UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ BẢY quốc hội khoá XII



tải về 4.57 Mb.
trang52/60
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích4.57 Mb.
#16071
1   ...   48   49   50   51   52   53   54   55   ...   60

13. Cử tri tỉnh Lâm Đồng kiến nghị: Bộ Giáo dục và Đào tạo xem xét việc dạy và học của các trường đại học, cao đẳng, việc mở rộng các ngành, nghề đào tạo hiện nay của các trường là không phù hợp, cơ sở vật chất không đảm bảo, thiếu các phương tiện thực hành, nhiều ngành không thể tuyển sinh.

Trả lời:

Theo quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành: Điều lệ trường đại học; Điều lệ trường cao đẳng; Điều kiện, thủ tục thành lập, sáp nhập, chia tách, giải thể và đình chỉ hoạt động trường đại học; Quy trình, thủ tục thành lập trường, mở ngành đào tạo,... việc đăng ký mở ngành đào tạo của các trường phải đảm bảo các điều kiện: (1) có xác định nhu cầu đào tạo nhân lực đáp ứng phát triển kinh tế xã hội của Bộ ngành, địa phương và vùng lân cận; (2) có đội ngũ giảng viên cơ hữu đủ về số lượng, trình độ chuyên môn phù hợp với ngành đăng ký; (3) có điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị đảm bảo (phòng học, phòng thí nghiệm, nhà xưởng thực hành, …), (4) có trong danh mục ngành đào tạo hiện hành của Nhà nước, nếu là ngành mới phải chứng minh nhu cầu đào tạo thực tế và kinh nghiệm đào tạo quốc tế; (5) có chương trình đào tạo được xây dựng trên cơ sở chương trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Để mở ngành đào tạo, các trường đại học, cao đẳng phải lập hồ sơ mở ngành. Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức thẩm định theo hồ sơ, trong một số trường hợp cần thiết, phải khảo sát thực tế tại các trường để xém xét và quyết định giao nhiệm vụ mở ngành cho trường, nếu đảm bảo các điều kiện quy định.

Từ năm 2007 đến nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo các trường rà soát gần 4.900 chương trình đào tạo về tên ngành, mục tiêu đào tạo, yêu cầu chuẩn kiến thức/kỹ năng/thái độ, vị trí làm việc sau tốt nghiệp, khối lượng kiến thức, tỷ lệ phân bổ thời gian giữa lý thuyết và thực hành,... để đảm bảo cập nhật tri thức mới, đảm bảo tính khoa học, thực tiễn và đảm bảo tính liên thông trong đào tạo.

Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, việc mở ngành đào tạo cũng còn một số hạn chế, bất cập sau:

- Chưa bắt buộc các cơ sở đào tạo phải công khai thông tin năng lực đào tạo của trường, không phải công khai hồ sơ mở ngành, khi mở ngành chủ yếu chỉ thẩm định trên hồ sơ đã dẫn đến tình trạng có trường đại học, cao đẳng mở ngành và hoạt động nhưng không đủ các điều kiện đảm bảo chất lượng.

- Bộ Giáo dục và Đào tạo không duy trì được việc yêu cầu các trường báo cáo định kỳ về các điều kiện hoạt động của ngành đào tạo, chưa thực hiện thường xuyên quy định chế độ kiểm tra các trường đại học, cao đẳng sau khi đã được phép mở ngành, tuyển sinh để xem xét các quy định về đào tạo có bị xâm phạm hay không để xử lý kịp thời.

- Chế tài xử lý đối với các trường không thực hiện đúng cam kết về các điều kiện mở ngành và tuyển sinh chưa đủ mạnh; nhiều trường vẫn tập trung chủ yếu mở các ngành đào tạo ít phải đầu tư trang thiết bị, ít tốn kém trong quá trình đào tạo, giờ thí nghiệm, thực hành không nhiều.

- Cơ sở vật chất, trang thiết bị thí nghiệm, thực hành vẫn còn thiếu thốn nhiều, hệ thống thư­ viện nhỏ bé, chưa cung cấp đủ thông tin cho giảng viên và người học.

- Quy mô đào tạo của các trường, nhìn chung còn vượt quá khả năng cho phép và các điều kiện đảm bảo chất lượng theo quy định.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đang hoàn thiện dự thảo để ban hành điều kiện, quy trình đăng ký mở ngành đào tạo trình độ đại học, cao đẳng trên cơ sở đảm bảo cơ cấu ngành nghề, trình độ và hình thức đào tạo hợp lý, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho phát triển kinh tế xã hội, của bộ ngành, địa phương, khu vực và trên phạm vi cả nước; đồng thời yêu cầu các trường tập trung đầu tư, tăng cường các điều kiện đảm bảo chất lượng về đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, thiết bị, thư viện giáo trình, xây dựng và công bố chuẩn đầu ra, đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu xã hội, thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, nâng cao chất lượng và hiệu quả nghiên cứu khoa học và thực hiện 3 công khai (công khai cam kết chất lượng đào tạo và chất lượng thực tế của cơ sở đào tạo; công khai nguồn lực phục vụ đào tạo; công khai thu chi tài chính), nhằm tạo cơ chế giám sát xã hội về chất lượng đào tạo và động lực cho việc nâng cao chất lượng đào tạo.

14. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Về việc quy hoạch đào tạo 20.000 tiến sĩ của cả nước, đề nghị Bộ cần có quy hoạch cụ thể số lượng đào tạo của từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong đó số lượng đào tạo đối với dân tộc thiểu số là bao nhiêu để các địa phương có cơ sở thực hiện.

Trả lời:

Trong 10 năm qua, ngành Giáo dục đã rất chú trọng phát triển, chuẩn hóa đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục về số lượng và chất lượng, đặc biệt là từ khi có Chỉ thị 40-CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục và Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg ngày 11/01/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án "Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005 - 2010".

Số liệu thống kê cho thấy, số giảng viên đại học, cao đẳng đã tăng từ 20.112 năm 1997 lên 61.190 năm 2009 (gấp 3 lần), số giảng viên có trình độ tiến sĩ tăng từ 2.041 người lên 6.217 người (gấp 3 lần), số giảng viên có trình độ thạc sĩ tăng từ 3.802 người lên 24.831 người (gấp 6 lần), số giảng viên là Giáo sư, Phó giáo sư tăng từ 526 người lên 2.286 người (gấp 4,5 lần).

Tuy nhiên, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ trong các trường đại học, cao đẳng cả nước chỉ đạt bình quân trên 10%, còn rất thấp so với chỉ tiêu đặt ra. (tại Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg ngày 11/01/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005 - 2010” có yêu cầu“Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo thuộc các cơ sở giáo dục…, bảo đảm đến năm 2010 đủ về số lượng, trong đó có 40% giảng viên đại học có trình độ thạc sĩ và 25% có trình độ tiến sĩ”; Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 của Chính phủ về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020 cũng có đề ra chỉ tiêu:“Đến năm 2010 có ít nhất 40% giảng viên đạt trình độ thạc sĩ và 25% đạt trình độ tiến sĩ; đến năm 2020 có ít nhất 60% giảng viên đạt trình độ thạc sĩ và 35% đạt trình độ tiến sĩ“).

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang thực hiện kế hoạch đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ cho cho giảng viên các trường đại học, cao đẳng với quy mô ngày càng tăng. Trong gần 10 năm, từ năm 2000 đến 2009 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cử 7.039 lưu học sinh đi học nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước và Hiệp định (trong đó đi học tiến sĩ là 2.029 người, thạc sĩ là 1.598 người, thực tập sinh là 626 người và đại học là 2.786 người); bình quân 1 năm cử trên 700 lưu học sinh đi học nước ngoài. Năm học 2008 - 2009 đã cử được trên 1.000 người đi học nước ngoài, trong đó trên 700 người học tiến sĩ, thạc sĩ, thực tập sinh bằng nguồn ngân sách nhà nước, không kể các nguồn khác.

Đồng thời, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng Đề án “Đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2010-2020” trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt với mục tiêu chính như sau:

(a) Tăng cường công tác đào tạo tiến sĩ cả về quy mô và chất lượng; nâng cao trình độ và năng lực chuyên môn, nghiên cứu, giảng dạy và quản lý đại học tiên tiến của đội ngũ giảng viên các trường đại học, cao đẳng;

(b) Đến năm 2020, đào tạo được 20.000 tiến sĩ, tăng tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ trong các trường đại học, cao đẳng của cả nước lên đạt 35%, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam;

(c) Nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo tiến sĩ trong nước, tranh thủ và phát huy mạnh mẽ sự hợp tác quốc tế trong giáo dục và đào tạo, đặc biệt trong đào tạo tiến sĩ, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học của các trường đại học, của giảng viên và cán bộ nghiên cứu của Việt Nam;

(d) Tạo cơ sở vững chắc để đổi mới cơ bản và toàn diện hệ thống giáo dục đại học Việt Nam; từng bước đưa giáo dục đại học Việt Nam hội nhập với nền giáo dục đại học tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.

Như vậy, đối tượng đào tạo của Đề án là giảng viên của các trường đại học, cao đẳng. Đề án không quy hoạch đào tạo theo các địa phương, mà chú trọng vào việc nâng tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ của các trường đại học, cao đẳng, do vậy đối tượng tuyển chọn của Đề án là:

(a) Đối tượng tuyển chọn là giảng viên các trường đại học, cao đẳng trong toàn quốc; sinh viên mới tốt nghiệp đại học hoặc thạc sĩ loại khá trở lên, những người có năng lực và trình độ chuyên môn giỏi đang làm việc tại các đơn vị ngoài nhà trường, có nguyện vọng và cam kết trở thành giảng viên phục vụ lâu dài trong các trường đại học, cao đẳng sau khi được đào tạo; không quá 45 tuổi.

(b) Ưu tiên đào tạo trình độ tiến sĩ cho giảng viên các trường đại học, đặc biệt là các trường đại học trọng điểm, các trường đại học đang được tập trung xây dựng đạt trình độ quốc tế.

(c) Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ, nâng cao trình độ và năng lực chuyên môn cho các ứng viên đáp ứng điều kiện nhập học của các chương trình đào tạo tiến sĩ chất lượng cao trước khi gửi đi đào tạo.

Để được chọn là nghiên cứu sinh thuộc Đề án, các ứng viên phải đáp ứng các điều kiện về chuyên môn, năng lực nghiên cứu và trình độ ngoại ngữ, đảm bảo đào tạo được các tiến sĩ chất lượng cao, cung cấp nhân tài cho đất nước để phát triển giáo dục đại học. Tuy nhiên, ngoài năng lực của các ứng viên, Đề án cũng quan tâm đến điều kiện của các trường đại học, cao đẳng, như vai trò của trường đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ hiện có …

Đối với các trường đại học, cao đẳng thuộc khu vực khó khăn, Nhà nước sẽ hỗ trợ 100% chi phí đào tạo cho giảng viên về ngoại ngữ và các kỹ năng chuẩn bị cho nghiên cứu sinh (trong khi các trường ở các khu vực khác, Nhà nước hỗ trợ 50%, trường đại học, cao đẳng cử giảng viên đi học góp 50%).



15. Cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị: Cử tri ngành giáo dục huyện Hoành Bồ phản ánh về chương trình phổ cập giáo dục trung học: tiêu chuẩn phổ cập đưa ra chưa phù hợp với thực tế tình hình xã hội và sự đồng bộ trong hệ thống giáo dục, trong khi tâm lý hầu hết học sinh tốt nghiệp THCS đều có nguyện vọng vào học THPT hoặc bổ túc THPT, đồng thời các trường chuyên nghiệp vẫn chưa phát triển mô hình tuyển sinh đối tượng học sinh sau THCS. Vì vậy, việc vận động học sinh đã khó mà khi vận động được thì học sinh cũng khó chọn được nguyện vọng nghề. Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo xem xét, nghiên cứu phương án để thực hiện cho phù hợp.

Trả lời:

Chỉ thị 61-CT/TW ngày 28/12/2000 của Bộ Chính trị về việc thực hiện phổ cập trung học cơ sở đã xác định: “Mục tiêu của phổ cập trung học cơ sở là nâng cao mặt bằng một cách toàn diện, làm cho hầu hết công dân đến 18 tuổi đều tốt nghiệp trunghọc cơ sở, kết hợp phân luồng sau cấp học này, tạo cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới cơ cấu và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực...”. Đồng thời Chỉ thị cũng nêu rõ: “Những nơi đã hoàn thành phổ cập trung học cơ sở cần tiếp tục củng cố, nâng cao chất lượng, tổ chức phân luồng sau cấp học này và tùy điều kiện có thể tiến hành phổ cập bậc trung học (trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề).”

Thực hiện Chỉ thị 61-CT/TW, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Công văn số 3420/THPT ngày 23/4/2003 về việc Hướng dẫn thực hiện phổ cập bậc trung học và Công văn số 10819/GDTrH ngày 07/12/2004 về việc điều chỉnh tiêu chuẩn phổ cập bậc Trung học. Đến nay, ở những nơi có điều kiện, các địa phương sau khi đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở, đã tiến hành phổ cập bậc trung học.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, nhiều địa phương phản ánh khó đạt được các tiêu chuẩn quy định, đặc biệt là tiêu chuẩn về tỷ lệ thanh niên độ tuổi từ 18 đến hết 21 có bằng tốt nghiệp THPT hoặc bổ túc THPT hoặc tốt nghiệp THCN từ 75% trở lên và ít nhất 10% trở lên có bằng tốt nghiệp đào tạo nghề. Đối với các thành phố, tỷ lệ trường Tiểu học, THCS, THPT đạt chuẩn quốc gia khó đạt được do số lượng học sinh tăng trong khi đó diện tích trường không tăng.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đang tiến hành nghiên cứu, xem xét các điều kiện về mạng lưới trường lớp, cơ sở giáo dục chuyên nghiệp, cơ sở dạy nghề, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất... để thực hiện mục tiêu phổ cập bậc trung học ở một số địa phương, từ đó báo cáo Quốc hội và Chính phủ ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện cho phù hợp hơn với điều kiện thực tế hiện nay.

16. Cử tri các tỉnh Quảng Ninh, Quảng Nam kiến nghị: Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu nâng cao chất lượng học và có giải pháp để đánh giá kết quả học tập của học sinh một cách khách quan vừa hạn chế được tiêu cực trong thi cử nhưng cũng không ảnh hưởng tới học sinh và đỡ tốn kém, phiền phức cho xã hội.

Trả lời:

Để nâng cao chất lượng giáo dục, trong thời gian qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thực hiện nhiều giải pháp:

- Triển khai dạy học, kiểm tra- đánh giá kết quả học tập của học sinh và quản lí công tác dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng các môn học.

- Tiếp tục thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy học.

- Thực hiện nhiều biện pháp hạn chế tình trạng học sinh bỏ học (chỉ đạo dạy học linh hoạt; biên soạn tài liệu phù hợp đối tượng; tăng cường vai trò của hiệu trưởng, giáo viên…).

- Đổi mới mạnh mẽ công tác quản lí chỉ đạo: giao quyền chủ động cho cơ sở trong việc thực hiện chương trình các môn học; tăng cường vai trò của hiệu trưởng trong tổ chức dạy học và quản lí nhà trường; thực hiện đánh giá giáo viên tiểu học theo Chuẩn nghề nghiệp.

- Tăng cường đội ngũ giáo viên về số lượng và chất lượng: từng bước đảm bảo đủ giáo viên để tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày, đủ về cơ cấu và đặc biệt là giáo viên dạy tiếng Anh.

- Tăng cường cơ sở vật chất trường học theo các tiêu chuẩn của trường tiểu học đạt mức chất lượng tối thiểu, chuẩn quốc gia và các tiêu chí của trường học thân thiện.

- Đảm bảo công bằng với mọi đối tượng học sinh trong việc thụ hưởng một nền giáo dục tiểu học có chất lượng.

- Đấy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lí giáo dục.

Về công tác đánh giá kết quả học tập của học sinh một cách khách quan

Công tác đánh giá, xếp loại học sinh được Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định tại Quy chế về đánh giá, xếp loại học sinh học sinh trung học cơ sở và học sinh trung học phổ thông (ban hành kèm theo Quyết định số 40/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05/10/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo); Thông tư số 32/2009/TT-BGDĐT ban hành Quy định đánh giá và xếp loại học sinh tiểu học. Trong nội dung của Quy chế có quy định việc đánh giá học sinh về học lực, hạnh kiểm. Từng nội dung cũng đều được đề cập một cách cụ thể hình thức, cách thức đánh giá học sinh trong quá trình học tập.

Về học lực: Tổ chức đánh giá với từng môn học và hoạt động giáo dục qua việc kiểm tra thường xuyên, định kỳ, kiểm tra học kỳ và năm học. Việc đánh giá được tiến hành trong cả quá trình học tập của học sinh và thực hiện một cách toàn diện, giúp học sinh có động lực phấn đấu trong học tập.

Về hạnh kiểm: Tổ chức đánh giá ý thức, thái độ của học sinh trong quá trình học tập, tu dưỡng trong nhà trường. Bên cạnh đó, có đánh giá việc rèn luyện đạo đức của học sinh, việc tham gia các hoạt động trong và ngoài nhà trường, tinh thần tự giác trong học tập, kính trọng thầy cô giáo, người lớn tuổi, chan hòa với bạn bè, giúp đỡ mọi người…

Như vậy đánh giá học sinh trong nhà trường hiện nay được thực hiện một cách toàn diện, giúp học sinh có thái độ học tập và rèn luyện, tu dưỡng một cách đúng đắn. Thực hiện Chỉ thị số 33/2006/CT-TTG ngày 8/9/2006 của Thủ tướng Chính phủ về chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục, việc thi, kiểm tra, đánh giá trong các nhà trường đã có tiến bộ rõ rệt, ngày càng thực chất hơn.

17. Cử tri các tỉnh Vĩnh Phúc, Đà Nẵng, Hải Dương, Quảng Bình, Thái Bình kiến nghị: Biện pháp thắt chặt trong giáo dục, thông qua phong trào “Hai không” của Bộ Giáo dục và Đào tạo, một mặt nâng cao chất lượng giáo dục lên một bước, song mặt khác làm cho nhiều học sinh bỏ học. Để đạt mục tiêu phổ cập giáo dục Trung học phổ thông trên toàn quốc, giảm một phần chi phí cho ngành giáo dục, đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo trong thời gian tới nên bỏ kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thông mà thay bằng việc xét tốt nghiệp Trung học phổ thông cho các em, đồng thời cần thắt chặt các kỳ thi tuyển sinh vào các trường cao đẳng và đại học.

Trả lời:

a) Về việc thực hiện phong trào “Hai không”:

Thực hiện Chỉ thị số 33/2006/CT-TTg ngày 08 tháng 9 năm 2006 về chống tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục, bắt đầu từ năm học 2006-2007, toàn ngành đã tích cực triển khai thực hiện thông qua cuộc vận động “Hai không” của ngành “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”. Cuộc vận động “Hai không” là khâu đột phá để đổi mới giáo dục phổ thông và mầm non giai đoạn 2006-2010. Qua hơn 3 năm triển khai, trật tự, kỷ cương thi cử trong toàn ngành đã chuyển biến căn bản, ý thức tự giác học tập của học sinh được nâng lên, thể hiện rõ nét qua kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông, bổ túc trung học phổ thông các năm 2007, 2008, 2009. Về cơ bản các kỳ thi vừa qua được tổ chức nghiêm túc, được dư luận xã hội đồng tình, ủng hộ.

Chính từ kết quả thực tế của kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông và bổ túc trung học phổ thông năm 2007 (lần 1 chỉ đạt 66,7%, có nhiều địa phương đạt dưới 50%, trong khi năm 2006 đạt 94%), cấp ủy và chính quyền các địa phương đã chỉ đạo công tác giáo dục tập trung và hiệu quả hơn, nhờ đó chất lượng giáo dục dần được nâng lên: năm 2008 tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông và bổ túc trung học phổ thông (lần 1) là 76% (tăng hơn 9% so với năm 2007); năm 2009 tỷ lệ tốt nghiệp là 83% (không tổ chức thi tốt nghiệp lần 2), tăng 7% so với năm 2008, tăng 16% so với năm 2007.

Bằng nhiều biện pháp chỉ đạo kiên quyết của ngành cùng với sự hỗ trợ tích cực của gia đình và các đoàn thể xã hội, số học sinh bỏ học giảm đáng kể qua các năm, cụ thể: năm học 2007-2008 số học sinh bỏ học là 215.163 em (chiếm tỷ lệ 1,37%); năm học 2008-2009 là 168.047 em (chiếm tỷ lệ 1,09 %). Như vậy học sinh bỏ học năm học 2008-2009 giảm 47.161 em (giảm 22%) so với năm học trước.

Tính đến tháng 9/2009, có 48/63 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập tiểu học đúng độ tuổi (đạt 76,1%); 56/63 tỉnh, thành phố đạt chuẩn cập giáo dục THCS (đạt 88,9%).

Ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục tăng nhanh (Tổng chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục và đào tạo năm học 2008-2009 là 91.986 tỉ đồng). Việc huy động nguồn lực trong xã hội đầu tư cho giáo dục thông qua chủ trương xã hội hoá đạt hiệu quả khá. Các nguồn lực đầu tư cho giáo dục ngày càng được kiểm soát và tăng dần hiệu quả sử dụng.

Việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông, chương trình và giáo trình ở dạy nghề và đại học đang được tích cực thực hiện, phương pháp dạy học dần từng bước được cải thiện, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng, đã có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp giáo dục.

Tuy nhiên, giáo dục phổ thông hiện nay cũng còn có những hạn chế nhất định ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục. Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tiến hành các giải pháp đồng bộ để cải thiện chất lượng giáo dục phổ thông:

- Tổ chức đánh giá chương trình, sách giáo khoa, tập trung chỉ đạo đổi mới kiểm tra, đánh giá thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học trên cơ sở bám sát chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình giáo dục phổ thông theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, coi đây là một trong các giải pháp quan trọng nhất để nâng cao chất lượng.

- Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ từng bước đổi mới chương trình, kế hoạch giáo dục phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đảm bảo mặt bằng giáo dục đối với các nước trong khu vực theo phương châm giáo dục toàn diện đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, yêu cầu dạy linh hoạt, sát đối tượng; thực hiện đổi mới kiểm tra đánh giá, phân loại học sinh đúng thực chất.

- Củng cố, phát triển hệ thống trường lớp, tăng cường cơ sở vật chất, tích cực thực hiện chương trình kiên cố hoá trường học, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học từ các dự án của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học cho các trường phổ thông, ưu tiên các nguồn lực đầu tư cho giáo dục đối với vùng khó khăn, miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số nhằm tạo ra môi trường học tập tốt để thu hút học sinh học tập.

b) Về việc tổ chức kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông:

Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa có chủ trương bỏ kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông, vì đây là kỳ thi được tổ chức hằng năm trên phạm vi toàn quốc nhằm đánh giá chất lượng giáo dục trung học phổ thông của tất cả các địa phương, nhà trường. Với ý nghĩa đó, việc tổ chức thi sẽ tạo động lực quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy và học. Kết quả thi chính xác, công bằng, sát thực tế của kỳ thi này chính là thước đo đánh giá chất lượng dạy và học, có tác dụng điều chỉnh, thúc đẩy đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy học của giáo dục phổ thông trên phạm vi toàn quốc.

Bên cạnh đó, kỳ thi này cũng nhằm đảm bảo sự ngang bằng trình độ của các thí sinh dự thi tuyển sinh vào đại học, cao đẳng hằng năm. Ngoài ra, việc rút kinh nghiệm về đổi mới kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông sẽ ngày càng cung cấp nhiều thông tin chính xác cho việc tổ chức thi và xét tuyển học sinh vào các bậc học cao hơn.

18. Cử tri Tiền Giang kiến nghị: Bộ Giáo dục và Đào tạo sớm xem xét chế độ xét tiêu chuẩn, kết quả học tập, kết quả thi tốt nghiệp cấp III để tuyển sinh vào đại học, vì tổ chức kỳ thi tuyển vào đại học gây lãng phí, tốn kém công sức, tiền của, thời gian của các cơ quan chức năng, gia đình và học sinh.

Cử tri các tỉnh Bắc Giang, Đà Nẵng kiến nghị: Đề nghị không tổ chức gộp hai cuộc thi (tốt nghiệp THPT và thi ĐH) vì thực tế dễ phát sinh tiêu cực.

Trả lời:

Năm 2007, Chính phủ giao cho Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng Đề án đổi mới thi tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT) và tuyển sinh vào đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp để trình Thủ tướng Chính phủ; Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tích cực triển khai xây dựng Đề án, tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các Sở Giáo dục và Đào tạo, các trường đại học và cao đẳng, ý kiến của một số nhà giáo, cha mẹ học sinh trong cả nước.

Mặt khác, qua 2 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 33/2006/CT-TTg ngày 08/9/2006 của Thủ tướng Chính phủ về chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục và cuộc vận động "Hai không" trong toàn ngành, được sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ, sự ủng hộ và phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành, các cấp ủy Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội và các địa phương, với sự nỗ lực cố gắng của hơn một triệu thầy cô giáo và cán bộ quản lý giáo dục, với nhận thức và ủng hộ của phụ huynh học sinh, ý thức trách nhiệm của học sinh trong học tập được nâng cao, do đó công tác thi cử đã ngày càng nghiêm túc hơn, phản ánh sát hơn chất lượng học tập của học sinh hiện nay. Tuy nhiên, kỳ thi tốt nghiệp THPT vẫn cần phải được thực hiện một cách nghiêm túc hơn và tin cậy hơn. Khi đó mới có thể sử dụng kết quả thi tốt nghiệp THPT làm cơ sở quan trọng để xét tuyển vào đại học, cao đẳng.

Như vậy, một trong những bước chuẩn bị để triển khai Đề án đổi mới thi là phải nâng cao chất lượng và độ tin cậy của kỳ thi tốt nghiệp THPT. Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2009 với hai giải pháp mới là “thi theo cụm trường” và “chấm chéo” được đánh giá là kỳ thi được tổ chức tốt hơn những năm trước. Đó là những tiền đề quan trọng để triển khai Đề án.

Năm 2010, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương vẫn tổ chức riêng 2 kỳ thi theo hướng tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được của kỳ thi tốt nghiệp THPT và thi tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2009, một mặt để tiếp tục phát huy tính đúng đắn và hiệu quả của các giải pháp triển khai trong thời gian vừa qua, tạo sự đồng thuận của xã hội; mặt khác, với thời gian chuẩn bị dài hơn sẽ có điều kiện để xem xét kỹ lưỡng và đưa ra các giải pháp cụ thể để hạn chế tối đa tiêu cực xảy ra, đảm bảo độ tin cậy, tính khách quan, công bằng của kỳ thi.


Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12

tải về 4.57 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   48   49   50   51   52   53   54   55   ...   60




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương