UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ BẢY quốc hội khoá XII


Cử tri các tỉnh Tiền Giang, Thái Nguyên kiến nghị



tải về 4.57 Mb.
trang58/60
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích4.57 Mb.
#16071
1   ...   52   53   54   55   56   57   58   59   60

69. Cử tri các tỉnh Tiền Giang, Thái Nguyên kiến nghị: Nhiều cử tri lo ngại về những biểu hiện xuống cấp về mặt đạo đức của học sinh, sinh viên. Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các cơ sở giáo dục tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên.

Cử tri tỉnh Khánh Hòa và TP.Hồ Chí Minh kiến nghị: Kiến nghị ngành giáo dục cần quan tâm và tăng cường nội dung giáo dục đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh ngay từ bậc phổ thông. Các ngành văn hóa, thông tin truyền thông đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền về đạo đức, truyền thống, biểu dương các tấm gương tốt trong xã hội.

Trả lời:

Giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên cần sự phối hợp đồng bộ giữa gia đình, nhà trường và xã hội, ngành Giáo dục xác định: Việc giáo dục đạo đức, lối sống và hình thành nhân cách cho học sinh, sinh viên bao gồm tổng hợp của nhiều yếu tố, điều này đã thể hiện rõ trong chương trình mục tiêu giáo dục với các khía cạnh sau: Về nội dung các môn học; vai trò của các thầy cô giáo; vai trò tích cực của người học; sự phối hợp với các cơ quan, ban, ngành.

Cụ thể như sau:

a) Về nội dung các môn học:

Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai việc đánh giá chương trình học và sách giáo khoa; Hướng dẫn các nhà trường đẩy mạnh việc đổi mới phương pháp giảng dạy các môn học. Thực hiện hướng dẫn của Ban chỉ đạo Trung ương cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, từ năm học 2009 - 2010 Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai việc tích hợp giảng dạy nội dung “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” vào nhà trường, tài liệu gửi tới các nhà trường từ đầu học kỳ II. Với tinh thần là không làm nặng nề thêm chương trình, giáo viên sẽ tích hợp những nội dung phù hợp với học sinh từng cấp học. Mục đích là giáo dục về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thông qua những bài học, những mẩu chuyện về cuộc đời của Bác là những nội dung gần gũi, được học sinh, sinh viên dễ tiếp nhận, tạo nên sự gắn bó nội dung học tập với thực tiễn cuộc sống. Trang bị cho học sinh những hiểu biết cần thiết, cơ bản về đạo đức Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó các em có được nhận thức, thái độ và hành vi tích cực làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã giao Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam nghiên cứu đề tài khoa học “Đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông, mầm non hiện nay” và đề xuất mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục đạo đức trong chương trình giáo dục phổ thông, mầm non giai đoạn tới.

b) Về vai trò của các thầy cô giáo:

Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các nhà trường quán triệt và thực hiện Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT ngày 16/4/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về đạo đức nhà giáo. Đồng thời hướng dẫn các nhà trường và các cơ quan quản lý giáo dục đẩy mạnh việc triển khai Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, và cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo làm một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”. Trong năm học 2009 – 2010, để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chủ trương của ngành là khuyến khích mỗi nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có một đổi mới trong dạy học hoặc quản lý giáo dục, mỗi trường có một kế hoạch cụ thể về đổi mới phương pháp dạy học, mỗi tỉnh có một chương trình đổi mới phương pháp dạy học.



c) Về vai trò tích cực của học sinh:

Các nhà trường tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” (phát động từ tháng 5 năm 2008). Nội dung của phong trào là xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, thân thiện, phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập, rèn luyện và chủ động tham gia các hoạt động xã hội; rèn luyện kỹ năng sống và định hướng nghề nghiệp cho học sinh; tăng cường giáo dục cho học sinh ý thức, thái độ học tập chủ động, nghiêm túc. Huy động và tạo điều kiện để có sự tham gia hoạt động đa dạng và phong phú của các tổ chức, cá nhân trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống lịch sử, cách mạng cho học sinh. Đặc biệt phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đưa trò chơi dân gian, hát dân ca và một số loại hình văn nghệ dân gian vào nhà trường; tìm hiểu, chăm sóc và phát huy giá trị của các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng; tạo môi trường cho các em học sinh “Học mà chơi, chơi mà học”, không tốn kém kinh phí đồng thời góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, bản sắc dân tộc của chính các em, tạo dấu ấn của văn hóa tại địa phương. Điều đó tạo nên lòng yêu mến, sự gắn bó của các em với mái trường thân thiện, tích cực trong học tập và cuộc sống.

Về nội dung chủ yếu “rèn luyện kỹ năng sống” cho học sinh:

- Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm.

- Rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác.

- Rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội.

Những nội dung rèn luyện kỹ năng sống nêu trên sẽ giúp cho học sinh hình thành những hành vi có trách nhiệm, biết cách ứng phó với các sức ép, thách thức trong cuộc sống, xác định được bổn phận và nghĩa vụ của mình đối với bản thân, gia đình và xã hội.

Kết quả sau 1 năm triển khai thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” (số liệu tính đến tháng 12/2009): Tổng cộng có 35.487 trường tham gia phong trào/tổng số 39.529 trường cả nước từ cấp học mầm non đến phổ thông, đạt tỉ lệ 93,7%. Tổng số đội văn nghệ: 24.971/tổng số 26.505 truờng tiến hành khảo sát. Số bà mẹ Việt Nam anh hùng và gia đình có công với cách mạng được chăm sóc: 16.389, di tích được chăm sóc: cấp quốc gia: 1.997, cấp tỉnh, thành: 3.266, nghĩa trang liệt sĩ: 6.592, và các công trình khác: 124. Phong trào đã có sức lan toả mạnh mẽ, được xã hội ghi nhận, nhân dân các địa phương đồng tình hưởng ứng và tích cực ủng hộ.

d) Về sự phối hợp với các cơ quan, ban ngành:

Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các nhà trường quán triệt và thực hiện Chỉ thị số 71/2008/CT-BGDĐT ngày 23/12/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về tăng cường phối hợp nhà trường, gia đình và xã hội trong công tác giáo dục trẻ em, học sinh, sinh viên. Một trong những nội dung của Chỉ thị là:

+ Tăng cường phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, đoàn thể trong trường: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên, Công đoàn và các tổ chức khác trong việc giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, pháp luật, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên.

+ Tăng cường phối hợp nhà trường, gia đình và xã hội, xác lập hình thức thích hợp thường xuyên liên hệ với gia đình để thông báo tình hình rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của học sinh, sinh viên.

+ Tăng cường tổ chức các hoạt động giáo dục truyền thống, hướng về cội nguồn, tổ chức các hoạt động vui chơi văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao để giáo dục toàn diện cho học sinh, sinh viên.

+ Phối hợp với các Bộ, ban, ngành có liên quan quản lí chặt chẽ, hạn chế việc thâm nhập của văn hóa độc hại, đồi trụy, mặt trái của Internet, cũng như biểu hiện của lối sống thực dụng, tiếp thu mù quáng văn hóa phương Tây ...

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký kế hoạch phối hợp 5 năm với Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Hội Khuyến học Việt Nam để triển khai phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”

e) Các giải pháp khác:

Bộ Giáo dục và Đào tạo thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao thông qua các giải thi đấu thể thao, hội thi, hội diễn văn hoá, văn nghệ thu hút học sinh, sinh viên tham gia góp phần rèn luyện và giáo dục toàn diện thế hệ trẻ. Mặc dù với nguồn kinh phí chưa thật dồi dào nhưng Bộ Giáo dục và Đào tạo đều quan tâm đưa thành các hoạt động thường xuyên theo kế hoạch công tác năm để tổ chức các sân chơi thu hút giới trẻ học đường tham gia.



70. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chính sách hỗ trợ vở cho bậc học mầm non vùng đồng bào dân tộc thiểu số (như bậc tiểu học); đồng thời có chính sách xây dựng lớp học bán trú cho các cháu mầm non. Đề nghị Bộ tham mưu Chính phủ đầu tư xây dựng cơ sở vật chất để bảo đảm việc học tập 2 buổi /ngày đối với giáo dục tiểu học, nhằm khắc phục tình trạng quá tải hiện nay.

Trả lời:

a) Về chính sách hỗ trợ cho bậc học mầm non:

Ngày 15 tháng 11 năm 2002 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 161/2002/QĐ-TTg về một số chính sách phát triển giáo dục mầm non và Quyết định số 149/2006/QĐ-TTg ngày 23 tháng 6 tháng 2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2006-2015, trong đó đã nêu rõ: đối với các xã vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc sẽ được ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục mầm non.

Ngày 25 tháng 7 năm 2009, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký Thông tư số 17/2009/TT-BGDĐT ban hành Chương trình Giáo dục mầm non. Đối với những địa phương có điều kiện về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất sẽ thực hiện Chương trình Giáo dục mầm non mới bắt đầu từ năm học 2009-2010; ở những nơi chưa đủ điều kiện thì tiếp tục triển khai Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ và Chương trình 26 tuần cho trẻ 5 tuổi. Trong 3 năm tới, Chương trình Giáo dục mầm non mới sẽ được thực hiện đại trà ở tất cả các cơ sở giáo dục mầm non trong cả nước.

Ngày 09/2/2010 Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 239/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi nêu rõ: Xây dựng đủ phòng học cho các lớp mầm non năm tuổi ở các xã vùng khó khăn, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc. Bảo đảm tất cả các xã khó khăn và các vùng dân tộc đều có trường với quy mô ít nhất 3 lớp ở trung  tâm và các điểm lớp lẻ có phòng học được xây kiên cố theo hướng chuẩn hóa; Bảo đảm đủ thiết bị và đồ chơi để thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới, nâng cao chất lượng giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi; Trang bị bộ thiết bị tối thiểu cho 39.400 lớp mầm non năm tuổi để thực hiện Chương trình giáo dục mầm non mới và bộ thiết bị nội thất dùng chung cho các lớp học, cung cấp đủ số thiết bị cho các nhóm/trẻ em dưới năm tuổi có đủ điều kiện thực hiện Chương trình giáo dục mầm non mới; Cung cấp 8.800 bộ thiết bị phần mềm trò chơi làm quen với vi tính cho các trường, lớp có điều kiện; Trang bị 6.600 bộ đồ chơi ngoài trờ để đến năm 2015 có khoảng 70% các trường có bộ đồ chơi ngoài trời.



b) Về việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất đảm bảo cho việc học tập 2 buổi/ngày đối với giáo dục tiểu học:

Thực tế cho thấy dạy học 2 buổi/ ngày là một trong những nhân tố quan trọng đảm bảo và nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học. Hiện nay, thời gian học trên lớp của học sinh tiểu học nước ta chỉ bằng 64% thời gian học trên lớp trung bình của học sinh 10 nước trong khu vực. Để tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày cần đến các điều kiện: cơ sở vật chất, nội dung chương trình và sách giáo khoa, đội ngũ giáo viên...

Nhà nước đã có giải pháp đảm bảo điều kiện để nâng dần tỉ lệ học sinh tiểu học được học 2 buổi/ ngày (hiện nay tỉ lệ này khoảng 36 – 37 %). Thông tư liên Bộ số 35/2006/TTLB-BGDĐT-BNV ngày 23/8/2006 có quy định "đối với trường tiểu học dạy 2 buổi/ ngày, 1 lớp được bố trí tính theo biên chế không quá 1,5 giáo viên ". Ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương hỗ trợ xây dựng thêm phòng học, trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ dạy học 2 buổi/ngày.

Triển khai Quyết định số 20/2008/QĐ-TTg ngày 01/02/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên, đến nay các địa phương đã xây dựng được nhiều phòng học mới, xóa phòng học ba ca, phòng học tạm.

Chương trình 135 được triển khai từ năm 1998 đã cung cấp sách vở tạo điều kiện cho học sinh đi học.

Từ năm học 2002-2003, Dự án Giáo dục tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn đã xây dựng thêm nhiều phòng học tạo điều kiện thuận lợi cho giáo dục các tỉnh vùng khó.

Năm 2010, Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai Chương trình Đảm bảo chất lượng trường học (SEQAP), tăng tỉ lệ học sinh học 2 buổi/ ngày. Bộ đang xây dựng chương trình PRSC 9 để thực hiện mục tiêu đến năm 2015 đạt 70%; năm 2020 đạt 100% học sinh được học 2 buổi/ ngày.

Trong khi chưa có đủ điều kiện triển khai dạy học 2 buổi/ ngày trên phạm vi toàn quốc, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương: tuỳ theo đáp ứng của các nguồn lực, các nhà trường báo cáo các cơ quan quản lí giáo dục và chính quyền địa phương để tổ chức dạy học trên 5 buổi/ tuần hoặc 10 buổi/ tuần với quy mô phù hợp điều kiện thực tế.



71. Cử tri tỉnh Bắc Giang kiến nghị: Hoan nghênh chính sách cho sinh viên nghèo vay tiền đi học, nhưng đề nghị có biện pháp quản lý chặt, hạn chế tiêu cực trong quá trình triển khai, nhất là trong việc bình xét, lựa chọn đối tượng cho vay.

Trả lời:

Hiện nay, Ngân hàng Chính sách xã hội quy định việc bình xét cho vay đối với học sinh, sinh viên được thực hiện công khai tại Tổ tiết kiệm và vay vốn nơi gia đình đang sinh sống và được Uỷ ban nhân dân xã, phường xác nhận.

Vì vậy, bên cạnh việc đẩy mạnh tuyên truyền để các địa phương thực hiện nghiêm túc các quy định, để hạn chế tiêu cực trong việc bình xét, Bộ Giáo dục và Đào tạo đề nghị Ngân hàng Chính sách xã hội kiến nghị với Chính phủ quy định trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân xã, phường trong việc xác nhận đúng đối tượng thụ hưởng chính sách, giám sát, kiểm tra đối với việc bình xét cho vay của Tổ tiết kiệm và vay vốn.

72. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Việc phân ban ở bậc phổ thông trung học là không hợp lý vì học sinh không thể học ngành khác nếu có yêu cầu. Vấn đề cải cách giáo dục chẳng qua là thay đổi về hình thức thu phí nhiều hơn là nâng cao chất lượng.

Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo nên có biện pháp chỉ đạo các địa phương tìm giải pháp đẩy mạnh công tác vận động tránh học sinh bỏ học giữa chừng, tạo điều kiện hỗ trợ cho học sinh nghèo được đến trường.

Trả lời:

a) Về ý kiến cử tri cho rằng việc phân ban ở bậc phổ thông trung học là không hợp lý và vấn đề cải cách giáo dục chẳng qua là thay đổi về hình thức thu phí nhiều hơn là nâng cao chất lượng

Từ năm học 2006-2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo tổ chức dạy học phân ban ở cấp THPT, tập huấn cho toàn bộ Hiệu trưởng các trường THPT về tổ chức dạy học phân ban, phối hợp với các cơ quan thông tấn và báo chí tuyên truyền rộng rãi trên toàn quốc về tổ chức dạy học phân ban. Bộ tổ chức biên soạn, phát hành và đưa lên mạng internet tài liệu Giúp học sinh lớp 9 chọn ban ở trường trung học phổ thông và tài liệu Hỏi đáp về phân ban trung học phổ thông, nhằm giúp học sinh, phụ huynh học sinh hiểu rõ về phân ban ở trường THPT.

Về nguyên tắc phân ban, trường THPT không nhất thiết phải tổ chức cả 3 ban; đối với các truờng chưa có đủ điều kiện, có thể tổ chức 2 ban hoặc 1 ban; trong ban cơ bản chủ trương chỉ đạo có sự phân hóa bằng hình thức học nâng cao một số môn hoặc một số chủ đề. Việc quyết định tổ chức các ban trong trường THPT dựa vào cả khả năng tổ chức thực hiện của nhà trường và cả nguyện vọng của học sinh. Các trường đã quán triệt yêu cầu chung là cố gắng mở rộng cơ hội lựa chọn hình thức học tập phân hoá cho học sinh trong điều kiện cho phép.

Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn các trường THPT lựa chọn và tổ chức các ban trong trường theo các điều kiện, nguyện vọng của học sinh, tình hình đội ngũ giáo viên của nhà trường, cơ sở vật chất và yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực của địa phương. Để đảm bảo việc tổ chức dạy-học của các trường, trong quá trình học tập học sinh được phép chuyển ban 1 lần trước khi học lớp 11.

Vấn đề đổi mới chương trình, sách giáo khoa (mà cử tri gọi là cải cách giáo dục) không liên quan trực tiếp với “hình thức thu phí” như cử tri đã nêu. Thực tế, việc đổi mới cơ chế quản lý tài chính giáo dục là nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí đầu tư cho giáo dục. Quốc hội đã có Nghị quyết số 35/2009/QH12 ngày 19/6/2009 về vấn đề này.

Vì vậy không thể nói rằng: “Vấn đề cải cách giáo dục chẳng qua là thay đổi về hình thức thu phí”



b) Các biện pháp chỉ đạo các địa phương tìm giải pháp đẩy mạnh công tác vận động tránh học sinh bỏ học giữa chừng, tạo điều kiện hỗ trợ cho học sinh nghèo được đến trường:

Tình trạng học sinh bỏ học giữa chừng hiện nay còn tồn tại ở nhiều địa phương, nhất là những địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ở miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và miền Tây Nam bộ, vùng đồng bằng sông Cửu long, nơi dân cư sống rải rác, đường xá đi lại khó khăn, nhà xa trường, tỉ lệ hộ nghèo cao, nhiều học sinh thiếu ăn, còn tình trạng di dân tự do. Như vậy, nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng bỏ học là do hoàn cảnh gia đình, điều kiện đi học của học sinh còn nhiều khó khăn.

Mặt khác, các nguyên nhân sau đây cũng làm cho học sinh bỏ học:

- Do nhận thức của người dân và của học sinh về tầm quan trọng của tri thức và việc học tập còn hạn chế. Tình trạng này cũng chủ yếu xảy ra ở cả một số địa phương kinh tế - xã hội phát triển chậm hoặc địa bàn khó khăn như làng chài, vùng kinh tế mới.

- Do học sinh học lực quá yếu, kém không theo kịp chương trình, không có khả năng lên lớp hoặc tốt nghiệp cấp học, chán nản bỏ học đi làm hoặc học nghề và một số nguyên nhân khác như bị ảnh hưởng của thiên tai, lũ lụt ...

Để giải quyết một cách căn bản tình trạng học sinh phổ thông bỏ học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hướng dẫn và yêu cầu các cấp chính quyền địa phương, các Sở Giáo dục và Đào tạo, các cơ quan quản lý giáo dục và các trường học thực hiện các giải pháp sau đây:

+ Các trường học tập trung giúp đỡ học sinh học lực yếu kém, họp bàn với gia đình, phân công giáo viên có trách nhiệm, nhiệt tình nghề nghiệp, có năng lực sư phạm tốt, có lòng thương yêu học sinh tiến hành phụ đạo cho học sinh yếu kém, định kỳ kiểm tra, phân loại, đánh giá mức độ tiến bộ trong quá trình giúp đỡ để có giải pháp phù hợp với các loại đối tượng;

+ Vận động giúp đỡ những học sinh có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn trên tinh thần tương thân tương ái, nhất là đối với học sinh vùng gặp thiên tai tạm thời lâm vào hoàn cảnh khó khăn;

+ Thực hiện chế độ miễn giảm học phí, cấp phát sách giáo khoa, giấy vở cho học sinh các xã thuộc diện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, cấp học bổng cho học sinh diện chính sách, học sinh dân tộc thiểu số theo quy định của Nhà nước.

+ Thực hiện quy định về chế độ ưu tiên trong thi cử, tuyển sinh đối với học sinh diện chính sách;

+ Phối hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền, đoàn thể vận động học sinh bỏ học trở lại đi học phổ thông hoặc bổ túc văn hoá, tiếp tục thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục THCS trong đó có việc nâng cao nhận thức của người dân trong việc tạo điều kiện cho con em được học tập;

+ Ưu tiên các nguồn kinh phí trong Chương trình mục tiêu quốc gia và các Dự án để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, đưa trường gần dân, xây dựng các điểm trường mới, xây dựng ký túc xá cho học sinh nội trú, bán trú;

+ Củng cố, nâng cao chất lượng giáo dục của các trường phổ thông dân tộc nội trú và phát triển các trường phổ thông dân tộc bán trú để thu hút học sinh dân tộc thiểu số và học sinh các dân tộc ở những địa bàn xa xôi, hẻo lánh, dân cư quá phân tán, đi lại đặc biệt khó khăn. Áp dụng nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số nhằm tạo điều kiện cho các em tiếp thu tốt các kiến thức được học.

Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và tiếp tục chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp nói trên, kịp thời theo dõi nắm sát tình hình, cùng với chính quyền, ngành giáo dục các địa phương kiên quyết khắc phục tình trạng học sinh phổ thông bỏ học để kiên trì thực hiện mục tiêu phổ cập giáo dục THCS trong cả nước theo Nghị quyết số 41/2000/QH10 của Quốc hội (Khoá X).



73. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Tiếp tục chỉ đạo triển khai có hiệu quả Nghị quyết của Quốc hội về chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo, trước mắt trong năm học 2009-2010; đặc biệt là thực hiện tốt các chính sách miễn giảm học phí cho các đối tượng. Kiểm tra, chấn chỉnh tình trạng lạm thu ở một số cơ sở giáo dục đại học như báo chí vừa qua đã phản ánh.

Trả lời:

Triển khai Nghị quyết số 35/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội khóa XII về chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo từ năm học 2010-2011 đến năm học 2014-2015; Quyết định số 1310/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành thực hiện điều chỉnh khung học phí đối với cơ sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Chính sách học phí mới được thực hiện từ năm 2010-2011, theo hướng học phí đối với giáo dục mầm non và phổ thông công lập phù hợp với điều kiện kinh tế của từng địa bàn dân cư, khả năng đóng góp thực tế của người dân, hướng tới miễn học phí vào thời điểm thích hợp. Tiếp tục thực hiện không thu học phí đối với học sinh tiểu học, thực hiện miễn học phí đối với học sinh là con của người có công với nước, đối tượng chính sách, hộ nghèo; giảm học phí cho học sinh hộ cận nghèo; hỗ trợ kinh phí cho học sinh hộ thu nhập quá thấp không có đủ điều kiện tối thiểu đi học.

Từ năm học 2009-2010, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các cơ sở giáo dục đẩy mạnh thực hiện Thông tư số 09/2009/TT-BGDĐT ngày 7/5/2009 ban hành Quy chế thực hiện công khai đối với cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân (thực hiện “3 công khai”, “4 kiểm tra”), qua đó sẽ từng bước chấn chỉnh việc thu và sử dụng học phí một cách có hiệu quả. Các cơ sở giáo dục nếu có vi phạm, tùy theo từng mức độ Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ có hình thức xử lý thích đáng.

74. Cử tri tỉnh Cà Mau kiến nghị: Bộ Giáo dục và Đào tạo cho Cà Mau thành lập trường đại học để các em sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông có điều kiện theo học đại học tại địa phương sẽ giảm được một phần chi phí cho nhiều hộ nông dân nghèo có con em đi học.

Trả lời:

Việc thành lập trường đại học phải theo các tiêu chí đã được quy định tại Quyết định số 07/2009/QĐ-TTg ngày 15/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ về điều kiện và thủ tục thành lập, đình chỉ hoạt động, sáp nhập, chia, tách, giải thể trường đại học.

Để tỉnh Cà Mau có 1 trường ĐH, cần có đề án thành lập trường theo đúng quy định. Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ cùng các Bộ liên quan thẩm định, nếu đủ điều kiện sẽ trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

75. Cử tri tỉnh Cao Bằng kiến nghị: Các địa phương nơi Đoàn đến tiếp xúc cử tri tiếp tục kiến nghị, yêu cầu ngành giáo dục có nghiên cứu thêm về chương trình giáo dục phổ cập, cử tri cho rằng với cách thực hiện như hiện nay sẽ không đảm bảo chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh, mâu thuẫn với mục tiêu chống chạy theo thành tích vì: Thông thường học sinh phải đi học trong 9 tháng mới hoàn thành chương trình của 1 năm học, tuy nhiên để hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục đúng độ tuổi, học sinh sẽ phải hoàn thành chương trình 1 năm học trong 3-4 tháng. Đồng thời, giáo dục phổ cập có kinh phí hỗ trợ học sinh đi học nên dẫn đến tình trạng một số nơi nhân dân có trình độ nhận thức chưa cao sẽ nghỉ học trong năm và đi học theo chương trình phổ cập giáo dục để được nhận trợ cấp và ít tốn thời gian hơn.

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 5, khoản 1, 2 Nghị định số 88/2001/NĐ-CP ngày 22/11/2001 của Chính phủ về “Thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở”Chương trình giáo dục được áp dụng để thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở là chương trình trung học cơ sở hoặc chương trình bổ túc trung học cơ sở do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành (khoản 1)”; “Phương thức giáo dục được áp dụng để thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở là phương thức giáo dục chính quy hoặc phương thức giáo dục không chính qui” (khoản 2). Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng quy định tại Điều 2 của Quyết định số 26/2001/QH-BGD&ĐT ngày 05/7/2001 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về Chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở như sau: “Phổ cập giáo dục trung học cơ sở thực hiện theo 1 trong 2 chương trình: Chương trình trung học cơ sở hoặc chương trình bổ túc trung học cơ sở do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành”. Theo đó, chương trình bổ túc trung học cơ sở gồm 7 môn học bắt buộc và 1 môn học tự chọn, được thực hiện trong thời gian 6 tháng/lớp.

Trường hợp một số địa phương vận dụng quy định cho chuyển số học sinh không có khả năng học chính qui, lớn tuổi sang học lớp phổ cập để giảm bớt khối lượng học tập có thời gian tập trung vào các môn học cơ bản phù hợp với điều kiện thực tế về kinh tế xã hội, trình độ dân trí, phong tục tập quán của địa phương là không vi phạm quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Tuy nhiên, trong thực tế một số rất ít địa phương, nhất là những nơi khó khăn, vùng núi, vùng sông nước, nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống đã không thực hiện dạy đủ 6 tháng/lớp là vi phạm quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Khi phát hiện hiện tượng này, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã kịp thời chỉ đạo các Sở Giáo dục và Đào tạo chấn chỉnh kịp thời, dạy đủ, đúng chương trình quy định của Bộ đảm bảo quyền lợi cho người học, tránh hiện tượng chạy theo thành tích.

Để giám sát việc thực hiện chương trình chính quy cũng như chương trình bổ túc (phổ cập), hằng năm Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo các Sở Giáo dục và Đào tạo thực hiện thanh, kiểm tra chuyên môn đối với các trường trung học cơ sở và trung tâm giáo dục thường xuyên để nắm tình hình và yêu cầu thực hiện đủ, đúng chương trình theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành, đồng thời có các hình thức kỷ luật đối với các cơ sở cố tình vi phạm quy định.

76. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị:

- Quan tâm chỉ đạo các địa phương và các cơ sở giáo dục tăng cường bồi dưỡng giáo dục đạo đức cho sinh viên, học sinh; ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm minh tình trạng bạo lực học đường đang có chiều hướng gia tăng trong thời gian gần đây.

- Trên cơ sở sửa đổi Luật Giáo dục cần tiến hành đánh giá hiệu quả của việc đổi mới phương pháp dạy và học; nhất là việc đổi mới chương trình sách giáo khoa từ năm 2002 theo Nghị quyết của Quốc hội và Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; Phân cấp nhiều hơn nữa cho các cơ sở giáo dục, tuy nhiên phải đảm bảo chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo. Đánh giá đúng những thuận lợi, khó khăn bất cập của việc tổ chức kỳ thi “hai trong một” tốt nghiệp THPT và đại học để xác định lộ trình thích hợp trước khi áp dụng rộng rãi. Đầu năm học mới, Bộ cần chỉ đạo cho các cơ sở giáo dục niêm yết các khoản thu (kể cả các khoản thu ngoài học phí) và thời gian thu để tăng cường tính công khai, minh bạch; đồng thời tạo điều kiện để các hộ gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn chủ động về tài chính.


Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12

tải về 4.57 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   52   53   54   55   56   57   58   59   60




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương