UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ BẢY quốc hội khoá XII



tải về 4.57 Mb.
trang59/60
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích4.57 Mb.
#16071
1   ...   52   53   54   55   56   57   58   59   60

Trả lời:

a) Về việc quan tâm chỉ đạo các địa phương và các cơ sở giáo dục tăng cường bồi dưỡng giáo dục đạo đức cho sinh viên, học sinh:

(Nội dung này, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trả lời ở câu 69 của Báo cáo)



b) Về các giải pháp để ngăn chặn tình trạng bạo lực học đường đang có chiều hướng gia tăng trong thời gian gần đây:

Đạo đức, lối sống của học sinh, sinh viên (HSSV) được hình thành chủ yếu từ 3 môi trường giáo dục: Giáo dục của nhà trường, giáo dục của gia đình và giáo dục từ xã hội. Để ngăn chặn tình trạng bạo lực học đường thì cần phải có sự phối hợp triển khai đồng bộ từ phía nhà trường, gia đình và xã hội.



Về phía nhà trường:

- Đẩy mạnh việc giáo dục kỹ năng số cho học sinh gắn với việc thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Trang bị cho các em “Các kỹ năng sống” trong đó bao gồm kỹ năng ứng xử trước các tình huống mâu thuẫn xã hội.

- Đổi mới phương pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho HSSV cả ở trong chương trình chính khoá và hoạt động ngoại khoá. Với phương châm là để các bài giảng về đạo đức, lối sống cho HSSV sinh động, hấp dẫn, tiếp thu một cách tự nhiên. Các hoạt động giáo dục ngoại khoá phải phong phú, cuốn hút được HSSV tham gia.

- Chủ động phối hợp, kiến nghị với địa phương, cơ quan công an trong việc kiểm tra, giải toả các hàng quán xung quanh trường học, ký túc xá nếu thấy có biểu hiện phức tạp về an ninh, trật tự. Phối hợp chặt chẽ với gia đình HSSV trong công tác quản lý, giáo dục, đặc biệt là đối với các HSSV có biểu hiện chưa ngoan.



Về phía gia đình HSSV:

- Phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong việc giáo dục con cái. Cha mẹ phải là tấm gương, là điểm tựa vững chắc cho học sinh noi theo.

- Quan tâm chăm sóc, động viên con em kịp thời. Không phó mặc con em mình cho nhà trường và xã hội.

Về phía các cơ quan chức năng và các địa phương:

- Đẩy mạnh công tác quản lý các hoạt động văn hoá, dịch vụ văn hoá (các tụ điểm vui chơi, quán bar, karaoke, vũ trường, dịch vụ Internet, sách báo, phim ảnh...). Cần có sự kiểm tra, giám sát thường xuyên.

- Kiên quyết tấn công, trấn áp tội phạm, tệ nạn xã hội ở ngoài xã hội, các tụ điểm phức tạp về an ninh, trật tự, đặc biệt là khu vực trường học.

- Quan tâm đúng mức và thường xuyên đến công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật trong lứa tuổi thanh thiếu niên và học sinh, sinh viên; thực hiện tốt công tác tuyên truyền về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước để thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật ngay tại gia đình, nhà trường và trong cộng đồng dân cư.

- Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức đoàn thể cần thể hiện vai trò mạnh mẽ hơn nữa trong việc giáo dục thanh thiếu niên, HSSV. Tiếp tục đổi mới các hoạt động mang tính định hướng, giáo dục để thu hút HSSV tham gia các hoạt động lành mạnh, tránh xa tệ nạn xã hội.

Về phía Bộ Giáo dục và Đào tạo:

Cùng với các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành vẫn còn hiệu lực thi hành, trong năm 2009 vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành các văn bản quan trọng liên quan đến việc đảm bảo an ninh, trật tự trường học:

- Thông tư liên tịch số 34/2009/TTLT-BGDĐT-BCA ngày 20/11/2009 với Bộ Công an hướng dẫn phối hợp thực hiện công tác đảm bảo an ninh, trật tự trong các cơ sở giáo dục.

- Thông tư số 31/2009/TT-BGDĐT ngày 23/10/2009 ban hành Quy định về công tác phòng chống tệ nạn ma tuý trong các cơ sở giáo dục.

- Thông tư số 27/2009/TT-BGDĐT ngày 19/10/2009 ban hành Quy chế công tác HSSV ngoại trú (áp dụng với học sinh, sinh viên các trường đào tạo).

c) Về việc đánh giá hiệu quả của việc đổi mới phương pháp dạy và học:

Thực hiện Nghị quyết số 40/2000/QH10 ngày 09/12/2000 của Quốc hội và Chỉ thị số 14/2001/CT-TTg ngày 11/6/2001 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, từ năm học 2002-2003 các trường trên toàn quốc bắt đầu thực hiện dạy, học theo chương trình, sách giáo khoa mới ở cấp tiểu học và trung học cơ sở, cho đến năm học 2008-2009 các trường trung học phổ thông trong cả nước đã thực hiện chương trình và sách giáo khoa lớp 12 mới.

Tháng 5/2008 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức để giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục ở các tỉnh, thành phố và một số tổ chức xã hội (Hội Cựu Giáo chức Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam, Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam) đánh giá một cách toàn diện chương trình, sách giáo khoa ở tất cả các môn học và tất cả các lớp học. Năm 2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục tổ chức hội nghị Đánh giá 3 năm thực hiện chương trình, sách giáo khoa cấp trung học phổ thông.

Kết quả đánh giá chung là: Về cơ bản, chương trình giáo dục các cấp học, môn học đã đảm bảo được tính chính xác, khoa học, hiện đại, cập nhật và tiếp cận được trình độ giáo dục ở các nước phát triển trong khu vực, đáp ứng xu thế phát triển xã hội Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế; nội dung và yêu cầu của chương trình ở nhiều môn học phù hợp với trình độ phát triển tâm sinh lý học sinh; chương trình có chú ý đến sự phân hoá trình độ nhận thức của học sinh, chú ý đến tính liên thông giữa các môn học, cấp học; đảm bảo nguyên tắc kế thừa và phát triển từ các chương trình giáo dục trước đây. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm chương trình còn bộc lộ một số hạn chế : Chương trình một số môn học còn tương đối nặng, hàn lâm đối với phần đông học sinh; một số nội dung trong chương trình ở một số môn học chưa thực sự cơ bản; chương trình còn quy định cứng, không có độ mở cần thiết để giáo viên có thể vận dụng linh hoạt, phù hợp với việc giảng dạy đối với các vùng, miền có trình độ phát triển kinh tế-xã hội và trình độ phát triển giáo dục khác nhau.

Qua đánh giá cho thấy, có thể ổn định chương trình trong những năm tới nhưng cần phải chỉnh sửa những chi tiết chưa phù hợp và điều chỉnh biện pháp tổ chức thực hiện chương trình.

Đối với một số hạn chế, thiếu sót của chương trình mà điều kiện hiện tại chưa thể khắc phục ngay, cần được tổ chức nghiên cứu thấu đáo để chuẩn bị xây dựng chương trình giáo dục mới, khoảng sau năm 2015 sẽ áp dụng trong phạm vi toàn quốc. Chương trình giáo dục phổ thông mới được đổi mới một cách cơ bản theo hướng tích hợp, phân hoá, tăng cường hoạt động xã hội của học sinh nhằm xây dựng nền học vấn phổ thông cơ bản, vững chắc, phát huy năng lực người học, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và nhu cầu học tập của mỗi học sinh. Dựa trên chuẩn chương trình, hướng dẫn thực hiện phù hợp với các vùng, miền khác nhau. Xây dựng các nội dung giáo dục địa phương phù hợp với nhu cầu và điều kiện các vùng miền, đặc biệt đối với học sinh dân tộc thiểu số.

Song song với việc đổi mới chương trình, sách giáo khoa, Bộ đã chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy và học, việc đánh giá riêng hiệu quả của việc đổi mới phương pháp dạy và học sẽ được Bộ tổ chức trong thời gian tới.

d) Những thuận lợi, khó khăn bất cập của việc tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPT và đại học để xác định lộ trình thích hợp trước khi áp dụng rộng rãi.

Nghị quyết 37 của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, tại kỳ họp thứ sáu (tháng 12 năm 2004) yêu cầu: “tiếp tục cải tiến công tác thi cử theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả, thiết thực” và “Thực hiện đồng bộ các biện pháp để khắc phục và chấm dứt sự gian dối trong thi cử”.

Chính phủ đã giao cho Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng Đề án đổi mới thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh vào đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp để trình Thủ tướng Chính phủ sau khi “tham khảo nhiều ý kiến, đảm bảo khoa học, thực tiễn, khả thi, có bước đi thích hợp, được xã hội đồng tình”.

Trong suốt thời gian từ 2005 đến nay, để thực hiện được mục tiêu trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai hàng loạt giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, độ tin cậy của kỳ thi Trung học phổ thông Quốc gia. Sau mỗi kỳ thi, Bộ đều tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm để điều chỉnh nội dung cũng như lộ trình cho phù hợp:

- Về đề thi, Bộ chủ trương thay đổi mạnh cấu trúc đề thi tự luận theo hướng mỗi đề thi gồm nhiều câu hỏi, có các câu hỏi kiểm tra tính sáng tạo và kỹ năng thực hành của thí sinh; đồng thời đẩy mạnh việc xây dựng ngân hàng câu hỏi thi và thi theo hình thức trắc nghiệm khách quan.

- Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2009 với hai giải pháp mới là tổ chức thi theo cụm trường, chấm chéo các bài thi tự luận cùng yêu cầu thống nhất sử dụng phần mềm quản lý thi đã được toàn ngành nghiêm túc thực hiện và nhận được sự ủng hộ tích cực của toàn xã hội đem lại thành công về nhiều mặt; đặc biệt, kết quả thi cơ bản phản ánh đúng thực chất. So với những năm gần đây, kỳ thi này được đánh giá là tổ chức tốt hơn, tạo thêm những tiền đề cơ bản, có ý nghĩa quan trọng cho việc tiếp tục triển khai thực hiện chủ trương đổi mới thi và tuyển sinh của ngành giáo dục và đào tạo trong thời gian tới.

Năm 2010, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương sẽ vẫn tổ chức riêng 2 kỳ thi theo hướng tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được của kỳ thi tốt nghiệp THPT và thi tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2009 một mặt để tiếp tục khẳng định tính đúng đắn và hiệu quả của các giải pháp triển khai trong thời gian vừa qua, tạo sự đồng thuận của xã hội; mặt khác với thời gian chuẩn bị dài hơn để đảm bảo hạn chế tối đa tiêu cực xảy ra, đảm bảo độ tin cậy, tính khách quan, công bằng của kỳ thi. Bộ đồng thời tiếp tục lấy ý kiến về những giải pháp nhằm tăng cường và đảm bảo độ tin cậy, nghiêm túc cho các khâu coi thi, chấm thi của kỳ thi tốt nghiệp THPT và dự thảo về khung chính sách tuyển sinh đại học, cao đẳng từ năm 2011.

Việc nghiên cứu và cân nhắc kỹ lưỡng và chuẩn bị tích cực như trên là cơ sở quan trọng để kỳ thi THPT quốc gia được thực hiện nghiêm túc, khách quan, công bằng trong đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông và làm căn cứ quan trọng cho việc tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp.



e) Về việc chỉ đạo cho các cơ sở giáo dục niêm yết các khoản thu (kể cả các khoản thu ngoài học phí):

Thực hiện Nghị quyết số 35/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội khóa XII; Thông tư số 09/2009/TT-BGDĐT ngày 7/5/2009 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy chế thực hiện công khai đối với cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân, Bộ đã chỉ đạo các cơ sở giáo dục thực hiện các biện pháp về công khai thu chi tài chính để nâng cao chất lượng đào tạo và kiểm tra các cơ sở thực hiện như sau:

- Chính sách miễn, giảm học phí và hỗ trợ học tập sẽ được thực hiện từ tháng 9 năm 2010 với mục tiêu là tăng quy mô phát triển học sinh, sinh viên tiến tới ai cũng được học hành với nền giáo dục có chất lượng ngày càng cao.

- Công khai các khoản thu, các nội dung chi theo biểu mẫu quy định, niêm yết và gửi tới tất cả các đơn vị; công khai mức học phí và các khoản đóng góp hàng năm.

- Thực hiện phân bổ chi tiêu từ nguồn tăng học phí:

+ Xây dựng danh mục đầu tư cơ sở vật chất từ phần tăng học phí

+ Dành kinh phí từ phần tăng học phí vào một số nội dung công việc như biên soạn tài liệu, xây dựng bài giảng điện tử, điều chỉnh phát triển các chương trình đào tạo, tăng cường ngoại ngữ cho sinh viên, chi khuyến khích dạy và học, cải tạo nâng cấp cơ sở vật chất...

+ Chi trả thu nhập tăng thêm cho giáo viên để đời sống thầy cô giáo và điều kiện làm việc sẽ được chăm lo tốt hơn để các thầy cô giáo không ngừng nâng cao trình độ, nêu cao tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo.

+ Duy trì tỷ lệ sinh viên/giảng viên đúng với qui định.

Đó là một trong những điều kiện trực tiếp nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập.



77. Cử tri tỉnh Cần Thơ kiến nghị: Mặt bằng giáo dục ở đồng bằng sông Cửu Long lâu nay được đánh giá là thấp nhất trong cả nước. Thời gian qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có tham mưu gì cho Chính phủ để khắc phục tình trạng trên.

Trả lời:

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 20/2006/QĐ-TTg ngày 20/01/2006 về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2010, với các nội dung chủ yếu:

- Mục tiêu: Nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân lực của đồng bằng sông Cửu Long; xây dựng đồng bằng sông Cửu Long phát triển toàn diện, bền vững, trở thành một vùng kinh tế trọng điểm của cả nước. Phấn đấu đến năm 2010 chỉ số phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề của đồng bằng sông Cửu Long ngang bằng chỉ số trung bình của cả nước.

- Về giải pháp: Thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ nhằm phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề vùng đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm: Tăng cường cơ sở vật chất, phát triển mạng lưới trường, lớp học từ mầm non đến phổ thông; xây dựng và tăng cường hệ thống trường trung cấp chuyên nghiệp, cơ sở dạy nghề đến cấp quận, huyện; tăng cường đầu tư để nâng cao năng lực đào tạo các trường đại học, cao đẳng, trong đó có xây dựng trường đại học trọng điểm quốc gia của vùng; phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục; xây dựng cơ chế chính sách ưu tiên và huy động nhiều nguồn lực cho phát triển giáo dục và đào tạo; tạo điều kiện các cơ sở giáo dục mở rộng mối quan hệ song phương và đa phương với các nước và các tổ chức quốc tế … .

Về vấn đề giáo dục và đào tạo vùng đồng bằng sông Cửu Long, tại Hội nghị Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ tổ chức ở Đồng Tháp ngày 14/7/2009, các thành viên Ban chỉ đạo đã thảo luận và đi đến khẳng định: Giáo dục và Đào tạo vùng đồng bằng sông Cửu Long đã có bước phát triển rõ rệt, chuyển biến mạnh trong những năm vừa qua. Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp, nhiều khó khăn chung và khách quan, nên giáo dục và đào tạo vùng đồng bằng sông Cửu Long còn nhiều điểm yếu và tồn tại, cần tập trung giải quyết trong một thời gian nữa.

78. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Chính sách cử tuyển học sinh người dân tộc thiểu số và học sinh người dân tộc thiểu số tự thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hiện nay còn rất nhiều bất cập; đối tượng diện cử tuyển được hưởng chế độ học bổng, trong khi đó học sinh dân tộc thiểu số tự thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp thì không được hưởng chế độ; đề nghị Chính phủ sớm quan tâm chỉ đạo.

Trả lời:

Các chế độ chính sách đối với học sinh diện cử tuyển vào học các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp được thực hiện theo Nghị định số 134/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ và Thông tư liên bộ số 13/2008/TTLB của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ và Ủy ban Dân tộc.

Đối với học sinh dân tộc thiểu số tự thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng đã được hưởng chế độ ưu tiên trong tuyển sinh, được miễn học phí theo quy định tại Thông tư liên tich số 53/1998/TTLT-TC-GD&ĐT-LĐ,TB&XH ngày 25/8/1998, cụ thể: Học sinh người dân tộc thiểu số sống liên tục hoặc có hộ khẩu thường trú ở vùng cao từ 3 năm trở lên, tính đến thời điểm vào học đại học, cao đẳng hay trung cấp chuyên nghiệp thì được miễn học phí trong quá trình đào tạo.

79. Cử tri tỉnh Quảng Ngãi kiến nghị: Đề nghị Bộ công khai và hướng dẫn các tỉnh lẻ (như Quảng Ngãi) về chế độ, chính sách, điều kiện để được Nhà nước hỗ trợ học bổng đi du học tại nước ngoài để cử tri biết, học sinh có điều kiện phấn đấu và địa phương có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực.

Trả lời:

Bộ Giáo dục và Đào tạo được Thủ tướng Chính phủ giao chủ trì triển khai thực hiện Đề án đào tạo cán bộ tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước, mục tiêu là đào tạo và bồi dưỡng cán bộ từ trình độ đại học trở lên tại cơ sở nước ngoài thuộc các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế - xã hội nhằm xây dựng nguồn nhân lực phục vụ yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bên cạnh đó, Bộ cũng quản lý các chương trình học bổng dành cho công dân Việt Nam đi học nước ngoài như học bổng theo Đề án Xử lý nợ với Liên bang Nga, học bổng Chính phủ các nước cấp theo Hiệp định/Thỏa thuận ký kết với Chính phủ Việt Nam, phối hợp quản lý các chương trình học bổng nước ngoài khác dành cho Việt Nam như chương trình học bổng ADS, ALA, Endeavour, DAAD, VEF, Fulbright.v.v…

Hằng năm, Bộ Giáo dục và Đào tạo đều thông báo rộng rãi về mục tiêu, đối tượng, tiêu chuẩn, số lượng tuyển hàng năm và cách thức tuyển chọn người cử đi đào tạo ở nước ngoài. Trong thông báo tuyển sinh đào tạo đại học, sau đại học ở nước ngoài, Bộ Giáo dục và Đào tạo nêu rõ các điều kiện, yêu cầu về thủ tục, hồ sơ…đối với người dự tuyển. Thông báo tuyển sinh được công bố công khai trên trang thông tin điện tử của Bộ Giáo dục và Đào tạo (http://www.moet.gov.vn) và của Cục Đào tạo với nước ngoài (http://www.vied.vn ). Những thông báo này cũng được gửi trực tiếp đến các Bộ, Ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương, các trường đại học, cao đẳng, viện nghiên cứu khoa học, phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, các trung tâm công nghệ cao để phổ biến thông tin tuyển sinh tới các đối tượng có liên quan, khuyến khích các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho người có đủ điều kiện được đăng ký dự tuyển theo đúng thời hạn và quy định dự tuyển của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

80. Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị: Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định nâng mức độ tuổi nghiên cứu sinh sau đại học từ 45 tuổi lên 50 tuổi (trở xuống) để đáp ứng nhu cầu học tập của nhiều người.

Trả lời:

Điều 8 Quy chế đào tạo trình độ tiến sĩ ban hành kèm theo Thông tư số 10/2009/TT-BGDĐT ngày 7 tháng 5 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã qui định:

Người dự tuyển đào tạo trình độ tiến sĩ phải có các điều kiện sau:

(1) Có bằng thạc sĩ phù hợp với chuyên ngành đăng ký dự tuyển. Trường hợp chưa có bằng thạc sĩ thì phải có bằng tốt nghiệp đại học hệ chính quy loại khá trở lên, ngành phù hợp với chuyên ngành đăng ký dự tuyển.

Thủ trưởng cơ sở đào tạo quy định chi tiết các điều kiện về văn bằng, ngành học, điểm trung bình chung học tập toàn khóa ở trình độ đại học hoặc thạc sĩ để được dự tuyển vào các chuyên ngành đào tạo trình độ tiến sĩ của cơ sở mình và nêu rõ trong thông báo tuyển sinh.

(2) Có một bài luận về dự định nghiên cứu, trong đó trình bày rõ ràng đề tài hoặc lĩnh vực nghiên cứu, lý do lựa chọn lĩnh vực nghiên cứu, mục tiêu và mong muốn đạt được, lý do lựa chọn cơ sở đào tạo; kế hoạch thực hiện trong từng thời kỳ của thời gian đào tạo; những kinh nghiệm, kiến thức, sự hiểu biết cũng như những chuẩn bị của thí sinh trong vấn đề hay lĩnh vực dự định nghiên cứu; dự kiến việc làm sau khi tốt nghiệp; đề xuất người hướng dẫn.

(3) Có hai thư giới thiệu của hai nhà khoa học có chức danh khoa học như giáo sư, phó giáo sư hoặc học vị tiến sĩ cùng chuyên ngành; hoặc một thư giới thiệu của một nhà khoa học có chức danh khoa học hoặc học vị tiến sĩ cùng chuyên ngành và một thư giới thiệu của thủ trưởng đơn vị công tác của thí sinh. Những người giới thiệu này cần có ít nhất 6 tháng công tác hoặc cùng hoạt động chuyên môn với thí sinh. Thư giới thiệu phải có những nhận xét, đánh giá về năng lực và phẩm chất của người dự tuyển, cụ thể:

a) Phẩm chất đạo đức, đặc biệt đạo đức nghề nghiệp;

b) Năng lực hoạt động chuyên môn;

c) Phương pháp làm việc;

d) Khả năng nghiên cứu;

đ) Khả năng làm việc theo nhóm;

e) Điểm mạnh và yếu của người dự tuyển;

g) Triển vọng phát triển về chuyên môn;

h) Những nhận xét khác và mức độ ủng hộ, giới thiệu thí sinh làm nghiên cứu sinh.

(4) Có đủ trình độ ngoại ngữ để tham khảo tài liệu, tham gia hoạt động quốc tế về chuyên môn phục vụ nghiên cứu khoa học và thực hiện đề tài luận án.

(5) Đối với những chuyên ngành có yêu cầu về kinh nghiệm làm việc, Thủ trưởng cơ sở đào tạo quy định cụ thể về thời gian làm việc chuyên môn mà thí sinh cần có trước khi dự tuyển và nêu rõ trong thông báo tuyển sinh.

(6) Được cơ quan quản lý nhân sự (nếu là người đã có việc làm), hoặc trường nơi sinh viên vừa tốt nghiệp giới thiệu dự tuyển đào tạo trình độ tiến sĩ. Đối với người chưa có việc làm cần được địa phương nơi cư trú xác nhận nhân thân tốt và hiện không vi phạm pháp luật.

(7) Cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với quá trình đào tạo theo quy định của cơ sở đào tạo (đóng học phí; hoàn trả kinh phí với nơi đã cấp cho quá trình đào tạo nếu không hoàn thành luận án tiến sĩ).

Như vậy, trong tất cả các điều kiện đối với người dự tuyển đào tạo trình độ tiến sĩ theo Quy chế đào tạo trình độ tiến sĩ hiện hành, không có điều kiện nào hạn chế về tuổi của người dự tuyển. Vì vậy, người dự tuyển đào tạo trình độ tiến sĩ, nếu có nhu cầu và nguyện vọng được học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, thì vẫn được dự tuyển bình thường mà không phụ thuộc vào tuổi của họ.



81. Cử tri tỉnh Lai Châu kiến nghị: Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo điều chỉnh theo hướng tăng chế độ bồi dưỡng đối với cộng tác viên thanh tra giáo dục, vì chế độ bồi dưỡng hiện hành đang áp dụng theo Thông tư số 16/TT-LB ngày 28/8/1995 giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ thực hiện đối với giáo viên được điều động làm nhiệm vụ thanh tra giáo dục là quá thấp.

Trả lời:

Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ phối hợp với Bộ Tài chính để xem xét điều chỉnh Thông tư số 16/TT-LB ngày 23/8/1995 cho phù hợp với điều kiện hiện nay.



82. Cử tri tỉnh Lai Châu kiến nghị: Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo dành cho học sinh là con em hộ nghèo thuộc diện phổ cập giáo dục cơ sở được hưởng chính sách theo Quyết định 112/2007/QĐ-TTg ngày 20/7/2007 của Thủ tướng Chính phủ, vì hầu hết đối tượng học sinh phổ cập THCS là ở bán trú dân nuôi, xa gia đình

Trả lời:

Theo Quyết định 112/2007/QĐ-TTg ngày 20/7/2007 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 101/2009/QĐ-TTg ngày 05/8/2009 sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Quyết định 112/2007/QĐ–TTg, học sinh con hộ nghèo tại các xã đặc biệt khó khăn thuộc chương trình 135 giai đoạn II theo học các cơ sở giáo dục phổ thông được hỗ trợ 140.000đ/tháng x 9 tháng/năm.

Đối tượng học sinh là con em hộ nghèo thuộc diện phổ cập giáo dục cơ sở không thuộc các xã đặc biệt khó khăn thì không được hưởng chính sách hỗ trợ trên.

Thực hiện sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang xây dựng chính sách hỗ trợ cho học sinh bán trú, với mức hỗ trợ dự kiến bằng 40% mức lương tối thiểu/tháng/1 học sinh, nhằm tạo điều kiện cho con em dân tộc ở vùng khó khăn, vùng đặc biệt khó khăn được thuận lợi hơn trong học tập, dự kiến trình Chính phủ để ban hành trong quý 2 năm 2010.



83. Cử tri tỉnh Hoà Bình kiến nghị: Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo cần cải cách phương thức quản lý giáo dục của trường phổ thông ở cơ sở theo hướng 1 cụm từ 2 đến 3 xã mới bố trí 1 bộ máy quản lý chung cho các chi trường.

Trả lời:

Theo quy định hiện hành, mỗi nhà trường là một cơ sở giáo dục độc lập, hoạt động theo các quy định, điều lệ của ngành giáo dục. Việc bố trí hệ thống trường học trong từng địa phương, từng địa bàn phải tuân thủ theo quy hoạch phát triển mạng lưới trường của từng địa phương, phù hợp với nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội. Công tác quản lý nhà trường, vì vậy cũng theo một cơ chế tự chủ, độc lập, chịu sự quản lý của các cấp quản lý giáo dục và được phân cấp một cách cụ thể. Điều đó giúp nhà trường chủ động, độc lập trong công tác quản lý, điều hành.

Việc quản lý, điều hành như đề nghị của cử tri là một ý tưởng. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, việc quản lý theo cụm trường còn là điều mới mẻ đối với ngành giáo dục và còn cần phải có nghiên cứu kỹ lưỡng hơn trước khi được thực hiện.

84. Cử tri thành phố Hà Nội kiến nghị: Đề nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo và các địa phương chấn chỉnh tình trạng lợi dụng “Ban đại diện cha mẹ học sinh” để lạm thu đang diễn ra phổ biến trong các trường phổ thông, đồng thời chỉ đạo xây dựng cơ chế giám sát hoạt động của Hội này.

Trả lời:

Tổ chức và hoạt động của Ban đại diện cha mẹ học sinh được quy định tại Điều lệ Ban đại diện cha mẹ học sinh ban hành kèm theo Quyết định số 11/2008/QĐ-BGDĐT ngày 28/3/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Theo Điều lệ này, Ban đại diện cha mẹ học sinh không được tự ý thu tiền và sử dụng vào những mục đích phi giáo dục. Nguyên tắc hoạt động của Ban đại diện cha mẹ học sinh là tự nguyện và đồng thuận, không ép buộc.

Do đó, nếu có việc lạm dụng danh nghĩa Ban đại diện cha mẹ học sinh để thu tiền, thì đó là một hoạt động không đúng đắn. Chính quyền các địa phương, các đoàn thể xã hội và người dân cần phối hợp giám sát, theo dõi để phát hiện và xử lý kịp thời. Bộ Giáo dục và Đào tạo đang chỉ đạo các trường thực hiện “3 công khai” theo Thông tư số 09/2009/TT-BGDĐT ngày 07/5/2009 tạo điều kiện cho các lực lượng xã hội giám sát hiệu quả sử dụng các nguồn thu của trường.


Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12

tải về 4.57 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   52   53   54   55   56   57   58   59   60




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương