàng; không nên thu phí sử dụng thẻ ATM đối với người hưởng lương vì ngân hàng đã hưởng lợi rất lớn từ tiền gửi với lãi suất thấp của người sử dụng thẻ (kiến nghị của cử tri thành phố Hải Phòng, An Giang):

Để cung cấp các dịch vụ, tiện ích ngân hàng, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, các ngân hàng thương mại phải đầu tư vốn lớn cho việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật công nghệ và chi phí để vận hành, quản lý hoạt động nghiệp vụ. Các ngân hàng thương mại là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng nên mục tiêu hoạt động của các ngân hàng cũng giống như các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực khác là phải đảm bảo bù đắp chi phí và có lãi. Vì vậy, việc ngân hàng thu phí đối với một số dịch vụ, tiện ích ngân hàng được pháp luật cho phép để duy trì hoạt động nghiệp vụ của mình là hợp lý. Đây cũng là thông lệ chung trong hoạt động ngân hàng của các nước trong khu vực và trên thế giới.

Đối với dịch vụ ATM, các ngân hàng cũng phải đầu tư số vốn lớn để mua máy móc, thiết bị và tốn thêm nhiều chi phí để duy trì hoạt động của ATM. Trong khi đó, các ngân hàng không được sử dụng toàn bộ nguồn tiền nhàn rỗi trên tài khoản tiền gửi của chủ thẻ, vì phải dự trữ một lượng tiền nhất định tại chi nhánh, quầy giao dịch và máy ATM để đáp ứng nhu cầu rút tiền của chủ thẻ. Thực tế hiện nay, các ngân hàng mới chỉ thu phí đối với giao dịch ngoại mạng (chủ thẻ giao dịch tại máy ATM của ngân hàng khác). Nguồn thu này không đủ bù đắp chi phí duy trì hoạt động của hệ thống ATM nên phần lớn các ngân hàng chưa có lãi từ nghiệp vụ phát hành thẻ. Điều này sẽ ảnh hưởng đến động lực phát triển mạng lưới và nâng cao chất lượng dịch vụ ATM của các ngân hàng.

Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đang dự thảo quy định về phí giao dịch ATM và sẽ lưu ý đối với nhóm chủ thẻ hưởng lương từ ngân sách nhà nước để có quy định phù hợp.



Каталог: UserControls -> ckfinder -> userfiles -> files
files -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> Phụ lục số 1 danh mục các văn bản hưỚng dẫn thi hành pháp luật về giao thôNG
files -> PHỤ LỤC 1 KẾt quả XỬ LÝ ĐƠN, thư CỦa uỷ ban tư pháp từ sau kỳ HỌp thứ SÁU ĐẾn truớc kỳ HỌp thứ BẢy quốc hội khóa XII
files -> Phần I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
files -> II. Các kiến nghị về chính sách đối với giáo viên
files -> BÁo cáo việc thực hiện chính sách, pháp luật về thành lập trường, đầu tư và đảm bảo chất lượng đào tạo trong giáo dục đại học
files -> ĐỀ ÁN ĐỔi mới cơ chế TÀi chính giáo dục giai đOẠN 2009-2014

tải về 3.4 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   23   24   25   26   27   28   29   30   ...   43




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương