UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ BẢY quốc hội khoá XII



tải về 4.57 Mb.
trang55/60
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích4.57 Mb.
#16071
1   ...   52   53   54   55   56   57   58   59   60

Trả lời:

Quy chế tổ chức và hoạt động của trường Phổ thông dân tộc nội trú đã quy định: Trường Phổ thông dân tộc nội trú huyện (bao gồm cả THCS và THPT) có thể do Ủy ban nhân dân tỉnh quy định thành lập sau khi có sự thống nhất với Bộ Giáo dục và Đào tạo. Học sinh phổ thông các xã thuộc vùng 135 được cấp sách giáo khoa, hỗ trợ vở viết và học sinh nghèo được hỗ trợ học tập theo Quyết định số 112/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Chính phủ đã mở nhiều trường dự bị đại học, khoa dự bị đại học ở khắp các vùng trong cả nước, như: (1) Trường Dự bị đại học dân tộc trung ương, tỉnh Phú Thọ, (2) Trường Phổ thông vùng cao Việt Bắc (đào tạo học sinh dân tộc nội trú và đào tạo dự bị đại học), (3) Trường Dự bị đại học Sầm Sơn, Thanh hóa, (4) Trường Dự bị đại học Nha Trang, (5) Trường Dự bị đại học thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn có các khoa Dự bị đại học ở các trường đại học, như: Đại học Tây Bắc, Đại học Tây Nguyên, Đại học Cần Thơ, Đại học Nông Lâm (tỉnh Hòa Bình); một số trường đại học có lớp dự bị đại học, như: Đại học An Giang, Đại học Trà Vinh v.v…

Các chính sách trên, cùng nhiều chính sách khác của Chính phủ nhằm ưu tiên phát triển giáo dục và đào tạo vùng kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn.



43. Cử tri tỉnh Kon Tum kiến nghị: Trong thời gian qua hệ thống các trường Phổ thông Dân tộc nội trú (PTDTNT) nói chung và các trường PTDTNT nói riêng đã đóng góp tích cực vào sự nghiệp giáo dục; đào tạo nguồn cán bộ là đồng bào dân tộc thiểu số từng bước nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân các dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa và tạo điều kiện cho con em nhân dân trong diện nghèo, khó khăn vẫn được đi học. Tuy nhiên tổ chức hệ thống các trường PTDTNT hiện nay theo Quyết định số 2590/GD-ĐT ngày 14/8/1997 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về tổ chức hoạt động các trường phổ thông dân tộc nội trú có một số điểm không còn phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo sửa đổi bổ sung và ban hành quy chế mới về tổ chức hoạt động các trường phổ thông dân tộc nội trú theo hướng: Tổ chức các lớp bậc THPT tại các trường PTDTNT cấp huyện vì hiện nay do trường THCS đã mở rộng đến hầu hết các xã thuộc các tỉnh miền núi và trình độ dân trí của con em đồng bào dân tộc thiểu số đã được nâng lên đáng kể, nên nhu cầu học bậc THPT của các em ngày càng nhiều.

Trả lời:

Ngày 25/8/2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Quyết định số 49/2008/QĐ-BGDĐT ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ thông dân tộc nội trú và Thông tư số 06/2009/TT-BGDĐT ngày 31/3/2009 Sửa đổi, bổ sung Điều 10 và Điều 13 của Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ thông dân tộc nội trú (thay thế Quyết định 2590/GD-ĐT ngày 14/8/1997 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của các trường PTDTNT).

Như vậy, Quyết định 2590/GDĐT ngày 14/8/1997 của Bộ trưởng Bộ GDĐT ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của các trường PTDTNT đã không còn hiệu lực kể từ ngày 30/9/2008.

Tại Điều 5, khoản 1 và khoản 2 của Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ thông dân tộc nội trú quy định:



1. Hệ thống trường PTDTNT bao gồm:

a) Trường PTDTNT cấp huyện đào tạo cấp trung học cơ sở (THCS) được thành lập tại các huyện miền núi, hải đảo, vùng dân tộc;

b) Trường PTDTNT cấp tỉnh đào tạo cấp trung học phổ thông (THPT) được thành lập tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

2. Trong trường hợp cần thiết, để tạo nguồn cán bộ là con em các dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể giao cho trường PTDTNT cấp huyện đào tạo cả cấp THPT; bộ chủ quản có thể giao cho trường PTDTNT trực thuộc bộ đào tạo dự bị đại học và cấp THCS.

44. Cử tri tỉnh Thanh Hóa kiến nghị Thanh Hóa có địa bàn miền núi rộng, dân số đông, địa hình phức tạp; cơ sở hạ tầng thấp kém, dân cư sinh sống không tập trung, giao thông đi lại khó khăn, nhất là mùa mưa lũ ảnh hưởng đến việc học tập của con em đồng bào các dân tộc. Đề nghị Chính phủ quan tâm, bố trí vốn đầu tư xây dựng trường bán trú dân nuôi THCS cho 4 huyện (Ngọc Lặc, Thạch Thành, Cẩm Thủy và Như Thanh) đây là các huyện không thuộc diện 62 huyện nghèo nhất nước. Đồng thời bố trí vốn đầu tư xây dựng khu nội trú cho học sinh 23 trường THPT ở 11 huyện miền núi.

Trả lời:

Bộ Giáo dục và Đào tạo đang xây dựng Đề án Phát triển hệ thống trường phổ thông dân tộc bán trú giai đoạn 2011-2015, với các mục tiêu là: Củng cố và phát triển hệ thống trường phổ thông dân tộc bán trú ở các xã miền núi, vùng khó khăn, dân cư phân tán; tạo cơ hội học tập cho học sinh dân tộc thiểu số, nâng cao mặt bằng dân trí; trong đó bao gồm cả chính sách ưu tiên đầu tư xây dựng nhà ở nội trú cho học sinh trong các trường phổ thông ở vùng khó khăn, vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

Dự kiến Đề án Phát triển hệ thống trường phổ thông dân tộc bán trú giai đoạn 2011-2015 trình Chính phủ phê duyệt trong quý III năm 2010.

45. Cử tri tỉnh Hà Giang kiến nghị: Có chủ trương giao việc đào tạo cao học (trình độ thạc sỹ) cho các trường đại học chủ động phối hợp, liên kết với các địa phương liên kết mở các lớp đào tạo tại chức theo chuyên ngành tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ, công chức huyện, xã vừa học, vừa làm nâng cao trình độ đáp ứng nhu cầu, nhất là đối với vùng cao, vùng sâu, vùng xa.

Trả lời:

Điểm b, khoản 1, Điều 42 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giáo dục 2005 đã quy định: Đại học, trường đại học, học viện (gọi chung là trường đại học) đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học; đào tạo trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ khi được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép. Viện nghiên cứu khoa học đào tạo trình độ tiến sĩ, phối hợp với trường đại học đào tạo trình độ thạc sĩ khi được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép.

Theo quy định tại Quy chế đào tạo trình độ thạc sĩ ban hành kèm theo Quyết định số 45/2008/QĐ-BGD ĐT ngày 5/8/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, các cơ sở đào tạo sau đại học tổ chức đào tạo trình độ thạc sĩ theo học chế tín chỉ, không có hệ vừa làm vừa học (hệ tại chức cũ), đồng thời quy định rõ các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo, như:

Về đội ngũ giảng viên, cán bộ khoa học:

a) Đội ngũ giảng viên, cán bộ khoa học cơ hữu của cơ sở đào tạo đảm nhận giảng dạy ít nhất 60% khối lượng chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ của ngành, chuyên ngành đăng ký đào tạo;

b) Có ít nhất 5 giảng viên cơ hữu có bằng tiến sĩ thuộc ngành, chuyên ngành đăng ký đào tạo, đã và đang tham gia đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ (hoặc giảng dạy, hoặc hướng dẫn luận văn thạc sĩ, hoặc tham gia Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ). Mỗi người đã có ít nhất ba công trình khoa học công bố trên các tạp chí khoa học chuyên ngành trong năm năm trở lại đây, đã và đang tham gia nghiên cứu đề tài khoa học các cấp.

Về cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập:

a) Có đủ phòng học, phòng thí nghiệm, cơ sở sản xuất thử nghiệm, phòng máy tính, mạng Internet với đủ trang thiết bị cần thiết, hiện đại, đáp ứng yêu cầu của chương trình đào tạo;

b) Thư viện có phòng đọc, phòng tra cứu thông tin qua mạng; có nguồn thông tin tư liệu, sách, tạp chí xuất bản ở trong và ngoài nước 10 năm trở lại đây.”

Hơn nữa, trong quá trình học tập, các học viên thường xuyên phải nghiên cứu tài liệu, sinh hoạt chuyên môn, báo cáo các chuyên đề,… nhằm giúp học viên nắm vững lý thuyết, có trình độ cao về thực hành, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và có năng lực phát hiện, giải quyết những vấn đề thuộc ngành, chuyên ngành được đào tạo. Do vậy, việc đào tạo thạc sĩ phải được tổ chức tại các đại học, học viện và trường đại học, mới có đầy đủ các điều kiện đảm bảo chất lượng, mà không thể tổ chức các lớp đào tạo trình độ thạc sĩ tại các địa phương.

Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu nhân lực có trình độ thạc sĩ cho phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng,... đối với các địa phương vùng cao, vùng sâu nói chung và Hà Giang nói riêng, các tỉnh cần căn cứ vào điều kiện thực tiễn của địa phương, nhu cầu nhân lực của tỉnh theo cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo, ... để xây dựng chiến lược đào tạo nhân lực cho tỉnh ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, đồng thời tạo điều kiện mọi mặt để cử các cán bộ của tỉnh về các trường đại học có đào tạo chuyên ngành tương ứng để dự thi và học tập, có như vậy, các tỉnh sẽ có được đội ngũ cán bộ kế cận được đào tạo chính quy, có trình độ chuyên môn và đáp ứng yêu cầu quy hoạch cán bộ của địa phương.

46. Cử tri tỉnh Lào Cai kiến nghị: Hiện nay định mức biên chế cán bộ quản lý trường học, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện, cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh…còn chưa phù hợp, các trường, các Phòng Giáo dục và Đào tạo thiếu cán bộ quản lý nhất là đối với các tỉnh miền núi, địa hình phức tạp, diện tích các huyện, xã rộng, dân cư thưa có nhiều điểm trường. Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng Bộ Nội vụ nghiên cứu có quy định riêng về biên chế, định mức cán bộ quản lý giáo dục ở các tỉnh miền núi cho phù hợp.

Trả lời:

a) Về định mức biên chế cán bộ quản lý trường học, Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng Giáo dục và Đào tạo

Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp thu ý kiến của cử tri và hiện nay đang phối hợp với Bộ Nội vụ nghiên cứu, ban hành Thông tư hướng dẫn định mức biên chế hành chính cơ quan Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng Giáo dục và Đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu bức xúc nhiều năm qua của ngành giáo dục ở các địa phương trong cả nước. Dự kiến, Thông tư sẽ ban hành trong năm 2010.



b) Về định mức biên chế cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh

- Theo Điều lệ trường Tiểu học (ban hành kèm theo Quyết định số 51/2007/QĐ-BGDĐT ngày 31/8/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo), mỗi trường được bố trí một biên chế giáo viên làm Tổng phụ trách Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh do Trưởng Phòng Giáo dục và Đào tạo bổ nhiệm theo đề nghị của Hiệu trưởng trường Tiểu học.

- Theo Điều lệ trường Trung học cơ sở, trường Trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp (ban hành kèm theo Quyết định số 07/2007/QĐ-BGDĐT ngày 02/4/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo), giáo viên trường trung học là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, gồm: Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng, giáo viên bộ môn, giáo viên làm công tác Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (Bí thư, Phó Bí thư hoặc trợ lý thanh niên, cố vấn Đoàn) đối với trường trung học có cấp trung học phổ thông, giáo viên làm Tổng phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh đối với trường trung học có cấp tiểu học hoặc cấp trung học cơ sở.

Các văn bản đã quy định về định mức biên chế cán bộ quản lý trường học, cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và cán bộ quản lý Phòng Giáo dục và Đào tạo cấp huyện đã chú ý đến vùng miền, trong đó có chú ý đến điền kiện khó khăn của các tỉnh miền núi.

Về tổ chức thực hiện, các văn bản đã quy định rõ trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện. Do đó, đề nghị các địa phương kiểm tra, rà soát lại đội ngũ biên chế cán bộ quản lý trường học, cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và cán bộ quản lý Phòng Giáo dục và Đào tạo trên địa bàn theo định mức quy định.

47. Cử tri các tỉnh Thái Nguyên, Quảng Ngãi, Lâm Đồng kiến nghị: Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên thuộc vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn vì họ ít có điều kiện tiếp cận với những trang thiết bị giảng dạy hiện đại.

Trả lời:

Với mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, trong những năm qua ngành giáo dục đã không ngừng đưa ra những giải pháp quan trọng như đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao năng lực quản lý, nâng cao năng lực đội ngũ nhà giáo... nhằm rút ngắn khoảng cách chênh lệch chất lượng giáo dục giữa các vùng miền. Tuy nhiên, trên bình diện chung của cả nước, việc nâng cao chất lượng cho giáo viên vùng khó cũng còn nhiều khó khăn do một số nguyên nhân sau đây:

- Đội ngũ giáo viên bám trụ tại các vùng khó khăn đa phần là giáo viên trẻ, nhiệt tình, tích cực trong công tác, nhưng trình độ đào tạo không đồng đều. Một số giáo viên thiếu kinh nghiệm trong giảng dạy, khả năng tiếp thu, vận dụng phương pháp dạy học mới còn chậm. Trong khi đó, việc nâng chất lượng giáo dục cho học sinh vùng khó là trách nhiệm nặng nề, đòi hỏi phải biết kết hợp nhiều phương pháp linh hoạt, mềm dẻo.

- Theo thống kê, nếu so với mặt bằng trình độ thì khoảng cách chênh lệch đạt chuẩn và trên chuẩn không lớn. Nhưng điều quan trọng là việc bồi dưỡng, giúp cho giáo viên các vùng khó khăn có được điều kiện thuận lợi tiếp cận và sử dụng được các phương pháp giảng dạy tiên tiến, hiện đại, lấy học sinh làm trung tâm lại là vấn đề không dễ. Bởi thực tế, đặc thù của những vùng này là kinh tế khó khăn, đời sống người dân còn nghèo nàn, lạc hậu, cơ sở vật chất thiếu thốn, giao thông đi lại khó khăn. Đại đa số giáo viên vùng khó chưa có được trang thiết bị hiện đại, chưa có điều kiện học hỏi, sử dụng các phương tiện hiện đại cho giờ dạy học của mình.

Trước thực trạng đó, ngành Giáo dục đã tập trung nhiều nguồn lực cho việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên các vùng khó khăn. Hầu hết các dự án ODA, các dự án của UNFRO, UNICEF của các tổ chức phi chính phủ đều có nội dung về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực giáo viên và tăng cường CSVC, thiết bị dạy học. Các dự án này, hầu như chỉ tập trung cho các tỉnh miền núi, Tây Nam Bộ, vùng đồng bào dân tộc.

Việc các dự án tập trung vào việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng cho giáo viên vùng khó trong thời gian qua đã thu được những thành công ban đầu. Đội ngũ giáo viên đã thành thạo hơn về các thao tác kỹ thuật dạy học cũng như tổ chức hoạt động giáo dục. Học sinh mạnh dạn, tự tin hơn trong giờ học, sôi nổi khi học, chơi theo nhóm…



48. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Đề nghị Chính phủ có chính sách hỗ trợ đối với học sinh mẫu giáo ở các huyện trung du, miền núi về các khoản nhu yếu: Sách vở, đồ dùng học tập, trang thiết bị dạy học, đồ chơi; đầu tư cho việc đào tạo bồi dưỡng để nâng cao chất lượng, số lượng giáo viên ở các trường mẫu giáo, mầm non.

Trả lời:

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trình Chính phủ Dự thảo Nghị định của Chính phủ Quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010 - 2011 đến năm học 2014 – 2015, trong đó đã quy định đối tượng được hỗ trợ học tập để mua sách, vở và các đồ dùng khác bao gồm:

- Trẻ em ở cơ sở giáo dục mầm non và học sinh phổ thông có cha mẹ thường trú tại các xã biên giới, vùng cao, hải đảo và các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

- Trẻ em ở cơ sở giáo dục mầm non và học sinh phổ thông mồ côi cả cha lẫn mẹ không nơi n­ương tựa hoặc bị tàn tật, khuyết tật có khó khăn về kinh tế.

- Trẻ em ở cơ sở giáo dục mầm non và học sinh phổ thông có cha mẹ thuộc diện hộ nghèo theo quy định của Nhà nư­ớc.

Tại Quyết định số 239/QĐ-TTg ngày 09 tháng 2 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi giai đoạn 2010-2015 đã quy định:

Đào tạo, bồi dưỡng giáo viên mầm non đủ về số lượng, nâng cao chất lượng đáp ứng yêu cầu Phổ cập và thực tiễn đổi mới giáo dục mầm non.

- Đào tạo nâng chuẩn và đào tạo mới đảm bảo đến năm 2015, đủ giáo viên để dạy các lớp mầm non năm tuổi thực hiện Phổ cập theo định mức quy định. Tăng tỷ lệ giáo viên người dân tộc, cử tuyển giáo viên cho các vùng khó khăn với nguồn tuyển tại các trường phổ thông dân tộc nội trú, học sinh đã tốt nghiệp Trung học phổ thông tại các thôn, bản.

- Xây dựng và mở rộng mô hình dạy tiếng dân tộc cho giáo viên công tác tại các vùng có đồng bào dân tộc, có học phần dạy tiếng dân tộc cho giáo sinh cử tuyển trong các trường sư phạm.

- Tăng cường công tác bồi dưỡng thường xuyên cho đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý, cập nhật kiến thức và kỹ năng cho giáo viên để thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới. Chú trọng bồi dưỡng nâng cao chất lượng của giáo viên người dân tộc.



49. Cử tri các tỉnh Kon Tum, Lào Cai kiến nghị: Trong những năm vừa qua nhờ các Chính sách của Nhà nước về phát triển giáo dục miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nên học sinh là người dân tộc thiểu số ngày càng tăng về số lượng. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu học tập của con em đồng bào dân tộc thiểu số trong tỉnh, đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo tăng chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm vào các trường phổ thông dân tộc nội trú của tỉnh Kon Tum.

Trả lời:

Tại Điều 5, khoản 1 và khoản 2 của Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT) (ban hành theo Quyết định số 49/2008/QĐ-BGDĐT ngày 25/8/2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo) quy định:



1. Hệ thống trường PTDTNT bao gồm:

a) Trường PTDTNT cấp huyện đào tạo cấp trung học cơ sở (THCS) được thành lập tại các huyện miền núi, hải đảo, vùng dân tộc;

b) Trường PTDTNT cấp tỉnh đào tạo cấp trung học phổ thông (THPT) được thành lập tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

2. Trong trường hợp cần thiết, để tạo nguồn cán bộ là con em các dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể giao cho trường PTDTNT cấp huyện đào tạo cả cấp THPT; bộ chủ quản có thể giao cho trường PTDTNT trực thuộc bộ đào tạo dự bị đại học và cấp THCS.

Như vậy, việc tăng chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm vào các trường PTDTNT của tỉnh Kon Tum do Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum quyết định, Bộ Giáo dục và Đào tạo không giao chỉ tiêu này.



50. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định và công khai rõ tiêu chí số lượng cử tuyển học sinh dân tộc thiểu số đi học cao đẳng, đại học hàng năm, vì hiện nay còn bất hợp lý (như tỉnh Kon Tum có dân số chưa bằng ½ dân số tỉnh Gia Lai, nhưng các năm qua Bộ đều phân bổ chỉ tiêu số lượng cử tuyển gấp đôi tỉnh Gia Lai).

Trả lời:

Đào tạo đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số theo chế độ cử tuyển, đã được Đảng và Chính phủ cho phép từ năm 1990. Đây là một chế độ ưu việt của Đảng, Nhà nước ta đối với việc đào tạo nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số cho các dân tộc.

Từ năm 2007, theo Nghị định số 134/2007/NĐ-CP về quy định đào tạo cử tuyển, việc xác định chỉ tiêu đào tạo cử tuyển do các tỉnh, thành phố đề xuất và hợp đồng gửi các trường để đào tạo. Kinh phí đào tạo được Bộ Tài chính giao cho các địa phương, để ký hợp đồng trực tiếp với các trường. Hàng năm, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ xác nhận số lượng chỉ tiêu đã được các địa phương đăng ký và ký hợp đồng với các trường; việc xét tuyển do các trường đảm nhiệm, theo các tiêu chuẩn đã được quy định tại Thông tư liên tịch số 13/TTLT-BGDĐT-LĐ,TB&XH-NV-TC-KHĐT-UBDT tháng 4/2008.

Việc cử tuyển nhiều hay ít, do Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định phù hợp với quy hoạch quy hoạch đội ngũ cán bộ với sự phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm kiểm tra các trường đại học, cao đẳng thực hiện đầy đủ chính sách đối với sinh viên thuộc hệ cử tuyển.



51. Cử tri tỉnh Bình Thuận kiến nghị: Nhiều dự án đổi mới cải cách giáo dục (đổi mới SGK, đổi mới âm vần…) tốn kém khá nhiều tiền của Nhà nước và nhân dân, cho đến nay chưa tổng kết được hiệu quả của việc cải cách đổi mới đạt được những gì cho xã hội, cho đất nước.

Trả lời:

Trước yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, trước sự phát triển nhanh và mạnh mẽ của kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ; quán triệt đường lối đổi mới của Đảng được đề ra từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Quốc hội đã có Nghị quyết số 40/2000/QH10 ngày 9/12/2000 về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai xây dựng chương trình mới, biên soạn sách giáo khoa mới thay thế cho sách giáo khoa được biên soạn theo chương trình cải cách giáo dục năm 1981. Từ năm học 2002 - 2003, chương trình giáo dục và sách giáo khoa mới được triển khai đại trà, mở đầu là lớp 1 (ở tiểu học) và lớp 6 (ở trung học cơ sở) trong phạm vi cả nước. Mỗi năm sau đó triển khai chương trình giáo dục và sách giáo khoa mới cho một lớp ở tiểu học và một lớp ở trung học. Năm học 2008-2009 đã triển khai sách giáo khoa mới cho lớp 12, hoàn thành chu kì thay sách giáo khoa mới cho giáo dục phổ thông.

Trong quá trình triển khai chương trình, sách giáo khoa mới, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quan tâm tới công tác đánh giá, tổng kết nhằm đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục.

Bộ chỉ đạo các Sở, Phòng, các trường tổ chức tổng kết sau từng năm học, đánh giá những kết quả đạt được, khó khăn, thuận lợi khi triển khai chương trình, sách giáo khoa mới; tổ chức đánh giá sau 5 năm triển khai chương trình mới cấp tiểu học (và trung học cơ sở) ở các địa phương và Trung ương. Bộ cũng đã tổ chức một số khảo sát, đánh giá như : Đề tài đánh giá chất lượng và hiệu quả triển khai đại trà chương trình và sách giáo khoa mới (thực hiện năm 2004 - 2005); Đề tài đánh giá đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí (năm 2005); Đánh giá về kết quả học tập môn Toán và Tiếng Việt của học sinh lớp 5 (năm 2007)

Tháng 5/2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức đánh giá chương trình, sách giáo khoa phổ thông. Việc đánh giá được thực hiện từ các tổ chuyên môn đến các Phòng giáo dục và đào tạo và Sở giáo dục và đào tạo; đồng thời có sự tham gia đánh giá độc lập của Hội Khuyến học Việt Nam, Hội Cựu Giáo chức Việt Nam, Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.

Kết quả đánh giá cho thấy: về cơ bản chương trình và sách giáo khoa các cấp học phổ thông đã đảm bảo được tính chính xác, khoa học, hiện đại, cập nhật và tiếp cận được trình độ giáo dục của các nước trong khu vực, đáp ứng xu thế phát triển của xã hội Việt Nam; phù hợp với năng lực của giáo viên đạt chuẩn đào tạo và phần đông học sinh. Sách giáo khoa mới đã hỗ trợ cho dạy và học theo định hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Đánh giá bước đầu cho thấy chương trình và sách giáo khoa mới đã có những tác động tích cực tới kết quả giáo dục. Học sinh tự tin, tích cực, khả năng giao tiếp tốt hơn, ...

Tuy nhiên, trong sách giáo khoa còn có một số bài dài và khó, chưa phù hợp, nhất là với học sinh ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Một số thuật ngữ sử dụng trong một số sách giáo khoa còn trừu tượng, khó hiểu, chưa nhất quán trong một lớp, giữa các lớp và giữa các cấp học.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang thực hiện các biện pháp để khắc phục những hạn chế nói trên, nâng cao hiệu quả của việc đổi mới chương trình, sách giáo khoa.

Trong năm 2010, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có kế hoạch tổ chức tổng kết, đánh giá việc thực hiện Chiến lược giáo dục giai đoạn 2001 – 2010, trong đó hiệu quả của các chương trình đổi mới giáo dục sẽ được xem xét, đánh giá một cách toàn diện.

52. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Thời gian gần đây chương trình cải cách sách giáo khoa thường xuyên thay đổi ảnh hưởng đến định hướng dạy và học, là nỗi bức xúc của xã hội. Đề nghị Ban soạn thảo nên có định hướng để sách giáo khoa mang tính ổn định lâu dài, tránh thay đổi sách giáo khoa thường xuyên, gây tốn kém ngân sách nhà nước, tiền của người dân vì con em họ không thể học lại sách cũ của anh chị học trước mà phải tốn tiền mua sách mới. Đồng thời, nên mở rộng thành phần soạn thảo, để sách giáo khoa phong phú hơn và phải lựa cho phù hợp với cách giảng dạy của giáo viên, tiếp nhận của học sinh sau đó Bộ Giáo dục và Đào tạo kiểm duyệt.

Trả lời:

Thực hiện Nghị quyết số 40/2000/QH10 ngày 09/12/2000 của Quốc hội và Chỉ thị số 14/2001/CT-TTg ngày 11/6/2001 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, từ năm học 2002-2003 các địa phương trên toàn quốc bắt đầu thực hiện dạy-học theo chương trình, sách giáo khoa mới ở cấp tiểu học và trung học cơ sở, cho đến năm học 2008-2009 các trường THPT trong cả nước đã thực hiện chương trình và sách giáo khoa lớp 12 mới. Như vậy mỗi năm, từ năm 2002 đến 2009 chỉ thay sách giáo khoa của một lớp kế tiếp, còn sách giáo khoa của lớp đã thay năm trước đều được sử dụng để giảng dạy và học tập. Theo kế hoạch chương trình, sách giáo khoa sẽ thay đổi vào giai đoạn sau năm 2015, như vậy 1 cuốn sách giáo khoa hiện hành sẽ được sử dụng ít nhất 13 năm liên tục, đảm bảo mang tính ổn định lâu dài, tránh thay đổi sách giáo khoa thường xuyên và không gây tốn kém ngân sách nhà nước, tiền của người dân . Thực tế tại các nước phát triển như Mĩ, Anh, Nhật Bản, Đức…, cứ 5-7 năm chương trình, sách giáo khoa phổ thông được thay đổi để việc đào tạo đáp ứng được nhu cầu của xã hội.

Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ thực hiện đúng Khoản 3 Điều 29 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục (Luật số 44/2009/QH12): “Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chương trình giáo dục phổ thông; duyệt và quyết định chọn sách giáo khoa để sử dụng chính thức, ổn định, thống nhất trong giảng dạy, học tập ở các cơ sở giáo dục phổ thông, bao gồm cả sách giáo khoa bằng chữ nổi, bằng tiếng dân tộc và sách giáo khoa cho học sinh trường chuyên biệt, trên cơ sở thẩm định của Hội đồng quốc gia thẩm định Chương trình giáo dục phổ thông và sách giáo khoa; quy định tiêu chuẩn, quy trình biên soạn, chỉnh sửa Chương trình giáo dục phổ thông và sách giáo khoa; quy định nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức hoạt động, tiêu chuẩn, số lượng và cơ cấu thành viên của Hội đồng quốc gia thẩm định Chương trình giáo dục phổ thông và sách giáo khoa. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm về chất lượng Chương trình giáo dục phổ thông và sách giáo khoa”.


Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12

tải về 4.57 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   52   53   54   55   56   57   58   59   60




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương