UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ BẢY quốc hội khoá XII



tải về 4.57 Mb.
trang12/60
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích4.57 Mb.
#16071
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   ...   60

Trả lời: (Tại Công văn số 1999/BGTVT-KHĐT ngày 2/4/2010 của Bộ Giao thông vận tải)

Tuyến đường Hồ Chí Minh đoạn Cam Lộ – Tuý Loan, Văn phòng Chính phủ đã có Văn bản số 7208/VPCP–KTN ngày 15/10/2009, với nội dung: Đồng ý triển khai đầu tư xây dựng đoạn Cam Lộ – Tuý Loan thuộc dự án đường Hồ Chí Minh theo hình thức BT (Xây dựng – Chuyển giao). Trước mắt triển khai thực hiện đầu tư đoạn thành phố Huế đi Tuý Loan để nối thông với tuyến đường cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi, kết nối các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Nhà nước sẽ thanh toán vốn đầu tư dự án cho nhà đầu tư bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ khi công trình hoàn thành và bàn giao đưa vào sử dụng. Nhà nước không trả lãi trong thời gian xây dựng. Bộ GTVT hoàn thiện sớm các thủ tục đầu tư, lựa chọn nhà đầu tư theo quy định. Giao cho Bộ KH&ĐT chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và Bộ GTVT bố trí vốn cho công tác chuẩn bị thực hiện đầu tư và giải phóng mặt bằng để sớm khởi công dự án vào đầu năm 2010.



75. Cử tri tỉnh Vĩnh Long kiến nghị: Cử tri đề nghị Chính phủ cần đẩy mạnh hơn nữa việc quan tâm các biện pháp trong hạn chế đến mức thấp nhất việc vi phạm và để xảy ra tai nạn giao thông”.

Trả lời: (Tại Công văn số 1566/BGTVT-ATGT ngày 17/3/2010 của Bộ Giao thông vận tải)

1. Các biện pháp tăng cường đảm bảo an toàn giao thông, giảm thiểu các vụ tai nạn giao thông đã thực hiện:

Năm 2007, để tăng cường các giải pháp đảm bảo trật tự an toàn giao thông, giảm thiểu các vụ tai nạn giao thông, Bộ GTVT với sự phối hợp của các Bộ, ngành có liên quan đã tham mưu đề xuất trình Chính phủ thông qua Nghị Quyết 32/2007/NQ-CP ngày 29 tháng 6 năm 2007 về một số giải pháp cấp bách nhằm kiềm chế tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông với 7 nhóm giải pháp chính là: đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về trật tự an toàn giao thông; tăng cường cưỡng chế thi hành pháp luật về trật tự an toàn giao thông đảm bảo phát huy tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa vi phạm; nâng cao điều kiện an toàn của kết cấu hạ tầng giao thông, tập trung xóa các điểm đen, giải tỏa và lập lại trật tự hành lang an toàn giao thông đường bộ, đường sắt; tăng cường quản lý chất lượng kiểm định phương tiện cơ giới, kiên quyết loại bỏ xe hết niên hạn sử dụng, xe tự chế; nâng cao chất lượng của đội ngũ lái xe và công tác đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe; giảm thiểu thiệt hại do tai nạn giao thông gây ra như: bắt buộc đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông bằng mô tô, xe máy từ 15/12/2007 kết hợp lập các trạm sơ cứu, cấp cứu tai nạn giao thông dọc các quốc lộ; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông.

- Với việc thực hiện mạnh mẽ các giải pháp tại Nghị quyết 32/2007/NQ-CP của Chính phủ, đặc biệt là việc thực hiện thành công giải pháp bắt buộc đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông bằng mô tô, xe gắn máy; kết hợp với triển khai mạnh mẽ giải pháp tăng cường tuần tra, kiểm soát, phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm nguy hiểm là nguyên nhân gây TNGT như: uống rượu bia, điều khiển phương tiện quá tốc độ quy định, đi không đúng phần đường, làn đường, chở quá số người quy định...., thì năm 2008 TNGT đã giảm mạnh trên cả 03 tiêu chí so với năm 2007 và là năm giảm nhiều số người chết nhất từ trước tới nay (giảm 1.835 vụ tai nạn giao thông (-12,52%), giảm 1.564 người chết (-11,89%), giảm 2.487 người bị thương (- 23,57%); năm 2009 so với năm 2008 tình hình TNGT vẫn được duy trì theo xu hướng giảm (giảm 390 vụ (-3,0%), giảm 78 người chết (-0,7%), giảm 152 người bị thương (-1,9%).

Số liệu trên cho thấy, các giải pháp tăng cường bảo đảm TTATGT, giảm thiểu tai nạn giao thông đang thực hiện đã phát huy hiệu quả góp phần thực hiện mục tiêu kiềm chế và tiến tới kéo giảm TNGT, giảm số người chết vì TNGT.



2. Các giải pháp tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo đảm TTATGT, hạn chế tai nạn giao thông:

Nhằm tiếp tục tăng cường cho công tác bảo đảm TTATGT, Quốc hội khóa XII kỳ họp thứ 4 ngày 13/11/2008 đã thông qua Luật Giao thông đường bộ sửa đổi năm 2008 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2009 trong đó có một số giải pháp đồng bộ mà hiện nay Chính phủ đang chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương tập trung triển khai thực hiện như:



2.1. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về an toàn giao thông trong các trường học:

Trong những năm qua, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về TTATGT cho người tham gia giao thông luôn được đặc biệt coi trọng vì nguyên nhân chính gây ra trên 80% các vụ TNGT là do ý thức chấp hành pháp luật về TTATGT của người tham gia giao thông còn yếu kém.

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác này là triển khai giảng dạy pháp luật về bảo đảm an toàn giao thông trong nhà trường ở các ngành học, cấp học nhằm trang bị cho thế hệ trẻ ngay từ đầu các kiến thức pháp luật về bảo đảm ATGT, từ đó hình thành ý thức tự giác chấp hành các quy định về an toàn giao thông khi tham giao thông hướng tới mục tiêu “văn hóa giao thông”.

Hiện nay, Bộ Giáo dục và đào tạo phối hợp với các Bộ ngành có liên quan đang nghiên cứu đổi mới phương pháp giảng dạy, biên soạn mới giáo trình giảng dạy pháp luật về an toàn giao thông nhằm bảo đảm trực quan, sinh động phù hợp với các quy định mới hiện hành và điều kiện kinh tế xã hội để địa phương vận dụng vào điều kiện đặc thù của từng vùng.

Trong năm 2009, việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật về an toàn giao thông đã được nâng lên mức độ mới là nếp sống “văn hóa giao thông” và đang được vận động, truyên truyền mạnh mẽ trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, đài VOV…

2.2. Tăng chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm nguy hiểm là nguyên nhân trực tiếp gây TNGT:

Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải phối hợp với Bộ Công an và các Bộ, ngành có liên quan đã dự thảo trình Chính phủ Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ; theo đó, để tăng cường tính răn đe, phòng ngừa đối với các hành vi vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ thì tùy theo tính chất và mức độ của hành vi vi phạm, dự thảo Nghị định mới đã quy định tăng khung tiền phạt với mức tăng từ 50% đến 200% so với quy định hiện hành.

Đối với 02 thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thí điểm áp dụng quy định mức xử phạt cao hơn đối với một số hành vi liên quan đến quy tắc giao thông đô thị…

Các biện pháp cưỡng chế khác như tước quyền sử dụng giấy phép lái xe có thời hạn và vĩnh viễn; tạm giữ phương tiện để ngăn chặn vi phạm hành chính cũng được điều chỉnh áp dụng cho hầu hết các hành vi vi phạm nguy hiểm, có nguy cơ gây TNGT cao và hậu quả nghiêm trọng.



2.3. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về bảo đảm TTATGT:

­­­­- Không ngừng xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT; các quy hoạch, chiến lược bảo đảm an toàn giao thông Quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 để làm cơ sở cho các Bộ, ngành và địa phương trên toàn quốc triển khai thực hiện.

- Chú trọng đẩy mạnh hoạt động phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương, các lực lượng Cảnh sát, Thanh tra giao thông trong việc thực hiện các giải pháp an toàn giao thông, đặc biệt là công tác phối hợp tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm trên các tuyến quốc lộ trọng điểm, các khu vực đầu mối giao thông nhà ga, sân bay, bến xe, bến tàu, trạm dừng, nghỉ xe, điểm đỗ xe…



- Quy định việc thẩm định an toàn giao thông đối với công trình đường bộ trước khi đưa vào khai thác, sử dụng.

- Thành lập Ban chỉ đạo Nhà nước các công trình, dự án trọng điểm ngành giao thông vận tải để thúc đẩy tiến độ và kiểm soát chặt chẽ việc xây dựng các công trình trọng điểm về giao thông như các dự án đường bộ cao tốc, đường sắt cao tốc Bắc - Nam…

76. Cử tri tỉnh Cần Thơ kiến nghị: Theo Nghị định về xử phạt vi phạm trong lĩnh vực an toàn giao thông, Công an cấp xã không có quyền xử lý các hành vi vi phạm giao thông (như không đội mũ bảo hiểm…) mà phải có sự phối hợp do Công an cấp huyện chủ trì. Như vậy, rất khó cho chính quyền cấp xã khi phát hiện vi phạm nhưng chưa kịp thời báo cáo phối hợp với Công an cấp huyện xử lý. Do đó, hành vi vi phạm an toàn giao thông địa phương ngày càng gia tăng. Đề nghị Chính phủ cần điều chỉnh quy định này cho phù hợp với thực tế trong thời gian tới”.

Trả lời: (Tại Công văn số 1536/BGTVT-ATGT ngày 16/3/2010)

Thực hiện chương trình xây dựng văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Giao thông đường bộ năm 2008, Bộ Giao thông vận tải đã chủ trì xây dựng và trình Chính phủ “Dự thảo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ” để thay thế Nghị định số 146/2007/NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2007 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ (Tờ trình số 5585/TTr-BGTVT ngày 14 tháng 8 năm 2009).

Trong nội dung Dự thảo Nghị định có phân định cụ thể về thẩm quyền xử phạt của Trưởng công an cấp xã đối với một số hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ như sau:

3. Cảnh sát trật tự, Cảnh sát phản ứng nhanh, Cảnh sát cơ động, Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Trưởng công an cấp xã trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao có liên quan đến trật tự an toàn giao thông đường bộ có thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi vi phạm quy định tại các điểm, khoản, điều của Nghị định này như sau: ...” (khoản 3 Điều 43 của Dự thảo Nghị định).

Việc phân định cụ thể về thẩm quyền xử phạt của Trưởng công an cấp xã cũng như của các lực lượng Cảnh sát khác (không phải là Cảnh sát giao thông) trong Dự thảo Nghị định cũng đã được 17/26 Thành viên Chính phủ có ý kiến đồng ý (tại Phiếu lấy ý kiến Thành viên Chính phủ).

Hiện nay, Văn phòng Chính phủ đang hoàn thiện các thủ tục để trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Nghị định.



77. Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị: Đề nghị Chính phủ nghiên cứu thu gọn một đầu mối quản lý để tham mưu và thực hiện chính sách định canh, định cư theo Quyết định số 32/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chính sách di dân thực hiện định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2007 - 2010. Về quy mô thực hiện định canh, định cư đề nghị xem xét giảm xuống khoảng 25 hộ/ điểm.

Trả lời: (tại Công văn số 412/BNV-TCBC ngày 10/2/2010 của Bộ Nội vụ)

Thực hiện chính sách hỗ trợ di dân để định canh, định cư đối với đồng bào dân tộc thiểu số nhằm tạo điều kiện cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số còn du canh, du cư có nơi ở ổn định, có đủ điều kiện phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, xoá đói, giảm nghèo liên quan đến trách nhiệm của nhiều Bộ, ngành và địa phương, trong đó một cơ quan được giao nhiệm vụ chủ trì, theo dõi, đôn đốc và báo cáo kết quả thực hiện. Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã quy định Uỷ ban Dân tộc giúp Thủ tướng Chính phủ chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách hỗ trợ định canh, định cư cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2007 - 2010 và kế hoạch định canh, định cư ở các địa phương; định kỳ 6 tháng và hàng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả của việc thực hiện. Một số Bộ ngành có liên quan có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban Dân tộc trong việc triển khai thực hiện chính sách này.

Như vậy, cơ quan quản lý nhà nước về công tác dân tộc ở Trung ương là Uỷ ban Dân tộc, ở địa phương là Ban Dân tộc là đầu mối giúp Thủ tướng Chính phủ và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong việc tổ chức thực hiện chính sách định canh, định cư theo Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Trả lời: (Tại Công văn số 229/UBDT-CSDT ngày 14/4/2010 của Ủy ban Dân tộc)

Thực hiện Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ, Uỷ ban Dân tộc ban hành Thông tư hướng dẫn số 03/2007/TT-UBDT, tại mục III, điểm 1 của Thông tư đã quy định “Hình thức tổ chức ĐCĐC tập trung là 20 hộ/điểm dự án áp dụng đối với các xã vùng cao biên giới Việt Trung; 35 hộ/điểm dự án áp dụng đối với các huyện biên giới của các tỉnh miền núi phía Bắc...”. Tỉnh Sơn La là địa bàn đang thực hiện các dự án tái định cư thuỷ điện, về đề nghị xem xét giảm xuống khoảng 25 hộ/điểm dự án, Uỷ ban Dân tộc sẽ nghiên cứu, chỉnh sửa Thông tư hướng dẫn hoặc xử lý bằng văn bản cá biệt để địa phương làm căn cứ thực hiện./.



78. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Đề nghị Chính phủ ban hành quy định cơ quan chuyên môn có chức năng tham mưu, giúp Chủ tịch UBND các cấp trong việc thực hiện nhiệm vụ theo dõi, kiểm tra công tác xử lý vi phạm hành chính của các cơ quan, đơn vị, địa phương thuộc phạm vi quản lý; quy định về nội dung, trình tự, thủ tục kiểm tra công tác xử lý vi phạm hành chính; ban hành mẫu biểu thống kê về vi phạm hành chính và chế độ báo cáo thống kê vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước từ cấp xã đến Trung ương, nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý (theo quy định tại Điều 5 (Khoản 2) và Điều 117 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính).

Trả lời: (tại Công văn số 508/BNV-TCBC ngày 27/2/2010 của Bộ Nội vụ)

1. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 13/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 của Chính phủ quy định tổ chức của các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là UBND cấp tỉnh), Nghị định số 14/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 của Chính phủ quy định tổ chức của các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là UBND cấp huyện). Theo đó, Bộ Nội vụ đã phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện. Trên cơ sở hướng dẫn của liên Bộ, UBND cấp tỉnh quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn trực thuộc và hướng dẫn UBND cấp huyện quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với từng ngành, lĩnh vực tại địa phương. Vì vậy, việc quy định cụ thể cơ quan chuyên môn có chức năng tham mưu giúp Chủ tịch UBND các cấp trong việc thực hiện nhiệm vụ theo dõi, kiểm tra công tác xử lý vi phạm hành chính trên từng lĩnh vực của các cơ quan chuyên môn từng cấp thuộc phạm vi quản lý của địa phương do UBND cấp tỉnh, cấp huyện quyết định.

2. Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày 16/8/2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2008 đã quy định chung về nguyên tắc, thẩm quyền, thủ tục xử lý vi phạm hành chính. Trên cơ sở Nghị định này, các Bộ quản lý ngành đã và đang xây dựng, trình Chính phủ ban hành các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong từng ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước. Tại các nghị định đó sẽ quy định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương, địa phương trong việc xử lý vi phạm hành chính, các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của các cơ quan quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực, trình tự, thủ tục, biểu mẫu thống kê để thực hiện xử phạt vi phạm hành chính phù hợp với nhiệm vụ quản lý nhà nước của các Bộ, ngành, địa phương.

3. Trên cơ sở Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, các nghị định của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước, UBND các cấp thực hiện xử phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương theo thẩm quyền và giao các cơ quan chuyên môn trực thuộc thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra, tổng hợp, báo cáo thống kê về vi phạm hành chính theo đúng chức năng quản lý nhà nước của mình; vì vậy, quy định về nội dung, trình tự, thủ tục kiểm tra công tác xử lý vi phạm hành chính như đề nghị của cử tri tỉnh Gia Lai được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên.



79. Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị: Thực hiện Quyết định số 127/2007/QĐ-TTg ngày 01/08/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức làm việc vào ngày thứ bảy, đã được các cấp, các ngành trong tỉnh Phú Thọ nghiêm túc triển khai. Song, do đặc điểm của tỉnh miền núi, điều kiện kinh tế - xã hội chưa phát triển, yêu cầu về giao dịch, giải quyết các thủ tục hành chính của tổ chức, công dân không nhiều (kể cả ngày làm việc trong tuần). Do vậy, một số sở, ngành và huyện, xã miền núi ngày làm việc thứ bảy không có hoặc có rất ít tổ chức, công dân đến giao dịch. Đề nghị Chính phủ cho phép địa phương được căn cứ vào tình hình thực tế để quy định các đơn vị, số lượng cán bộ, công chức làm việc ngày thứ bảy, phù hợp với tình hình cụ thể từng địa phương và đơn vị.

Trả lời: (tại Công văn số 670/BNV-CCVC ngày 12/3/2010 của Bộ Nội vụ)

Ngày 12/02/2010 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 14/2010/QĐ-TTg thay thế Quyết định số 127/2007/QĐ-TTg ngày 01/8/2007 quy định về việc tổ chức làm việc vào ngày thứ bảy hàng tuần để tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính. Theo quy định tại Điều 1 của Quyết định nêu trên, Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ căn cứ nhu cầu thực tế của công dân, tổ chức và điều kiện cơ quan, đơn vị, địa bàn cần tổ chức làm việc ½ ngày hoặc cả ngày thứ bảy hàng tuần (trừ ngày lễ, ngày tết và ngày nghỉ khác theo quy định của pháp luật) để tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính. Đồng thời quy định về làm việc ngày thứ bảy hàng tuần đối với các cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan, đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý.



80. Cử tri tỉnh Cần Thơ kiến nghị: Cử tri đánh giá cao việc cải cách hành chính theo mô hình một cửa, một cửa liên thông, mô hình này mang tính ưu việt rất cao, được đông đảo các doanh nghiệp và người dân quan tâm, ủng hộ. Đề nghị các ngành chức năng cần mở rộng, đưa mô hình này thực hiện rộng rãi trong đời sống, góp phần làm đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp và người dân.

Trả lời: (tại Công văn số 539/BNV-CCHC ngày 2/3/2010 của Bộ Nội vụ)

Thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông là bước đi đúng và là bước đột phá quan trọng trong quá trình cải cách hành chính mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Quá trình thực hiện cơ chế một cửa đã góp phần thay đổi bộ mặt của cơ quan hành chính các cấp, nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân, như: giảm phiền hà, gây khó dễ từ phía cơ quan hành chính, giảm thời gian giải quyết công việc, dân không phải đi lại nhiều lần và do đó được nhân dân, doanh nghiệp đánh giá cao.

Trên cơ sở tổng kết, đánh giá những mặt tích cực và hạn chế sau 4 năm thực hiện Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg ngày 04/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện cơ chế “một cửa” tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22/6/2007 ban hành Quy chế thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Ngoài việc sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg, Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg đã quy định nhiều nội dung mới có tính hoàn thiện hơn nhằm thay đổi phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, giảm phiền hà, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đem lại lợi ích cho người dân, doanh nghiệp. Trên thực tế có nhiều loại hồ sơ, giấy tờ hành chính liên quan đến thẩm quyền giải quyết của nhiều cơ quan hành chính phải qua nhiều đầu mối mới có kết quả cuối cùng. Cơ chế một cửa liên thông đặt ra yêu cầu các cơ quan nhà nước có trách nhiệm phối hợp với nhau trong quy trình xử lý công việc, không để tổ chức cá nhân mang hồ sơ đi từ cơ quan này đến cơ quan khác. Người dân có nhu cầu chỉ phải nộp hồ sơ và nhận lại kết quả tại một đầu mối. Những cải cách này đã giúp cho cơ quan hành chính nhà nước phục vụ ngày càng tốt hơn những nhu cầu của người dân. Ví dụ: để làm thủ tục đăng ký kinh doanh, để doanh nghiệp mới thành lập đi vào hoạt động trước đây phải đến 3 cơ quan là Sở Kế hoạch và Đầu tư, Công An (cấp con dấu), Cục Thuế (cấp mã số thuế) để giải quyết thì nay chỉ phải đến một đầu mối là Sở Kế hoạch và Đầu tư, tiết kiệm thời gian, chi phí cho doanh nghiệp.

Đến nay, trong quá trình tổ chức thực hiện có nhiều địa phương đã triển khai tốt cơ chế một cửa, một cửa liên thông. Theo báo cáo của các địa phương, đã có trên 85% cơ quan hành chính cấp tỉnh, 98% cơ quan hành chính cấp huyện và 95% cơ quan hành chính cấp xã đã triển khai thực hiện cơ chế một cửa. Đã có hơn 40 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiến hành triển khai thực hiện cơ chế một cửa liên thông trên các lĩnh vực đất đai, đăng ký kinh doanh, xây dựng, lao động thương binh xã hội, cấp phép quảng cáo…. giữa cơ quan hành chính cấp xã với cơ quan hành chính cấp huyện và giữa các cơ quan hành chính cùng cấp với nhau. Một số nơi đã áp dụng ứng dụng công nghệ thông tin vào công việc này (gọi là một cửa, một cửa liên thông theo mẫu hiện đại) như Hải Phòng, Bà Rịa – Vũng Tàu, Ninh Bình, Bắc Giang, Bắc Ninh, Nghệ An....

Có nhiều địa phương đã coi việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông là nhiệm vụ trọng tâm, chú ý đầu tư cơ sở vật chất, bố trí nhân lực, rà soát lại các quy trình giải quyết thủ tục hành chính. Đồng thời đã đưa thêm nhiều thủ tục hành chính mới thuộc thẩm quyền của nhiều cơ quan hành chính các cấp vào cơ chế một cửa và một cửa liên thông nên đã tạo môi trường thuận lợi, giảm được thời gian, chi phí cho người dân và doanh nghiệp.

Tuy nhiên, trên thực tế triển khai thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông vẫn còn một số nơi còn chậm, chất lượng chưa tốt, chưa bố trí cán bộ, công chức đủ năng lực, công khai thủ tục hành chính chưa đầy đủ, chưa quan tâm đầu tư kinh phí để xây dựng cơ sở vật chất… nên còn gây khó khăn trở ngại cho người dân, doanh nghiệp. Đó là do chưa có sự quan tâm đúng mức của người đứng đầu cơ quan hành chính, chỉ đạo thiếu kiên quyết, không bảo đảm tính liên tục, nhiều nơi nhận thức còn hạn chế. Ngoài ra, cũng có địa phương chưa quan tâm đầu tư kinh phí để xây dựng cơ sở vật chất và bố trí cán bộ đủ năng lực, làm việc tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả gây trở ngại cho tổ chức, cá nhân. Đó là những hạn chế cần sớm được khắc phục thời gian tới trong cải cách hành chính.



81. Cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị: Hiện nay chế độ cán bộ công chức cấp cơ sở (xã, thôn, buôn …) còn nhiều bất cập. Cử tri đề nghị Chính phủ sớm sửa đổi Nghị định 121/2003/NĐ-CP.

Trả lời: (tại Công văn số 836/BNV-CQĐP ngày 24/3/2010 của Bộ Nội vụ)

Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ “Về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã’; Nghị định này thay thế Nghị định 121/2003/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2003, như đề nghị của cử tri.



82. Cử tri tỉnh Bắc Cạn kiến nghị: Đề nghị Chính phủ xem xét, sửa đổi Điều 12, Mục 2, Chương II, Nghị định số 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về việc tính điểm và xác định người trúng tuyển theo hướng điều chỉnh điểm ưu tiên trong tuyển dụng công chức giữa người dân tộc thiểu số với người dân tộc kinh sông lâu năm ở vùng núi, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số và nên áp dụng chế độ ưu tiên theo đặc thù vùng, miền, không phân biệt giữa các dân tộc, vì hiện nay theo Nghị định này thì đối tượng là người dân tộc thiểu số được ưu tiên 30 điểm trong tuyển dụng công chức, quy định này có nhiều ưu điểm là quan tâm đến con em người dân tộc thiểu số song dẫn đến các tỉnh miền núi khó thu hút được nhân tài.

Trả lời: (tại Công văn số 667/BNV-CCVC ngày 12/3/2010 của Bộ Nội vụ)

Theo quy định của Điều 38 Luật cán bộ, công chức, một trong các nguyên tuyển dụng công chức là ưu tiên tuyển chọn người có tài năng, người có công với nước, người dân tộc thiểu số. Trong quá trình xây dựng dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết về chế độ ưu tiên trong tuyển dụng công chức, Bộ Nội vụ cũng nhận được nhiều ý kiến tham gia của các Bộ, ngành, địa phương về một số bất hợp lý trong quy định về ưu tiên trong tuyển dụng công chức, như quy định cộng 30 điểm ưu tiên đối với người dân tộc là quá cao, đặc biệt trong xét tuyển, không tạo thành cơ chế để ưu tiên chuyển chọn người có tài năng và chủ yếu chú trọng về chính sách.

Bộ Nội vụ đã tiếp thu ý kiến tham gia của các Bộ, ngành, địa phương và trình Chính phủ thì việc ưu tiên trong tuyển dụng công chức được quy định như sau:

- Anh hùng Lực lượng vũ trang, Anh hùng lao động, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, được cộng 30 điểm vào tổng kết quả thi tuyển hoặc xét tuyển;

- Người dân tộc thiểu số; con liệt sĩ, con thương binh, con bệnh binh, con của người hưởng chính sách như thương binh, con của người hoạt động cách mạng trước tổng khởi nghĩa (từ ngày 19 tháng 8 năm 1945 trở về trước), con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học, con Anh hùng Lực lượng vũ trang, con Anh hùng lao động; sĩ quan (quân đội và công an), quân nhân chuyên nghiệp và người làm công tác cơ yếu chuyển ngành: được cộng 20 điểm vào tổng kết quả thi tuyển hoặc xét tuyển;

- Người đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ phục vụ có thời hạn trong lực lượng công an; đội viên thanh niên xung phong, đội viên trí thức trẻ tình nguyện tham gia phát triển nông thôn, miền núi từ hai năm (đủ 24 tháng) trở lên đã hoàn thành nhiệm vụ: được cộng 10 điểm vào tổng kết quả thi tuyển hoặc xét tuyển.



83. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Nghị định số 158/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 của Chính phủ quy định danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức, trong đó có một số chức danh nếu chuyển đổi trong thời hạn 3 năm là chưa hợp lý (như cán bộ địa chính phải có thời gian dài mới nắm bắt được đầy đủ tình hình, biến động đất đai ở địa phương; cảnh sát khu vực cũng phải mất rất nhiều thời gian mới nắm bắt được toàn bộ tình hình các hộ dân và diễn biến dân cư, an ninh trật tự tại địa bàn công tác), đề nghị Chính phủ nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Nghị định này cho phù hợp hơn.

Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12

tải về 4.57 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   ...   60




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương