UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ SÁU quốc hội khoá XII



tải về 3.4 Mb.
trang26/43
Chuyển đổi dữ liệu07.07.2016
Kích3.4 Mb.
#1536
1   ...   22   23   24   25   26   27   28   29   ...   43

28. Cử tri tỉnh Quảng Bình kiến nghị:

Đề nghị Chính phủ quan tâm hơn nữa đến thị trường bán lẻ ở nông thôn. Hiện nay hàng hoá nước ngoài đang chiếm lĩnh thị trường này. Nhà nước cần có những chính sách giải pháp giúp nông dân tiêu thụ sản phẩm nông sản.


Trả lời: (tại Công văn số 8405/BCT-KH ngày 26/8/2009)

1. Các chính sách, giải pháp đã ban hành nhằm phát triển thị trường bán lẻ nông thôn và tiêu thụ nông sản hàng hóa

Cùng với tiến trình đổi mới về kinh tế, sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với thị trường nội địa, đặc biệt là thị trường nông thôn ngày càng rõ nét.

Từ giữa những năm 1990, trên cơ sở xác định vai trò quan trọng của hoạt động thương mại và thị trường nội địa, trong đó có thị trường nông thôn, Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) đã nghiên cứu xây dựng, trình Bộ Chính trị và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, ban hành nhiều văn có liên quan đến đổi mới tổ chức, phát triển thị trường nội địa, trong đó có thị trường bán lẻ nông thôn cũng như tiêu thụ nông sản hàng hóa như:

- Nghị quyết số 12/NQ-TW ngày 03 tháng 01 năm 1996 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động thương nghiệp, phát triển thị trường theo định hướng XHCN”;

- Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg của ngày 24 tháng 6 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng.

- Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2003 về phát triển và quản lý chợ và Quyết định số 559/QĐ-TTg ngày 31 tháng 5 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển chợ đến năm 2010 và nhiều văn bản khác làm cơ sở cho việc triển khai Chương trình này.

- Quyết định số 311/QĐ-TTg ngày 20 tháng 3 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án “Tiếp tục tổ chức thị trường trong nước, tập trung phát triển thương mại nông thôn đến năm 2010”;

- Chỉ thị số 13/2004/CT-TTg ngày 31 tháng 3 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển mạnh thị trường nội địa;

- Quyết định số 27/2007/QĐ-TTg ngày 15 tháng 02 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển thương mại trong nước đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.

- Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo. Theo đó, ngân sách nhà nước hỗ trợ 50% lãi suất tiền vay tại ngân hàng thương mại nhà nước để phát triển sản xuất nông nghiệp, đầu tư cơ sở chế biến, bảo quản và tiêu thụ nông sản ở các huyện nghèo; hỗ trợ mỗi huyện nghèo 100 triệu đồng/năm để xúc tiến thương mại, quảng bá, giới thiệu sản phẩm, nhất là nông, lâm, thuỷ đặc sản của địa phương; thông tin thị trường cho nông dân.

- Quyết định số 3581/QĐ-BCT ngày 15 tháng 7 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Công Thương phê duyệt Chương trình xúc tiến thương mại thị trường trong nước năm 2009 và Thông tư số 21/2009/BCT-TT quy định việc xây dựng và hỗ trợ thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại thị trường trong nước năm 2009. Trong đó các hoạt động như: tổ chức các hội chợ hàng nông sản, sản phẩm làng nghề phía Nam và phía Bắc; và hoạt động đưa hàng Việt về nông thôn, khu công nghiệp và khu đô thị sẽ được ngân sách nhà nước hỗ trợ từ 70 - 100% kinh phí thực hiện.

Thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật này, từ năm 2003 - 2007, trên phạm vi cả nước đã có hơn 1.192 chợ được xây mới và 1.241 chợ được cải tạo, nâng cấp với tổng nguồn vốn đầu tư là 6.187,4 tỷ đồng, trong đó, ngân sách Trung ương hỗ trợ 648,5 tỷ đồng, ngân sách địa phương chi ra 1.906,5 tỷ đồng, doanh nghiệp và hộ kinh doanh đóng góp 3.111,6 tỷ đồng, còn lại là huy động từ các nguồn khác.

2. Định hướng và giải pháp giúp nông dân tiêu thụ nông sản hàng hóa:

Triển khai Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28 tháng 10 năm 2008 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung Đảng khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Thủ tướng Chính phủ đã giao cho Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng Đề án “Phát triển thương mại nông thôn giai đoạn 2009-2015 và định hướng đến năm 2020”. Trong đó có đề cập đến định hướng tổ chức và giải pháp phát triển hệ thống phân phối mặt hàng nông sản, vật tư nông nghiệp, hàng công nghiệp tiêu dùng và tổ chức hệ thống chợ… ở địa bàn nông thôn. Sau đây là một số định hướng và giải pháp giúp nông dân tiêu thụ nông sản hàng hóa:

2.1. Định hướng

- Đối với những vùng sản xuất hàng nông sản tập trung, cần hình thành các kênh tiêu thụ chủ lực, cấp độ lớn với sự tham gia của các doanh nghiệp nòng cốt (trước hết là doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá, trong đó Nhà nước nắm cổ phần chi phối), với vai trò đầu tàu, có nguồn lực mạnh (về nguồn vốn, cơ sở phơi sấy, hệ thống kho bảo quản, phương tiện vận tải...) và thị trường tiêu thụ rộng, ổn định. Tham gia vào kênh này còn có các doanh nghiệp khác thuộc các thành phần kinh tế, các HTX và liên hiệp HTX thương mại, hộ kinh doanh và đội ngũ thương lái, hệ thống đại lý và các chợ đầu mối nông sản cấp vùng và cấp tỉnh. Các chợ đầu mối này được coi là bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống thị trường nông sản, với chức năng tập trung hàng hoá, cung cấp thông tin và hình thành giá cả, đảm bảo cung ứng hàng nông sản đạt tiêu chuẩn, chất lượng cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (từ các chợ đầu mối này, hàng nông sản cung ứng cho thị trường thành thị thông qua các chợ truyền thống (được nâng cấp, cải tạo từng bước), hệ thống các loại hình tổ chức bán lẻ hiện đại (như siêu thị, cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng tiện lợi) vận doanh theo chuỗi.

- Đối với những vùng sản xuất nông sản chưa phát triển, chủ yếu đáp ứng nhu cầu tiêu thụ nội địa, cần tạo lập kênh lưu thông ở cấp độ vừa và nhỏ, tương ứng với qui mô cung cầu của thị trường, với sự tham gia của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, các HTX thương mại, hộ kinh doanh... hàng nông sản được tiêu thụ chủ yếu thông qua chợ, các loại hình cửa hàng truyền thống (ở địa bàn xã) và hiện đại (ở thị trấn, thị tứ).

- Đối với các vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông sản, hướng tổ chức lại kênh này là xây dựng mối liên kết giữa hộ nông dân, HTX thương mại với cơ sở sản xuất - chế biến, giữa cơ sở sản xuất chế biến với doanh nghiệp thương mại, từ đó qua mạng lưới phân phối bán buôn của doanh nghiệp sản xuất- chế biến hoặc của doanh nghiệp thương mại để hàng hoá tiếp tục đi đến tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Doanh nghiệp chế biến tạo điều kiện để các hộ sản xuất, xã viên các HTX thương mại tại các vùng sản xuất nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông sản được mua cổ phẩn trong các công ty cổ phần hoặc doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá.

2.2. Giải pháp

Đi đối với việc hoàn thiện chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại nhằm mở rộng thị trường, quảng bá nông sản, cần tập trung mở rộng và nâng cao hiệu quả liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp, HTX, hộ kinh doanh với nông dân thông qua hợp đồng tiêu thụ sản phẩm và các phương thức phù hợp khác:

- Trên cơ sở tổng kết, đánh giá việc thực hiện Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg của ngày 24 tháng 6 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng, kiến nghị Chính phủ cho xây dựng và ban hành Nghị định về chính sách tiêu thụ nông sản để thay thế Quyết định 80 nêu trên.

- Các cơ quan chức năng cung cấp thường xuyên cho nguời sản xuất và doanh nghiệp thông tin về thị trường, giá cả hàng nông sản, giá một số vật tư thiết yếu đối sản xuất nông nghiệp là một giải pháp quan trọng nhằm tạo điều kiện cho nhà sản xuất và doanh nghiệp có thông tin đầy đủ hơn khi ký kết hợp đồng kinh tế.

- Việc tiêu thụ hàng nông sản giữa doanh nghiệp xuất khẩu nông sản thông qua hợp đồng với nông dân được ký kết với nhiều đối tượng khác nhau (qua HTX, qua công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân, qua trưởng thôn, qua UBND xã, thị trấn, qua hộ kinh doanh…). Căn cứ vào đặc điểm từng loại hàng nông sản xuất khẩu, cũng như tình hình thị trường xuất khẩu, khả năng, điều kiện của đối tượng tham gia ký kết hợp đồng mà doanh nghiệp xuất khẩu quyết định lựa chọn đối tượng ký hợp đồng phù hợp.



- Để giải quyết những vướng mắc giữa người sản xuất và doanh nghiệp trong việc thực hiện hợp đồng tiêu thụ nông sản cho nông dân có thể thực hiện đồng thời nhiều giải pháp, trong đó chú trọng các giải pháp về kinh tế nhằm bảo đảm lợi ích hài hoà giữa người sản xuất và doanh nghiệp. Đồng thời cần thực hiện một số giải pháp như tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục và có chế tài phù hợp để xử lý các trường hợp vi phạm hợp đồng, nhất là trường hợp vi phạm do nông dân gây ra.

- Về phía doanh nghiệp, cần quan tâm giúp người nông dân trong cả quá trình từ sản xuất đến tiêu thụ nông sản như định hướng sản xuất (trên cơ sở tìm hiểu và xác định nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước); cung cấp cho người sản xuất giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao và thị trường có nhu cầu; giúp nông dân về kỹ thuật sản xuất, chăm sóc và bảo quản, chế biến nông sản sau thu hoạch… nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành hàng nông sản…

- Có thể thực hiện một số phương thức hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hoá cho nông dân. Mỗi phương thức có hợp đồng riêng, quy định rõ các điều kiện để ràng buộc quyền và nghĩa vụ gắn với lợi ích giữa các đối tượng tham gia. Thứ nhất, phương thức hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hoá với giá sàn tối thiểu và có điều chỉnh theo sự biến động giá cả trên thị trường theo hướng có lợi cho nông dân. Thứ hai, phương thức hợp đồng đầu tư ứng trước vốn, vật tư, kỹ thuật cho sản xuất và bao tiêu nông sản làm ra với giá cố định theo nguyên tắc “được cùng hưởng, thua cùng chịu”.

- Ngoài ra, áp dụng phương thức mua bán theo đơn đặt hàng và mua bán qua đại lý để củng cố mối liên kết giữa doanh nghiệp, HTX, hộ kinh doanh và nông dân. Doanh nghiệp đặt mua nông sản của nông dân và ngược lại, nông dân đặt mua vật tư, hàng tiêu dùng của doanh nghiệp. Mạng lưới đại lý của doanh nghiệp vừa mua nông sản, vừa bán vật tư và hàng tiêu dùng cho nông dân.

- Tập trung rà soát và hoàn chỉnh các cơ chế, chính sách về đầu tư, tín dụng, bảo hiểm, thưởng để doanh nghiệp có điều kiện củng cố và mở rộng các cơ sở kinh doanh, bảo đảm đủ tiền hoặc quĩ vật tư và hàng hoá ứng trước, hỗ trợ và chuyển giao kỹ thuật, thanh toán tiền hàng cho các bên thực hiện hợp đồng và các bên nhận làm đại lý. Ngoài ra, cần có các chính sách cụ thể khác để khuyến khích doanh nghiệp, HTX, hộ kinh doanh tích cực tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng (những chính sách này không vi phạm qui định cấm của WTO như hỗ trợ người sản xuất trong việc nâng cao trình độ và kỹ năng sản xuất, áp dụng khoa học, kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất để nâng cao chất lượng và hạ giá thành nông sản…).

Hiện nay, theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải (tại công văn số 4068/VPCP-KHTH ngày 17 tháng 6 năm 2009) sau khi xem xét Tờ trình Đề án này, Bộ Công Thương đang phối hợp với Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tổ chức đoàn công tác làm việc với Sở Công Thương và Liên minh Hợp tác xã một số tỉnh đại diện cho các vùng, miền (đồng bằng sông Cửu Long, miền núi phía Bắc, đồng bằng Bắc Bộ và miền Trung) tiến hành nghiên cứu xây dựng mô hình thí điểm về tiêu thụ nông sản và cung ứng vật tư phục vụ sản xuất cho khu vực nông thôn nhằm hoàn thiện Đề án này để trình Thủ tướng Chính phủ trong quý III năm 2009.



29. Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị:

Đề nghị Chính phủ có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện các biện pháp đẩy mạnh xúc tiến thương mại và hỗ trợ cho các doanh nghiệp có hợp đồng xuất khẩu; các doanh nghiệp nhập thiết bị, máy móc hạ giá để đổi mới, nâng cao năng lực sản xuất.

Trả lời: (tại Công văn số 8197/BCT-KH ngày 20/8/2009)

Năm 2009, trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu, khó khăn lớn nhất mà doanh nghiệp phải đối mặt là tìm đầu ra cho sản phẩm xuất khẩu. Vì vậy, hoạt động xúc tiến thương mại được coi là một biện pháp quan trọng để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp giữ vững và mở rộng thị trường xuất khẩu. Bộ Công Thương đã phối hợp với các Hiệp hội ngành hàng tăng cường hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu sang các khu vực ít bị tác động của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế theo hướng xúc tiến theo từng ngành hàng, từng hợp đồng xuất khẩu lớn, khuyến khích tiêu dùng hàng nội địa; bổ sung, hỗ trợ nguồn kinh phí cho công tác xúc tiến xuất khẩu và khai thác thị trường nội địa. Bộ Công Thương cũng đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 80/2009/QĐ-TTg ngày 21 tháng 5 năm 2009 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia giai đoạn 2006-2010 (theo Quyết định số 279/2005/QĐ-TTg ngày 3 tháng 11 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ). Quyết định 80 đã bổ sung một số nội dung chính sau:

- Bổ sung một số cơ quan xúc tiến thương mại địa phương được làm đơn vị chủ trì Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, tạo điều kiện để các cơ quan này chủ động tổ chức một số hoạt động xúc tiến thương mại quốc gia với quy mô vùng miền để xúc tiến các sản phẩm đặc trưng, có lợi thế cạnh tranh của địa phương mình.

- Giao “Bộ trưởng Bộ Công Thương xem xét trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt các đề án xúc tiến thương mại của địa phương có hỗ trợ từ ngân sách trung ương”. Đây là cơ hội để các địa phương có mặt hàng xuất khẩu trọng điểm của cả nước đề xuất xúc tiến thương mại có khả năng đem lại lợi ích cho cả một Vùng kinh tế - xã hội và xây dựng cơ quan xúc tiến thương mại đủ năng lực có thể đứng ra trực tiếp chủ trì các hoạt động xúc tiến thương mại quốc gia.

- Ngoài ra, các nội dung hỗ trợ và mức hỗ trợ cũng được bổ sung nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh, duy trì tăng trưởng xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Cụ thể, ngoài các nội dung đã được hỗ trợ theo Quyết định số 279/2005/QĐ-TTg, đã bổ sung thêm ba loại hình để phù hợp với tình hình mới trong đó có nội dung hỗ trợ các hoạt động xúc tiến thương mại thực hiện hiệu quả yêu cầu mở rộng thị trường xuất khẩu. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp chủ động thực hiện hoạt động xúc tiến thương mại và ký được hợp đồng xuất khẩu với đối tác nước ngoài sẽ được Ngân sách nhà nước hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại.

Hiện nay, Bộ Công Thương đang phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng Thông tư hướng dẫn Quyết định số 80/2009/QĐ-TTg và triển khai thực hiện Quyết định đến các đơn vị chủ trì Chương trình xúc tiến thương mại.



30. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị:

Cử tri Phú Tân cho biết hiện nay lúa mùa vụ năm 2008 còn tồn đọng trong dân nhiều. Đề nghị Chính phủ có chính sách hỗ trợ mua hết lúa cho nông dân, có chủ trương xây dựng kho chứa và tổ chức thu mua trực tiếp với nông dân, hạn chế trung gian thương lái ép giá.

Trả lời: (tại Công văn số 8201/BCT-KH ngày 20/8/2009)

Tiêu thụ lúa hàng hóa cho nông dân với giá có lãi là một trong những mục tiêu của công tác điều hành xuất khẩu gạo. Để thực hiện mục tiêu này, chủ trương của Chính phủ là đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu theo các hợp đồng tập trung số lượng lớn, giá tốt; triển khai xây dựng hạ tầng kho bãi để nâng cao năng lực dự trữ lúa gạo khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long; có chính sách thu mua lúa gạo cho nông dân khi cần thiết.

Chủ trương này vẫn được các Bộ ngành triển khai thực hiện trong thời gian qua, cụ thể:

Về công tác xuất khẩu và thu mua lúa cho nông dân: Năm 2008 Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo điều hành xuất khẩu gạo linh hoạt những tháng cuối năm, chỉ đạo Ngân hàng bảo đảm đủ vốn cho doanh nghiệp thu mua lúa hàng hoá, giãn và gia hạn nợ cho doanh nghiệp và nông dân chưa tiêu thụ được lúa gạo, cho phép nông dân và doanh nghiệp được hưởng lãi suất thấp hơn trong thời hạn gia hạn nợ, chỉ đạo các doanh nghiệp mua lúa gạo 4 đợt từ tháng 8 tới tháng 12 năm 2008 tổng số gần 2 triệu tấn quy gạo.

Năm 2009, công tác xuất khẩu gạo đã được đẩy mạnh. Xuất khẩu gạo 7 tháng đầu năm đạt 4,108 triệu tấn, tăng 52,02% về số lượng so với năm 2008, góp phần tiêu thụ lúa Đông Xuân cho bà con nông dân.

Theo báo cáo của Hiệp hội Lương thực Việt Nam, hiện nay tồn kho của các doanh nghiệp là khoảng 1,3 triệu tấn. Hiệp hội Lương thực Việt Nam đang tiếp tục chỉ đạo các doanh nghiệp mua tiếp khoảng 400.000 tấn gạo nữa. Như vậy, tổng lượng gạo hàng hóa được xuất khẩu và được mua vào là khoảng 5,8 triệu tấn, tương đương mức gạo hàng hóa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn dự báo cho năm 2009. Các doanh nghiệp một mặt sẽ tiếp tục mua lúa để thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tiêu thụ hết lúa hàng hóa vụ Hè Thu cho nông dân, mặt khác để có hàng giao gối đầu cho đầu năm 2009 khi có đơn hàng mà chưa tới vụ thu hoạch.

Về chủ trương xây dựng kho chứa: Tại Thông báo số 03/TB-VPCP ngày 5 tháng 01 năm 2009 của Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng đề án đầu tư xây dựng 4 triệu tấn kho dự trữ lúa gạo. Đến nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã hoàn thiện Đề án này trên cơ sở tổng hợp kết quả khảo sát và đề xuất của các địa phương, doanh nghiệp và đã xây dựng phương án đầu tư trong vòng 3 năm từ năm 2009 đến năm 2011 tại các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long. Tổng Công ty Lương thực miền Nam và Tổng Công ty Lương thực miền Bắc đang tích cực triển khai các dự án thuộc phạm vi quản lý.

Tại Thông báo số 78/TB-VPCP ngày 9 tháng 3 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã giao cho hai Tổng công ty Lương thực miền Nam và miền Bắc làm đầu mối “triển khai đầu tư xây dựng hệ thống kho chứa, sân phơi, sấy. Trong năm 2009-2010 phải cơ bản hoàn thành xây dựng hệ thống kho chứa và chợ đầu mối nông sản ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long để thu mua hết lúa hàng hóa cho nông dân và bảo đảm chủ động nguồn hàng xuất khẩu. Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ đạo Ngân hàng Phát triển Việt Nam và các ngân hàng thương mại bảo đảm đủ vốn để hai Tổng Công ty thực hiện việc này.”

Ngoài ra, tại văn bản số 6023/BCT-XNK ngày 26 tháng 6 năm 2009 của Bộ Công Thương về tình hình triển khai chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về xuất khẩu gạo, Bộ Công Thương đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ có chính sách hỗ trợ để các doanh nghiệp địa phương có nhu cầu đầu tư xây dựng kho dự trữ trên địa bàn tỉnh phù hợp với quy hoạch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và của địa phương.

Về việc tổ chức thu mua trực tiếp lúa gạo cho nông dân: Với hiện trạng sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu lúa gạo như hiện nay, hệ thống thương lái giữ vai trò thu mua trực tiếp lúa gạo từ người nông dân trong khi các doanh nghiệp xuất khẩu tập trung chủ yếu vào chức năng “thương mại”.

Hiện nay, Hiệp hội Lương thực Việt Nam đã có các bản tin thị trường xuất khẩu gạo định kỳ gửi tới Ủy ban nhân dân các tỉnh. Các tỉnh cũng cần tổ chức cung cấp thông tin để người nông dân tiếp cận gần hơn với giá thị trường, nâng cao hiểu biết để hạn chế việc bị ép giá. Đồng thời, người nông dân cần có sự liên kết để nâng cao khả năng đàm phán giá với người mua, bảo vệ lợi ích của mình.



31. Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị:

Việc phát triển làng nghề trong những năm vừa qua của tỉnh Phú Thọ đã mang lại nhiều lợi ích cho người dân, đặc biệt là đã giải quyết được việc làm và nâng cao thu nhập cho nông dân sau những mùa vụ. Tuy nhiên, để các làng nghề này hoạt động được thường xuyên, hiệu quả hơn nữa, cử tri đề nghị Chính phủ phỗ trợ tỉnh Phú Thọ về vốn kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế và thị trường xuất khẩu, tạo điều kiện cho các làng nghề của tỉnh ngày càng mở rộng, phát triển.

Trả lời: (tại Công văn số 8197/BCT-KH ngày 20/8/2009)

Hiện nay, Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công Thương đang phối hợp với Hiệp hội xuất khẩu thủ công mỹ nghệ Việt Nam và các cơ quan của Liên hợp quốc (UNIDO, ITC, UNCTAD, ILO, FAO) chuẩn bị thủ tục để trình Chính phủ cho phép thực hiện Chương trình “Sản xuất và thương mại xanh nhằm nâng cao thu nhập và cơ hội việc làm cho người nghèo ở nông thôn”. Chương trình sẽ được thực hiện tại 13 huyện nghèo của 4 tỉnh Hòa Bình, Phú Thọ, Thanh Hóa và Nghệ An, tập trung vào các làng nghề với phương thức hỗ trợ tổng thể từ phát triển nguồn nguyên liệu đến đào tạo tay nghề và trợ giúp doanh nghiệp địa phương phát triển thị trường (nội địa và xuất khẩu) để tiêu thụ sản phẩm, với mục tiêu tạo việc làm và tăng thu nhập cho người nghèo, chủ yếu là nông dân, ở các làng nghề tại các địa phương trên. Chương trình sử dụng nguồn viện trợ ODA của Quỹ Thiên niên kỷ của Tây Ban Nha, dự kiến sẽ bắt đầu thực hiện từ cuối năm 2009 và kéo dài trong 3 năm.

Ngoài ra, Bộ Công Thương luôn sẵn sàng hỗ trợ, cung cấp thông tin về hội nhập kinh tế quốc tế và thị trường xuất khẩu cho các tỉnh, thành phố và các đơn vị có nhu cầu; sẵn sàng phối hợp với các địa phương để tổ chức hội thảo, tuyên truyền phổ biến về kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế và thị trường xuất khẩu. Đối với các thông tin về cam kết của Việt Nam trong WTO, các đối tượng quan tâm có thể tham khảo trang thông tin điện tử của Bộ Công Thương tại địa chỉ: http://www.moit.gov.vn, mục tài liệu WTO. Các cử tri có thể liên hệ trực tiếp với Sở Công Thương để có thêm những hướng dẫn cụ thể.

32. Cử tri tỉnh Bắc Giang kiến nghị :

Sản xuất thuốc lá là mặt hàng gây hại cho sức khỏe con người, vì vậy cần hạn chế sản xuất và nhập khẩu mặt hàng này. Nên có kế hoạch chuyển các nhà máy sản xuất thuốc lá sang sản xuất các mặt hàng khác phục vụ đời sống.

Trả lời: (tại Công văn số 8404/BCT-KH ngày 26/8/2009)

Về quản lý nhập khẩu sản phẩm thuốc lá điếu và xì gà:

Trước đây thuốc lá là mặt hàng cấm nhập khẩu. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, để đảm bảo phù hợp với các cam kết gia nhập, Việt Nam phải thay đổi cơ chế quản lý, theo đó Bộ Thương mại và Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương) ban hành Thông tư liên tịch số 01/2007/TTLT-BTM-BCN ngày 10 tháng 01 năm 2007 quy định chặt chẽ các điều kiện, thủ tục nhập khẩu về chất lượng, hàm lượng chất độc hại theo quy định của cơ quan có thẩm quyền theo Công ước khung về kiểm soát thuốc lá của Tổ chức Y tế thế giới; chỉ 01 doanh nghiệp nhà nước được chỉ định làm đầu mối nhập khẩu thuốc lá duy nhất trong thời hạn 03 năm kể từ năm 2007. Thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với sản phẩm thuốc lá hiện nay cũng đang được duy trì ở mức rất cao (Thuế nhập khẩu: 130% - 140% và Thuế TTĐB: 65%).



Về quản lý sản xuất, kinh doanh thuốc lá:

Mặc dù thuốc lá là nhóm hàng hạn chế sản xuất nhưng vẫn chưa thể thực hiện cấm sản xuất hoàn toàn, do hiện nay nhu cầu tiêu dùng trong nước vẫn có. Việc cấm sản xuất sẽ dẫn đến tình trạng sản xuất thuốc lá giả và thuốc lá nhập lậu vào Việt Nam. Hướng tới mục tiêu hạn chế sản xuất, hạn chế kinh doanh và phát triến ngành thuốc lá, Nhà nước đã ban hành nhiều quy định quản lý chặt chẽ về năng lực sản xuất, về nguyên liệu nhập khẩu đầu vào, về thuế tiêu thụ đặc biệt v.v.. đối với nhóm mặt hàng này (Nghị định số 119/2007/NĐ–CP của Chính phủ ngày 18 tháng 7 năm 2007 về sản xuất và kinh doanh thuốc lá). Ngoài ra, các nhà máy sản xuất thuốc lá của Việt Nam không chỉ sản xuất sản phẩm thuốc lá mà hiện đều mở rộng sang kinh doanh các lĩnh vực, mặt hàng khác như trà, bánh kẹo, đồ uống, dệt may và chăn nuôi, chế biến cá sấu, đà điểu.



33. Cử tri thành phố Cần Thơ kiến nghị:

Đối với máy gặt - đập liên hợp: đề nghị Chính phủ nên xem xét phương án hỗ trợ các nhà máy trong nước sản xuất máy gặt - đập liên hợp theo quy mô công nghiệp đáp ứng nhu cầu tiêu thụ nội địa với giá cả hợp lý (trên thị trường hiện nay có đến 90% là máy do Trung Quốc sản xuất được nông dân sử dụng). Giải pháp này còn có tác dụng thúc đẩy ngành sản xuất công nghiệp trong nước phát triển.

Trả lời: (tại Công văn số 7855/BCT-KH ngày 12/8/2009)

Để phát triển công nghiệp cơ khí nói chung và các sản phẩm cơ khí phục vụ nông nghiệp nói riêng, trong thời gian qua, Chính phủ và Bộ Công Thương đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ, cụ thể như sau:

1. Ngày 16 tháng 01 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 10/2009/QĐ-TTg về Cơ chế hỗ trợ phát triển sản phẩm cơ khí trọng điểm và Danh mục các sản phẩm cơ khí trọng điểm và Danh mục các dự án đầu tư sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm giai đoạn 2009-2015. Trong các Danh mục được ban hành bao gồm cả máy gặt - đập liên hợp. Theo đó, những sản phẩm nằm trong Danh mục, nếu sản xuất trong nước, sẽ được hưởng các chính sách ưu đãi sau:

a. Chính sách tín dụng đầu tư:

- Các dự án đầu tư sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm được vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước từ Ngân hàng Phát triển Việt Nam tối đa 85% tổng mức vốn đầu tư của dự án (không bao gồm vốn lưu động) với lãi suất cho vay, thời hạn cho vay và thời gian ân hạn phù hợp với quy định về tín dụng đầu tư của Nhà nước.

- Các dự án đầu tư sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm có nhu cầu vay vốn nước ngoài được Chính phủ xem xét bảo lãnh vốn vay cho từng trường hợp cụ thể.

- Trường hợp đặc biệt, Ban Chỉ đạo nhà nước về Chương trình sản phẩm cơ khí trọng điểm nghiên cứu, đề xuất cơ chế và chính sách tín dụng đầu tư cụ thể, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.



b. Chính sách kích cầu:

- Doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm hoặc mua sản phẩm cơ khí trọng điểm được phép áp dụng hình thức chỉ định thầu hoặc giao thầu theo quy định của pháp luật hiện hành.

- Tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế mua sản phẩm cơ khí trọng điểm được vay vốn tín dụng Nhà nước từ Ngân hàng Phát triển Việt Nam theo quy định.

c. Chính sách đầu tư cho nghiên cứu và phát triển:

- Các sản phẩm cơ khí trọng điểm do các doanh nghiệp trong nước chế tạo được hỗ trợ từ nguồn vốn của Quỹ hỗ trợ phát triển khoa học - công nghệ quốc gia đối với các chi phí chuyển giao công nghệ, mua bản quyền thiết kế, mua phần mềm, thuê chuyên gia nước ngoài, đào tạo nguồn nhân lực.

- Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí đầu tư phòng thí nghiệm các sản phẩm cơ khí trọng điểm cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Ban Chỉ đạo nhà nước về Chương trình sản phẩm cơ khí trọng điểm nghiên cứu, đề xuất từng dự án đầu tư cụ thể, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

d. Các chính sách về thuế, phí:

- Thuế suất thuế nhập khẩu sản phẩm có trong Danh mục sản phẩm cơ khí trọng điểm trong nước đã đầu tư sản xuất được áp dụng mức thuế suất trần, với thời hạn cho đến khi kết thúc lộ trình miễn, giảm thuế kết thúc mà Việt Nam đã ký cam kết thực hiện với quốc tế.

- Các loại vật tư, thiết bị nhập khẩu để sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm và để đầu tư sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm được áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu bằng không hoặc mức thuế suất sàn trong các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.

2. Ngày 17 tháng 4 năm 2009 Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 497/QĐ-TTg ban hành Danh mục sản phẩm máy móc, thiết bị cơ khí, phương tiện phục vụ sản xuất, chế biến nông nghiệp sản xuất trong nước được hỗ trợ lãi suất. Trong Danh mục máy móc, thiết bị ban hành theo Quyết định này cũng bao gồm cả máy gặt đập liên hợp. Ngày 29 tháng 4 năm 2009 Bộ Công Thương cũng đã ban hành Quyết định số 2095/QĐ-BCT hướng dẫn chi tiết việc thực hiện hỗ trợ lãi suất theo Quyết định 497/QĐ-TTg của Chính phủ. Bộ Công Thương cũng đã tổ chức Hội thảo hướng dẫn các Sở Công Thương về việc thực hiện Quyết định 497/QĐ-TTg của Chính phủ như nêu trên.

Những cơ chế, chính sách hỗ trợ trên cho thấy các nhà máy sản xuất máy gặt-đập liên hợp trong nước theo quy mô công nghiệp hiện nay đã được hưởng ưu đãi tối đa có thể theo các quy định hiện hành.

34. Cử tri tỉnh Kon Tum kiến nghị:

Thời gian qua, Ban quản lý dự án thuỷ điện 4 (Tập đoàn Điện lực Việt Nam) đã phối hợp chặt chẽ với cơ quan, địa phương có liên quan để thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư 02 công trình thủy điện Yaly và PleiKrông và đã đạt được kết quả nhất định. Về cơ bản, số hộ thuộc diện di dân, tái định cư đã từng bước ổn định được cuộc sống. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều tồn tại cần quan tâm trong đó lớn nhất là thiếu đất sản xuất cho các hộ mất đất sản xuất do ngập lòng hồ. Vấn đề này, tỉnh Kon Tum đã có nhiều văn bản đề nghị Bộ Công Thương, Tập đoàn Điện lực chỉ đạo Ban quản lý dự án thuỷ điện 4 phối hợp với các cấp chính quyền trong tỉnh và có các giải pháp thích hợp để giải quyết dứt điểm các vấn đề còn tồn tại trên nhưng đến nay vẫn chưa được giải quyết gây bức xúc trong nhân dân tại các khu tái định cư và đang tiềm ẩn những bất ổn về an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội. Vì vậy cử tri tỉnh Kon Tum đề nghị Thủ tướng Chính phủ quan tâm có ý kiến chỉ đạo Bộ Công Thương, Tập đoàn Điện lực Việt Nam làm việc cụ thể với UBND tỉnh Kon Tum để giải quyết dứt điểm các tồn tại trong công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư 02 công trình thuỷ điện Yaly và Pleikrông.

Trả lời: (tại công văn số 8547/BCT-KH ngày 28/8/2009)

Được sự ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương xin được trả lời như sau:

1. Liên quan tới công trình thủy điện Pleikrông :

1.1. Huyện Sa Thầy

- Về đất ở : Theo qui định về bồi thường thiệt hại, di dân và tái định cư công trình thủy điện Pleikrông đã được UBND tỉnh Kon Tum thỏa thuận (văn bản số 545/UB-NC ngày 13/5/2003) và Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương) thống nhất (tại văn bản số 3654/CV-NLDK ngày 22 tháng 8 năm 2003) với tiêu chuẩn về đất ở tối đa cho 01 hộ tái định cư là 400 m2. Ngày 24 tháng 8 năm 2005 UBND tỉnh cũng đã có quyết định số 43/2005/QĐ-UBND quy định hạn mức đất xây dựng nhà ở trên địa bàn tỉnh Kon Tum là 400m2. Theo đó, các đơn vị thực hiện đền bù đã thực hiện theo đúng các qui định trên về đất ở cho các hộ dân.

- Về đất sản xuất: Ngoài 938 ha đất đã khai hoang để giao nhân dân đưa vào sản xuất, có hơn 270 ha dân cho là đất xấu nên không chịu nhận, còn xin thu hồi và đền bù gần 200 ha để giao cho dân tự khai hoang nhưng chỉ chia được hơn 100 ha. Tổng quĩ đất đã khai hoang và thu hồi đã bàn giao cho địa phương chưa chia được hơn 350 ha. Hiện nay toàn xã Hơ Moong có 69 hộ chưa nhận đất sản xuất và 25 hộ đã cấp đất nhưng bị các hộ dân xã Đăk Mar, huyện Đăk Hà tranh chấp không cho sản xuất. Ban QLDA thuỷ điện 4 đang phối hợp cùng các cấp chính quyền địa phương để giải quyết vấn đề này. Tuy nhiên kết quả giải quyết phụ thuộc nhiều vào việc tuyên truyền, giải thích của chính quyền địa phương đối với người dân, đồng thời có giải pháp xử lý những vấn đề tranh chấp nêu trên.

1.2. Xã Kroong, Thành phố Kon Tum

- Còn một số hộ dân chưa được thống kê lập hồ sơ bồi thường, chưa nhận tiền bồi thường, hỗ trợ do các hộ này không đến hiện trường để kiểm kê, chưa cung cấp đầy đủ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chưa phối hợp giải quyết tranh chấp với các hộ lân cận. Ban ATĐ4 đang phối hợp với chính quyền địa phương và các hộ dân để lập hồ sơ trình duyệt để trả tiền cho dân. Dự kiến hoàn thành trong tháng 8/2009.

- 24 hộ dân có đất bị ảnh hưởng do bị đất trôi từ hạng mục đường khảo sát, khu phụ trợ và 70 lượt hộ có tài sản bị ảnh hưởng do ngập ở cao trình 542m; 117 hộ dân có đất, tài sản bị thiệt hại do ngập trên cao trình 570m đã được Ban ATĐ4 lập hồ sơ, trình UBND tỉnh phê duyệt và sẽ chi trả tiền cho nhân dân, dự kiến trong tháng 8/2009.

- Một số trường hợp có đất sản xuất không bị ngập nhưng không sản xuất được do bị chia cắt bởi vùng ngập lòng hồ thủy điện Pleikrông, Ban ATĐ4 đang tổ chức kiểm tra tại hiện trường để lập hồ sơ bồi thường.



1.3. Huyện Đăk Hà

Trong lòng hồ thủy điện PlêiKrông đa số hộ dân bị mất đất sản xuất do bị ngập. Ban ATĐ4 đã lập hồ sơ và bồi thường xong cho các hộ dân. Còn 51 hộ trước đây đề nghị được nhận tiền, nay lại đề nghị nhận đất thì quỹ đất tại địa bàn không còn nên chưa giải quyết được. Ban ATĐ4 cũng đang phối hợp với UBND huyện Đăk Hà xác định phần vốn đóng góp (chủ yếu là tiền đền bù đất cho số hộ dân có đất sản xuất bị mất trong lòng hồ) vào dự án dãn dân nội vùng tại huyện Đắk Hà theo sự chỉ đạo của Chính phủ (văn bản số 8805/VPCP-KTN ngày 24 tháng 12 năm 2008 của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến của Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng về việc bố trí kinh phí thực hiện phương án di dân nội vùng tại huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum) và UBND tỉnh Kon Tum.



1. 4. Huyện Đăk Tô

Từ năm 2007 đến đầu năm 2009, Ban ATĐ4 đã phối hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền địa phương để giải quyết đất sản xuất cho 62 hộ dân xã Diên Bình. Sau khi UBND Tỉnh ban hành Quyết định thu hồi 42 ha đất của Công ty đầu tư phát triển Nông-Lâm-Công nghiệp và Dịch vụ và dịch vụ Đăk Tô, Ban ATĐ4 đã tập trung phối hợp với các cấp chính quyền địa phương chia đất cho nhân dân xã Diên Bình nhưng đã bị một số hộ dân xã Tân Cảnh chiếm dụng và sản xuất trái phép. Ban ATĐ4 đã nhiều lần làm việc với chính quyền địa phương và nhân dân xã Tân Cảnh đề nghị trả lại đất nhưng các hộ này vẫn không thực hiện và yêu cầu phải bồi thường tài sản trên đất mới trả lại. Hiện nay đã trễ thời vụ, chính quyền địa phương thống nhất với Ban ATĐ4 đến cuối năm 2009 sẽ xử lý dứt điểm để trả lại đất sản xuất cho nhân dân xã Diên Bình, đồng thời đề nghị bồi thường cho 62 hộ dân Diên Bình do bị ngừng sản xuất năm 2009.

2. Về công trình thuỷ điện Yaly (huyện Sa Thầy) :

Trước đây theo chủ trương chung không đền bù đất, chỉ tập trung đầu tư các công trình thuỷ lợi, khai hoang đất sản xuất và các công trình hạ tầng khác. Chính quyền địa phương và nhân dân thống nhất sử dụng đất bán ngập để sản xuất, Ban ATĐ4 đã hỗ trợ khuyến nông để nhân dân khai thác có hiệu quả diện tích đất bán ngập.

Các công trình giao thông, thuỷ lợi, nhà rông, trường học… đã xây dựng xong, bàn giao đưa vào sử dụng hơn 10 năm nay, nay bị xuống cấp, đề nghị UBND tỉnh cho sử dụng nguồn kinh phí thuế tài nguyên nước để duy tu, bảo dưỡng và nâng cấp các công trình các công trình trên.

35. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị:

Bộ Công Thương quan tâm trình Thủ tướng Chính phủ quyết định bổ sung thuỷ điện Sơn Lang 2 vào Quy hoạch thuỷ điện vừa và nhỏ của tỉnh Gia Lai và cho triển khai đầu tư thuỷ điện Sơn Lang 2 nằm trên địa phận xã Sơn Lang, huyện KBang, tỉnh Gia Lai. Thực hiện dự án thuỷ điện Sơn Lang 2 sẽ mang lại cho nhân dân huyện KBang, tỉnh Gia Lai nhiều lợi ích và hiệu quả kinh tế-xã hội. Được biết vào cuối năm 2008, các Bộ, cơ quan, tổ chức có liên quan (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Quốc phòng, Quân khu 5, Tập đoàn Điện lực Việt Nam) đã có văn bản đồng ý về hồ sơ Quy hoạch bổ sung thuỷ điện Sơn Lang 2 vào Quy hoạch thuỷ điện vừa và nhỏ của tỉnh Gia Lai.

Nguyện vọng của cử tri tỉnh Gia Lai đề nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sớm quyết định để nhanh chóng triển khai thi công và đưa công trình thuỷ điện Sơn Lang 2 vào vận hành, góp phần bổ sung nguồn điện quốc gia và phát triển kinh tế-xã hội, cải thiện đời sống của cử tri và nhân dân vùng sâu, vùng xa thuộc huyện KBang, tỉnh Gia Lai.

Trả lời: (tại Công văn số 8821/BCT-KH ngày 07/9/2009)

Theo Qui hoạch đã được Bộ Công Thương phê duyệt sơ đồ khai thác nước của thủy điện Vĩnh Sơn 2 là chuyển nước từ suối Say (nhánh của Sông Côn) sang dòng chính sông Côn. Hiện nay, Dự án thuỷ điện Vĩnh Sơn 2 đã đựơc Thủ tướng Chính phủ giao cho Công ty Cổ phần Thủy điện Vĩnh Sơn- Sông Hinh thực hiện. Do đó, nếu tiến hành xây dựng dự án thủy điện Sơn Lang 2 cần phải xem lại sơ đồ khai thác nước suối Say.

Sau khi có ý kiến của tỉnh Gia Lai, Bộ Công Thương đã làm việc với các Tư vấn và các nhà đầu tư dự án Vĩnh Sơn 2 và dự án Sơn Lang 2 để làm rõ sơ đồ khai thác nước hợp lý và yêu cầu các Tư vấn bổ sung hồ sơ, nhưng đến nay Tư vấn và các nhà đầu tư vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu. Bộ Công Thương đang tiếp tục đôn đốc các Tư vấn hoàn chỉnh hồ sơ để xem xét giải quyết và sẽ có văn bản trả lời UBND tỉnh Gia Lai về sơ đồ khai thác nước.

36. Cử tri tỉnh Bạc Liêu kiến nghị:


Каталог: UserControls -> ckfinder -> userfiles -> files
files -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> Phụ lục số 1 danh mục các văn bản hưỚng dẫn thi hành pháp luật về giao thôNG
files -> PHỤ LỤC 1 KẾt quả XỬ LÝ ĐƠN, thư CỦa uỷ ban tư pháp từ sau kỳ HỌp thứ SÁU ĐẾn truớc kỳ HỌp thứ BẢy quốc hội khóa XII
files -> Phần I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
files -> II. Các kiến nghị về chính sách đối với giáo viên
files -> BÁo cáo việc thực hiện chính sách, pháp luật về thành lập trường, đầu tư và đảm bảo chất lượng đào tạo trong giáo dục đại học
files -> ĐỀ ÁN ĐỔi mới cơ chế TÀi chính giáo dục giai đOẠN 2009-2014

tải về 3.4 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   22   23   24   25   26   27   28   29   ...   43




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương