UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ BẢY quốc hội khoá XII



tải về 4.57 Mb.
trang56/60
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích4.57 Mb.
#16071
1   ...   52   53   54   55   56   57   58   59   60

53. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Bộ Giáo dục và Đào tạo quan tâm nhiều hơn nữa đối với bộ môn Lịch Sử Việt Nam, nhằm tăng cường công tác giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ nước nhà.

Trả lời:

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nhận thức rõ bộ môn Lịch sử có vị trí, vai trò quan trọng trong việc giúp học sinh có những hiểu biết về kiến thức Lịch sử dân tộc, thông qua đó giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc và niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa… Chính vì vậy, bộ môn Lịch sử đã được đưa vào nhà trường học từ lớp 4 đến lớp 12 và dành một thời lượng đáng kể trong các môn học ở trường phổ thông: Lớp 4: 35 tiết; lớp 5: 35 tiết; lớp 6: 35 tiết; lớp 7: 70 tiết; lớp 8: 52 tiết; lớp 9: 52 tiết; lớp 10 cơ bản: 52 tiết; lớp 10 nâng cao: 52 tiết; lớp 11 cơ bản 35 tiết, lớp 11 nâng cao 70 tiết; lớp 12 cơ bản 52 tiết, lớp 12 nâng cao 70 tiết. Trong đó Lịch sử Việt Nam chiếm một thời lượng lớn trong toàn bộ nội dung lịch sử (thường chiếm khoảng 70% thời lượng toàn bộ chương trình lịch sử).

Cùng với việc dành một thời lượng thích hợp cho bộ môn Lịch sử, thì trong việc giảng dạy bộ môn ở trường phổ thông ngoài việc cung cấp kiến thức lịch sử cho học sinh, các nhà trường còn chú trọng rèn kĩ năng cho các em, thông qua việc cung cấp kiến thức, rèn kĩ năng góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, yêu lao động, tinh thần đoàn kết giúp đỡ nhau, lòng tự hào dân tộc…đối với học sinh, chủ nhân tương lai của đất nước.

Bên cạnh đó, trong các năm thi tốt nghiệp trung học phổ thông, bổ túc trung học phổ thông, bộ môn Lịch sử là môn được Bộ Giáo dục và Đào tạo thường xuyên được chọn là môn thi. Bộ môn Lịch sử hằng năm đều tổ chức thi học sinh giỏi quốc gia và là một môn thi tuyển sinh đại học, cao đẳng.



54. Cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị: Công tác giáo dục phổ thông mặc dù đã được cải cách nhưng nội dung và phương pháp giảng dạy còn lạc hậu, học sinh học thụ động, máy móc, không có tính sáng tạo không phù hợp với từng lứa tuổi tạo áp lực rất lớn cho học sinh nên chất lượng chưa cao; Công tác đào tạo và dạy nghề ở tất cả các bậc chất lượng còn rất thấp, kỹ năng thực tiễn sau khi ra trường chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc.

Trả lời:

a) Về công tác giáo dục phổ thông:

Từ năm học 2002-2003 đến năm học 2008-2009 Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông. Trong quá trình thực hiện, tháng 5/2008 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức để giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục ở 64 tỉnh, thành phố và một số tổ chức xã hội (Hội Cựu Giáo chức Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam, Liên hiệp các hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam) đánh giá một cách toàn diện chương trình, sách giáo khoa ở tất cả các môn học và tất cả các lớp học. Năm 2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục tổ chức Hội nghị đánh giá 3 năm thực hiện chương trình, sách giáo khoa cấp THPT. Kết quả đánh giá chung là: Về cơ bản, chương trình giáo dục các cấp học, môn học đã đảm bảo được tính chính xác, khoa học, hiện đại, cập nhật và tiếp cận được trình độ giáo dục ở các nước phát triển trong khu vực, đáp ứng xu thế phát triển xã hội Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế; nội dung và yêu cầu của chương trình ở nhiều môn học phù hợp với trình độ phát triển tâm sinh lý học sinh; chương trình có chú ý đến sự phân hoá trình độ nhận thức của học sinh, chú ý đến tính liên thông giữa các môn học, cấp học; đảm bảo nguyên tắc kế thừa và phát triển từ các chương trình giáo dục trước đây.

Năm học 2009-2010, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã lấy chủ đề là: “Năm học đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục". Cùng với các giải pháp kiên quyết và cụ thể, Bộ đã và đang tập trung chỉ đạo toàn ngành đổi mới phương pháp dạy học; vận động trong ngành giáo dục, trong vòng 2 năm bắt đầu từ năm học 2009 - 2010, chấm dứt việc dạy học chủ yếu qua “đọc - chép” ở THCS và THPT. Mỗi giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục thực hiện một đổi mới trong phương pháp dạy học và quản lý. Mỗi trường có một kế hoạch cụ thể về đổi mới phương pháp dạy học. Mỗi tỉnh có 1 chương trình đổi mới phương pháp dạy học….

Với các giải pháp đồng bộ, việc dạy học ở trường phổ thông sẽ khắc phục được tình trạng học sinh học thụ động, máy móc; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; chất lượng dạy học và giáo dục sẽ ngày càng được nâng cao.



b) Về công tác đào tạo và dạy nghề:

Căn cứ theo Luật Giáo dục 2005, Chính phủ là cơ quan thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục. Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục (Điều 100, Luật Giáo dục 2005). Theo sự phân công của Chính phủ, hiện nay dạy nghề do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quản lý, vì vậy vấn đề chất lượng của đào tạo nghề thuộc phạm vi trả lời của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội.



55. Cử tri tỉnh Kiên Giang kiến nghị: Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo cần quan tâm chất lượng đầu ra và đảm bảo chất lượng thi tuyển đầu vào chất lượng đào tạo ở các loại hình đào tạo của bậc đại học, tăng cường giám sát việc thực hiện cải cách giáo dục, thay sách giáo.

Trả lời:

a) Về việc quan tâm đến chất lượng đầu ra và đảm bảo chất lượng thi tuyển đầu vào chất lượng đào tạo ở các loại hình đào tạo của bậc đại học:

Để nâng cao chất lượng đầu ra của các sinh viên tốt nghiệp đại học, năm 2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quy chế thực hiện 3 công khai đối với các cơ sở giáo dục, từ tháng 5/2009 các trường đại học, cao đẳng phải công khai cam kết chất lượng đào tạo và chất lượng thực tế của cơ sở đào tạo; công khai nguồn lực phục vụ đào tạo; công khai thu chi tài chính. Các nội dung của 3 công khai phải được công bố ở Website của mỗi trường, ở các khoa, thư viện để mọi người dễ tiếp cận. Tính đến ngày 31/01/2010 tất cả các trường đại học và cao đẳng đã gửi báo cáo ba công khai về Bộ Giáo dục và Đào tạo trong đó có hơn 50% số trường đã xây dựng đầy đủ nội dung về chuẩn đầu ra ngành đào tạo.

Để thống nhất về nhận thức và cách thức xây dựng chuẩn đầu ra các ngành đào tạo trình độ đại học, cao đẳng, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang hoàn thiện để ban hành hướng dẫn xây dựng và công bố chuẩn đầu ra ngành đào tạo. Trên cơ sở hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường triển khai xây dựng và đến đầu năm học 2010-2011, tất cả các trường đại học, cao đẳng phải công bố chuẩn đầu ra từng ngành đào tạo tương ứng với các trình độ đào tạo của cơ sở mình.

Việc đảm bảo chất lượng đầu vào của các loại hình đào tạo ở trình độ cao đẳng, đại học được Bộ Giáo dục và Đào tạo hết sức quan tâm. Trong 8 năm qua (2002 - 2009), Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai đề án cải tiến tuyển sinh theo giải pháp 3 chung, các kỳ thi đã diễn ra trong trật tự, an toàn, nghiêm túc và đúng quy chế, được dư luận xã hội hoan nghênh và đánh giá tốt. Các trường đã thực hiện tuyển sinh đại học hệ chính quy nghiêm túc đồng thời trong cả nước với đề thi chung cho tất cả các trường đại học, cao đẳng (theo khối thi) và sử dụng chung kết quả thi để xét tuyển cho nhiều trường đại học, cao đẳng khác nhau. Điểm sàn để xét tuyển vào các trường đại học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định tương ứng với từng khối thi, dao động trong khoảng từ 13 đến 15 điểm/30 điểm, 3 môn thi. Đối với tuyển sinh hệ vừa làm vừa học, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã ban hành quy chế tuyển sinh riêng nhằm nâng cao chất lượng tuyển chọn đầu vào, tuyển sinh theo đợt, các môn thi trắc nghiệm, đề thi do Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo cung cấp, điểm tối thiểu để xét tuyển là 12 điểm/3 môn thi (không nhân hệ số,...

Ngày 27/2/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 296/CT-TTg về Đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012; Ban Cán sự Đảng Bộ GD&ĐT đã có Nghị quyết số 05-NQ/BCSĐ ngày 06/1/2010 về Đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012 và Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quyết định số 179/QĐ-BGDĐT ngày 11/1/2010 Phê duyệt Chương trình hành động triển khai thực Nghị quyết số 05-NQ/BCSĐ ngày 06/1/2010 của Ban Cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo về Đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012. Theo đó, việc đổi mới quản lý giáo dục đại học bao gồm quản lý Nhà nước về giáo dục đại học và quản lý của các cơ sở đào tạo là khâu đột phá để tạo ra sự đổi mới toàn diện của giáo dục đại học, từ đó đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo, nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học một cách bền vững.

Toàn ngành giáo dục sẽ tổ chức nghiên cứu, thảo luận nội dung “Làm gì để đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo”. Mục tiêu tổ chức cuộc thảo luận này để thống nhất nhận thức không thể tiếp tục phát triển quy mô giáo dục đại học mà lại buông lỏng quản lý chất lượng như thời gian qua. Các bên liên quan bao gồm quản lý nhà nước, quản lý nhà trường, giảng viên, sinh viên, người sử dụng lao động và xã hội đều có trách nhiệm về chất lượng đào tạo, trong đó đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục đại học là khâu đột phá để đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo. Tổ chức công tác tuyên truyền để các cơ sở giáo dục đại học, các giảng viên, các Sở Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan báo chí đều biết và thực hiện 11 giải pháp sẽ được triển khai và 23 văn bản quản lý nhà nước về giáo dục đại học sẽ được ban hành theo Nghị quyết này và chương trình hành động của Bộ Giáo dục và Đào tạo để đổi mới toàn diện, mạnh mẽ quản lý giáo dục đại học.

Các giải pháp cơ bản, đồng bộ nêu trên sẽ góp phần vào nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực của hệ thống giáo dục đại học nước nhà, đáp ứng mong mỏi của cử tri trong cả nước.

b,)Tăng cường giám sát việc thực hiện cải cách giáo dục, thay sách giáo khoa.

Đổi mới giáo dục là vấn đề lớn của đất nước, sự nghiệp chung của toàn xã hội. Đổi mới giáo dục cần phải quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, Quốc Hội, Chính phủ; cần có sự chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh đạo, sự tham gia phối hợp của các cấp các ngành cùng với ngành Giáo dục và của tất cả các địa phương. Đồng thời quá trình đổi mới giáo dục cần có sự giám sát của các cơ quan hữu quan và toàn xã hội.

Trước yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, trước sự phát triển nhanh và mạnh mẽ của kinh tế-xã hội, khoa học, công nghệ; quán triệt đường lối đổi mới của Đảng được đề ra từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/2006), Quốc hội đã có Nghị quyết số 40/2000/QH10 ngày 9/12/2000 về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai xây dựng chương trình mới, biên soạn sách giáo khoa mới thay thế cho sách giáo khoa được biên soạn theo chương trình cải cách giáo dục năm 1981. Từ năm học 2002 – 2003, chương trình giáo dục và sách giáo khoa mới được triển khai đại trà, mở đầu là lớp 1 (ở tiểu học) và lớp 6 (ở trung học cơ sở) trong phạm vi cả nước. Mỗi năm sau đó triển khai chương trình giáo dục và sách giáo khoa mới cho một lớp ở tiểu học và một lớp ở trung học. Năm học 2008-2009 đã triển khai sách giáo khoa mới cho lớp 12, hoàn thành chu kì thay sách giáo khoa mới cho giáo dục phổ thông.

Trong quá trình thực hiện, từ giai đoạn tổ chức biên soạn chương trình, sách giáo khoa mới, tổ chức thí điểm để hoàn thiện cho đến quá trình triển khai đại trà luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, giám sát của các cơ quan hữu quan và sự quan tâm của nhiều tầng lớp nhân dân với mong muốn đóng góp cho sự nghiệp đổi mới giáo dục. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã báo cáo lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc Hội, Chính phủ, Ban Khoa giáo Trung ương, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ, … về phương hướng đổi mới, về tình hình thực hiện sau từng giai đoạn để xin ý kiến định hướng, chỉ đạo, góp ý. Trong quá trình đổi mới, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã tổ chức lấy ý kiến của Hội Khuyến học Việt Nam, Hội Cựu Giáo chức Việt Nam, Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, và của đông đảo các tầng lớp xã hội qua các phương thức như đăng tải và xin ý kiến góp ý trên các phương tiện thông tin đại chúng; mời tham gia góp ý, đánh giá; Qua đó Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nhận được nhiều ý kiến, thông tin quý báu giúp cho Bộ trong quá trình đổi mới giáo dục.



56. Cử tri tỉnh Hà Nam, TP. Hồ Chí Minh kiến nghị: Nhất trí với Nghị quyết về chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo từ năm học 2010-2011 đến năm học 2014-2015; đề nghị Chính phủ chỉ đạo ngành giáo dục cũng phải nâng cao chất lượng giáo dục.

Trả lời:

a) Đối với giáo dục phổ thông:

Được sự quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước về cơ sở vật chất, nguồn lực cho ngành giáo dục, những năm qua toàn ngành đã nỗ lực phấn đấu, đề ra nhiều giải pháp, phát động các cuộc vận động nhằm nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, bước đầu đạt được những kết quả:

- Hệ thống giáo dục quốc dân được hoàn thiện hơn với các cấp, bậc học, trình độ đào tạo, các loại hình và phương thức giáo dục. Quy mô giáo dục tăng nhanh, nhất là ở bậc đại học và đào tạo nghề.

- Công bằng xã hội trong giáo dục được cải thiện, đặc biệt là tăng cơ hội tiếp cận giáo dục đối với trẻ em gái, người dân tộc thiểu số và con em các gia đình nghèo, các đối tượng bị thiệt thòi trong xã hội; giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa tiếp tục phát triển.

- Các loại hình nhà trường ngày càng được đa dạng hóa, thu hút được nhiều người học; các trường công lập đã giữ được vai trò nòng cốt trong phổ cập giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, quy mô giáo dục ngoài công lập phát triển.

- Thực hiện Chỉ thị số 33/2006/CT-TTg ngày 08 tháng 9 năm 2006 về chống tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục, bắt đầu từ năm học 2006-2007, toàn ngành đã tích cực triển khai thực hiện thông qua cuộc vận động “Hai không” của ngành “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”. Cuộc vận động “Hai không” là khâu đột phá để đổi mới giáo dục phổ thông và mầm non giai đoạn 2006-2010. Qua hơn 3 năm triển khai, trật tự, kỷ cương thi cử trong toàn ngành đã chuyển biến căn bản, ý thức tự giác học tập của học sinh được nâng lên, thể hiện rõ nét qua kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông, bổ túc trung học phổ thông các năm 2007, 2008, 2009. Về cơ bản các kỳ thi vừa qua được tổ chức nghiêm túc và ngày càng nghiêm túc hơn, được dư luận xã hội đồng tình, ủng hộ.

Chính từ kết quả thực chất của kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông và bổ túc trung học phổ thông năm 2007 (lần 1) chỉ đạt 66,7%, có nhiều địa phương đạt dưới 50% (trong khi đó năm 2006 đạt 94%), cấp ủy và chính quyền các địa phương đã chỉ đạo công tác giáo dục tập trung hơn, hiệu quả hơn, chất lượng giáo dục thực tế dần được nâng lên: năm 2008 tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông và bổ túc trung học phổ thông (lần 1) là 76% (tăng hơn 9% so với năm 2007); năm 2009 tỷ lệ tốt nghiệp là 83% (không tổ chức thi tốt nghiệp lần 2), tăng 7% so với năm 2008, tăng 16% so với năm 2007.

- Bằng nhiều biện pháp chỉ đạo kiên quyết của ngành cùng với sự hỗ trợ tích cực của gia đình và các đoàn thể xã hội, số học sinh bỏ học giảm đáng kể qua các năm, cụ thể: năm học 2007-2008 số học sinh bỏ học là 215.163 em (chiếm tỷ lệ 1,37%); năm học 2008-2009 là 168.047 em (chiếm tỷ lệ 1,09 %). Như vậy học sinh bỏ học năm học 2008-2009 giảm 47.161 em (giảm 22%) so với năm học trước.

- Tính đến tháng 9/2009, có 48/63 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập tiểu học đúng độ tuổi (đạt 76,1%); 56/63 tỉnh, thành phố đạt chuẩn cập giáo dục THCS (đạt 88,9%).

- Ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục tăng nhanh (Tổng chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục và đào tạo năm học 2008-2009 là 91.986 tỉ đồng). Việc huy động nguồn lực trong xã hội đầu tư cho giáo dục thông qua chủ trương xã hội hoá đạt hiệu quả khá. Các nguồn lực đầu tư cho giáo dục ngày càng được kiểm soát và tăng dần hiệu quả sử dụng.

- Việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông, chương trình và giáo trình ở dạy nghề và đại học đang được tích cực thực hiện, phương pháp dạy học dần từng bước được cải thiện, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng, đã có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp giáo dục.

Tuy nhiên, giáo dục phổ thông hiện nay cũng còn có những hạn chế nhất định ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục. Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tiến hành các giải pháp đồng bộ để cải thiện chất lượng giáo dục phổ thông:

- Tổ chức đánh giá chương trình, sách giáo khoa, tập trung chỉ đạo đổi mới kiểm tra, đánh giá thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học trên cơ sở bám sát chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình giáo dục phổ thông theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, coi đây là một trong các giải pháp quan trọng nhất để nâng cao chất lượng.

- Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ từng bước đổi mới chương trình, kế hoạch giáo dục phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đảm bảo mặt bằng giáo dục đối với các nước trong khu vực theo phương châm giáo dục toàn diện đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, yêu cầu dạy linh hoạt, sát đối tượng; thực hiện đổi mới kiểm tra đánh giá, phân loại học sinh đúng thực chất.

- Củng cố, phát triển hệ thống trường lớp, tăng cường cơ sở vật chất, tích cực thực hiện chương trình kiên cố hoá trường học, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học từ các dự án của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học cho các trường phổ thông, ưu tiên các nguồn lực đầu tư cho giáo dục đối với vùng khó khăn, miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số nhằm tạo ra môi trường học tập tốt để thu hút học sinh học tập.

b) Đối với giáo dục đại học:

Ngày 27/2/2010 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 296/CT-TTg về Đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012. Theo đó, việc đổi mới quản lý giáo dục đại học bao gồm quản lý Nhà nước về giáo dục đại học và quản lý của các cơ sở đào tạo là khâu đột phá để tạo ra sự đổi mới toàn diện của giáo dục đại học, từ đó đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo, nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học một cách bền vững. Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Giáo dục và Đào tạo:

- Tiến hành rà soát, điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành, đồng thời xây dựng và ban hành kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật mới về thành lập trường, tuyển sinh, tổ chức đào tạo, quản lý tài chính, quản lý chất lượng, tuyển dụng, trong đó làm rõ trách nhiệm và chế độ của nhà giáo trong đào tạo và nghiên cứu khoa học, quan hệ giữa Ban giám hiệu, Hội đồng trường, Đảng ủy, các đoàn thể ở trường để từ đó các trường đại học, cao đẳng thực hiện quyền tự chủ và nghĩa vụ tự chịu trách nhiệm trước xã hội và nhà nước theo quy định của Luật Giáo dục.

- Triển khai Nghị quyết số 35/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội khoá XII về chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo từ năm học 2010 - 2011 đến năm học 2014 - 2015. Hướng dẫn và kiểm tra các trường áp dụng mức trần học phí mới theo hướng tăng học phí phải gắn liền với các giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng đào tạo. Thực hiện tốt các chính sách miễn giảm học phí, chính sách tín dụng sinh viên và việc cấp bù học phí được miễn giảm cho các trường.

- Phối hợp với Bộ Xây dựng triển khai xây dựng và thực hiện Quy hoạch xây dựng các đại học trong các tỉnh, thành phố; quy hoạch và xây dựng ký túc xá sinh viên. Triển khai thực hiện quy hoạch xây dựng hệ thống các trường đại học, cao đẳng tại vùng Thủ đô Hà Nội và vùng thành phố Hồ Chí Minh. Triển khai thực hiện đề án xây dựng ký túc xá sinh viên các trường đại học, cao đẳng với mục tiêu đến năm 2011 tạo thêm khoảng 200.000 chỗ ở cho sinh viên.

- Tham mưu cho Chính phủ phân công, phân cấp quản lý các trường đại học, cao đẳng theo hướng làm rõ trách nhiệm quản lý nhà nước giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ, ngành quản lý trường và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố. Tăng cường bộ máy giúp việc cho UBND các tỉnh, thành phố để thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn.

Triển khai việc phân cấp mạnh mẽ cho các cơ sở giáo dục đại học, đồng thời phát huy cao độ tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự kiểm soát bên trong của các trường, trên cơ sở các quy định của nhà nước và của các trường, tăng cường công tác giám sát và kiểm tra của nhà nước, của xã hội và của bản thân các cơ sở.

- Kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các cam kết của các trường đại học, cao đẳng trong đề án thành lập trường về cơ sở vật chất, đội ngũ nhà giáo, chương trình, giáo trình nhằm bảo đảm và từng bước nâng cao chất lượng đào tạo; có cơ chế xử lý nghiêm khắc đối với các trường sau 3 năm thành lập không đáp ứng đủ các tiêu chí, điều kiện của một trường đại học, cao đẳng như cam kết của các nhà đầu tư. Đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra hoạt động liên kết đào tạo, đào tạo theo hình thức vừa làm vừa học, đào tạo từ xa, đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ.

- Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện chủ trương đào tạo theo nhu cầu xã hội; tổ chức sơ kết, đánh giá 3 năm (2008 - 2010) việc triển khai thực hiện đào tạo theo nhu cầu xã hội và xây dựng kế hoạch đào tạo theo nhu cầu xã hội cấp quốc gia, tại mỗi địa phương và mỗi cơ sở đào tạo.

- Đẩy mạnh việc đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục đại học theo hướng đẩy nhanh tiến độ tự đánh giá của các trường đại học và cao đẳng, triển khai từng bước việc kiểm định các trường đại học, cao đẳng; xây dựng tiêu chuẩn và hình thành một số cơ quan kiểm định chất lượng giáo dục đại học độc lập.

- Nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng các trường đại học, cao đẳng trong việc xây dựng tiêu chuẩn chức danh, quy hoạch cán bộ lãnh đạo trường giai đoạn 2010 - 2015 và tổ chức bồi dưỡng về quản lý giáo dục đại học.

- Nâng cao năng lực quản lý và hiệu quả công tác nghiên cứu khoa học ở các trường đại học, góp phần tích cực nâng cao chất lượng đào tạo và phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.

- Hướng dẫn và kiểm tra các trường đại học, cao đẳng xây dựng chiến lược phát triển nhà trường giai đoạn 2011 - 2015, đáp ứng đòi hỏi của sự phát triển đất nước và của giáo dục đại học trong giai đoạn hiện nay.

Thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng chính phủ với các giải pháp cơ bản, đồng bộ nêu trên sẽ góp phần vào nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực của hệ thống giáo dục đại học nước nhà, đáp ứng mong mỏi của cử tri trong cả nước.



57. Cử tri các tỉnh Hoà Bình, Hải Dương, tp Hà Nội kiến nghị: Kiến nghị Chính phủ chỉ đạo tăng cường quản lý nhà nước để đảm bảo về chất lượng đào tạo, tăng cường kiểm tra, giám sát tư cách pháp nhân, hoạt động của các tổ chức liên doanh liên kết đào tạo từ trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học trên cả nước; đánh giá lại loại hình liên kết đào tạo, đặt ra một quy định bắt buộc giữa đào tạo và giải quyết việc làm đáp ứng với nhu cầu thực tế, tránh hiện tượng đào tạo tràn lan như hiện nay.

Trả lời:

Việc liên kết đào tạo đã có văn bản hướng dẫn cụ thể của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phân cấp giao cho các trường tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ nói chung, trong đó có liên kết đào tạo. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang tăng cường khâu kiểm tra, giám sát các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo. Trong đó chủ yếu đảm bảo đủ đội ngũ giáo viên và có hệ thống cơ sở vật chất phù hợp với chuyên ngành đào tạo của mỗi cơ sở.

Việc giải quyết việc làm cho người lao động sau khi được đào tạo phụ thuộc vào nhiều yếu tố bên ngoài các cơ sở đào tạo. Trong đó chủ yếu phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế, từ đó thu hút và tạo thêm việc làm cho người lao động. Thực tiễn cho thấy ngay cả khi đào tạo đạt chất lượng tốt, nhưng nếu kinh tế suy thoái thì thất nghiệp vẫn gia tăng. Tuy nhiên Bộ GDĐT cũng sẽ nghiên cứu cơ chế để gắn kết giữa đào tạo với sử dụng lao động được đào tạo.

58. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Để giáo dục đạt chất lượng tốt thì đòi hỏi phải đổi mới giáo dục một cách mạnh mẽ, trong đó có đổi mới về nội dung, chương trình đào tạo, giảng dạy và để đổi mới chương trình giảng dạy tất yếu giáo viên phải được tập huấn. Thế nhưng, thực tế việc tập huấn cho các giáo viên thì vẫn chưa được thực hiện kịp thời. Vậy, sự đổi mới giáo dục có hiệu quả hay không, có thực hiện được hay không? Đề nghị cần có giải pháp để việc cải cách được đồng bộ, vững chắc, đạt hiệu quả cao.


Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12

tải về 4.57 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   52   53   54   55   56   57   58   59   60




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương