TỚi tình trạng dinh dưỠNG, thiếu máu của phụ NỮ CÓ thai và trẻ 24 tuần tuổi luậN Án tiến sĩ dinh dưỠNG



tải về 3.27 Mb.
trang2/30
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích3.27 Mb.
#35589
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   30

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BMI:

Body Mass Index (Chỉ số khối cơ thể)

CED:

CI:


Chronic Energy Deficiency (Thiếu năng lượng trường diễn)

Confidence Interval (Khoảng tin cậy)



CNSS:

CT:


Cân nặng sơ sinh

Can thiệp



IFA:

Iron Folic Acid (Sắt acid folic)

LAZ:

Length for Age Z-score (Z-score chiều dài nằm theo tuổi)

LNS:

Lipid-based Nutrient Supplement (Gói bổ sung lipid và các vi chất dinh dưỡng)

MMN:

Multi-micronutrient (Đa vi chất)

MUAC:

Mid-Upper Arm Circumference (Chu vi vòng cánh tay)


NXB:

Nhà xuất bản

PNCT:

Phụ nữ có thai

PNTSĐ

Phụ nữ tuổi sinh đẻ

SD:

Standart Deviation (Độ lệch chuẩn)

SDD:

TB:


Suy dinh dưỡng

Trung bình



TTDD:

Tình trạng dinh dưỡng

UNICEF:

United Nations Children's Fund (Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc)

WAZ:

Weight for Age Z-score (Z-score cân nặng theo tuổi)

WLZ:

Weight for Length Z-score (Z-score cân nặng theo chiều dài nằm)

WHO:

World Health Organization (Tổ chức Y tế thế giới)


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1

Thành phần dinh dưỡng của khẩu phần bổ sung

40

Bảng 2.2

Trung bình thời gian ăn thực phẩm bổ sung của nhóm can thiệp

47

Bảng 2.3

Trung bình thời gian tham gia nghiên cứu

47

Bảng 2.4

Thời điểm và các số liệu cần thu thập

52

Bảng 2.5

Quy định khoảng thời gian thu thập số liệu

53

Bảng 2.6

Các chỉ tiêu xét nghiệm và phương pháp thực hiện

57

Bảng 3.1:

Đặc điểm ban đầu của đối tượng theo nhóm nghiên cứu

64

Bảng 3.2:

Đặc điểm nhân trắc của đối tượng trước can thiệp theo nhóm nghiên cứu

66

Bảng 3.3:

Tình trạng dinh dưỡng của đối tượng trước can thiệp theo nhóm nghiên cứu

66

Bảng 3.4

Một số chỉ số sinh hóa máu của đối tượng trước can thiệp theo nhóm nghiên cứu

67

Bảng 3.5:

Giá trị dinh dưỡng khẩu phần của đối tượng trước can thiệp theo nhóm nghiên cứu

68

Bảng 3.6:

Giá trị dinh dưỡng khẩu phần thực tế của đối tượng khi có thai theo nhóm nghiên cứu

71

Bảng 3.7:

Giá trị dinh dưỡng khẩu phần (không bao gồm thực phẩm bổ sung) của đối tượng khi có thai theo nhóm nghiên cứu

72

Bảng 3.8:

Sự thay đổi cân nặng của phụ nữ tham gia nghiên cứu khi có thai theo nhóm nghiên cứu

74

Bảng 3.9:

Sự thay đổi cân nặng của phụ nữ ban đầu bị thiếu năng lượng trường diễn theo nhóm nghiên cứu

74

Bảng 3.10:

Sự thay đổi chu vi vòng cánh tay của phụ nữ khi có thai theo nhóm nghiên cứu

76

Bảng 3.11:

Sự thay đổi chu vi vòng cánh tay khi có thai của phụ nữ ban đầu bị thiếu năng lượng trường diễn theo nhóm nghiên cứu

76

Bảng 3.12

Tương quan tuyến tính giữa mức tăng cân khi có thai với can thiệp và đặc điểm trước khi có thai của phụ nữ nhóm nghiên cứu

77

Bảng 3.13

Đặc điểm chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ đến 24 tuần tuổi theo nhóm nghiên cứu

78

Bảng 3.14:

Tình trạng dinh dưỡng của trẻ sơ sinh theo nhóm nghiên cứu

79

Bảng 3.15:

Số đo nhân trắc của trẻ 24 tuần tuổi theo nhóm nghiên cứu

80

Bảng 3.16

Mức tăng cân nặng, chiều dài nằm của trẻ 24 tuần tuổi theo nhóm nghiên cứu

81

Bảng 3.17:

Z-score trung bình của trẻ 24 tuần tuổi có mẹ ban đầu bị thiếu năng lượng trường diễn theo nhóm nghiên cứu

83

Bảng 3.18:

Tỉ lệ suy dinh dưỡng của trẻ 24 tuần tuổi theo nhóm nghiên cứu

84

Bảng 3.19:

Thay đổi nồng độ hemoglobin trung bình ở phụ nữ khi có thai theo nhóm nghiên cứu (g/dL)

85

Bảng 3.20:

Hiệu quả của can thiệp tới tỉ lệ thiếu máu ở phụ nữ có thai

86

Bảng 3.21

Thay đổi nồng độ folate huyết thanh của phụ nữ khi có thai theo nhóm nghiên cứu (µM/L)

87

Bảng 3.22

Thay đổi nồng độ cobalamin huyết thanh của phụ nữ khi có thai theo nhóm nghiên cứu (pM/L)

88

Bảng 3.23:

Hiệu quả của can thiệp tới tình trạng thiếu máu của trẻ 24 tuần tuổi

90

Bảng 3.24:

Hiệu quả của can thiệp tới tình trạng thiếu máu của trẻ 24 tuần tuổi có mẹ ban đầu bị thiếu năng lượng trường diễn

90

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ

Hình 1.1:

Nguyên nhân tiềm tàng dẫn đến hậu quả lâu dài của suy dinh dưỡng thấp còi

6

Hình 1.2:

Khung lý thuyết các giai đoạn và can thiệp dinh dưỡng tiềm năng để cải thiện kết quả thai nghén

36

Hình 2.1

Sơ đồ lấy mẫu

43

Hình 2.2

Địa điểm chế biến và tổ chức ăn bổ sung

45

Hình 2.3

Sơ đồ tổ chức và quản lý nghiên cứu

48

Hình 2.4

Sơ đồ lấy mẫu, bảo quản và phân tích mẫu máu

56

Hình 3.1:

Mức đáp ứng nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng của khẩu phần đối tượng trước can thiệp

69

Hình 3.2:

Sự thay đổi tỉ lệ suy dinh dưỡng cấp của phụ nữ khi có thai

75

Hình 3.3:

Z-score trung bình của trẻ 24 tuần tuổi theo nhóm nghiên cứu

82

MỞ ĐẦU

Dinh dưỡng kém ở phụ nữ trước và trong khi có thai có liên quan đến tình trạng sinh non và chậm phát triển tử cung, làm tăng đáng kể nguy cơ sinh trẻ có cân nặng sơ sinh (CNSS) thấp, suy dinh dưỡng (SDD), chậm phát triển và tử vong ở trẻ sau này. Nghiên cứu cho thấy mức tăng cân khi có thai, khẩu phần ăn và tình trạng vi chất dinh dưỡng khi có thai có liên quan tới kết quả thai nghén và tình trạng sức khoẻ của trẻ [1], [2], [3]. Khẩu phần ăn của người Việt Nam [4], của phụ nữ tuổi sinh đẻ (PNTSĐ) [5], [6], [7], [8] và phụ nữ có thai (PNCT) [9], [10] còn nghèo nàn, chưa đáp ứng được nhu cầu khuyến nghị, khẩu phần ăn đặc biệt thiếu sắt, kẽm, calci, vitamin A, vitamin B12, và folate. Các can thiệp cải thiện khẩu phần ăn của phụ nữ khi có thai có tác động bền vững trong việc cải thiện tình trạng dinh dưỡng (TTDD).

Suy dinh dưỡng thường khởi phát từ trong bào thai và có thể kéo dài suốt cuộc đời, gây ảnh hưởng xấu đến TTDD của những thế hệ tiếp theo. Ước tính trên toàn cầu năm 2015 có 23,2% (khoảng 156 triệu) trẻ em dưới 5 năm tuổi bị SDD thấp còi [11], tỉ lệ này ở Việt Nam là 24,6% [12]. Suy dinh dưỡng có ảnh hưởng lâu dài đến cá nhân và xã hội, làm giảm nhận thức và phát triển thể chất, sức khỏe kém, giảm năng lực sản xuất và tăng nguy cơ mắc các bệnh mạn tính sau này. Bên cạnh SDD, thiếu máu hiện cũng đang là vấn đề sức khỏe cộng đồng quan trọng, là một rối loạn vi chất phổ biến nhất trên thế giới, tỉ lệ thiếu máu chung toàn cầu là 24,8% tương đương với 1,62 tỉ người [13], [14]. Tỉ lệ thiếu máu ở trẻ dưới 5 tuổi, PNTSĐ và PNCT Việt Nam năm 2015 lần lượt là 27,8%, 25,5% và 32,8%, thuộc mức trung bình về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng [15]. Thiếu máu ảnh hưởng đến khả năng lao động, năng lực trí tuệ, phụ nữ bị thiếu máu khi có thai dễ bị sảy thai, đẻ non, sinh trẻ có CNSS thấp, tăng tỉ lệ mắc bệnh và tử vong của mẹ và con khi sinh, dễ bị chảy máu và bị mắc các bệnh nhiễm trùng ở thời kì hậu sản [16]. Một trong những nguyên nhân quan trọng gây suy dinh dưỡng và thiếu máu là chế độ ăn không cung cấp đủ các chất dinh dưỡng cho nhu cầu của cơ thể trong thời gian dài.

Một nghìn ngày đầu đời, từ khi có thai đến khi trẻ được hai tuổi, là khoảng thời gian quan trọng để can thiệp cải thiện sự tăng trưởng và phát triển của trẻ, giúp trẻ đạt tối đa tiềm năng phát triển [17], [18], [19]. Chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng cho phụ nữ, đặc biệt ở giai đoạn trước và trong khi có thai giúp tích lũy chất dinh dưỡng và mang lại hiệu quả bền vững trong cải thiện TTDD và thiếu máu. Nghiên cứu cho thấy ngay cả người mẹ thấp bé nếu được chăm sóc dinh dưỡng tốt khi có thai vẫn có thể sinh được những đứa trẻ khỏe mạnh [20]. Các tiếp cận phổ biến nhất hiện nay để cải thiện TTDD, thiếu máu của người mẹ và kết quả thai nghén bao gồm bổ sung thực phẩm giàu dinh dưỡng, bổ sung sắt và acid folic, và bổ sung đa vi chất.



Cho đến nay có nhiều nghiên cứu thử nghiệm can thiệp có đối chứng để đánh giá hiệu quả của bổ sung vi chất dinh dưỡng trên PNCT [21]. Hầu hết các nghiên cứu can thiệp bổ sung vi chất cho tác dụng cải thiện tình trạng của loại vi chất được bổ sung. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu bổ sung vi chất đến kết quả thai nghén như CNSS của trẻ, tỉ lệ sinh non, sảy thai, tình trạng nhẹ cân, thấp còi của trẻ sơ sinh cũng như sự phát triển sau này của trẻ chưa thực sự rõ rệt [21], [22], [23], [24].

Thực phẩm là nguồn cung cấp các chất dinh dưỡng cần thiết cho con người. Nhiều thực phẩm được tiêu thụ hàng ngày là nguồn cung cấp các chất dinh dưỡng có giá trị sinh học cao như sắt, kẽm, vitamin A, folate và vitamin B12­, là những chất quan trọng với sức khỏe sinh sản và sự phát triển của thai nhi. Mức tiêu thụ thực phẩm có nguồn gốc động vật có thể dự đoán được mức tăng cân khi có thai, kết quả thai nghén và sự phát triển của trẻ em [25], [26]. Tăng mức tiêu thụ thực phẩm giàu dinh dưỡng trước và trong khi có thai, trong hoàn cảnh phụ nữ có nguy cơ thiếu hụt vi chất cao, có nhiều khả năng cải thiện sự phát triển của thai nhi, giảm các tai biến sản khoa, giảm khả năng mắc các bệnh nhiễm trùng, cải thiện TTDD và sức khỏe về lâu dài cho các thế hệ tương lai.

Mặc dù vai trò của các chất dinh dưỡng trong thực phẩm khi có thai là quan trọng nhưng số nghiên cứu thử nghiệm bổ sung thực phẩm hoặc dựa vào thực phẩm để cải thiện TTDD, tình trạng thiếu máu của mẹ và kết quả thai nghén chưa nhiều [27]. Các nghiên cứu bổ sung dựa vào thực phẩm trong vài thập kỷ gần đây bước đầu đã cho kết quả khả quan trong cải thiện kết quả thai nghén và sự tăng trưởng của trẻ sau sinh nhưng chưa thực sự thống nhất [28], [29], [30], [31], [32]. Hầu hết các nghiên cứu đều sử dụng thực phẩm đã qua chế biến. Có ít nghiên cứu đánh giá hiệu quả của bổ sung thực phẩm tự nhiên, tại chỗ cho phụ nữ trước và trong khi có thai tới kết quả thai nghén mà chỉ có các nghiên cứu hồi cứu đánh giá tác động của việc cung cấp thực phẩm tự nhiên cho phụ nữ trước và trong khi có thai của các chương trình bổ sung thực phẩm trong điều kiện khẩn cấp, không chủ đích nghiên cứu [33], [34], [35], [36]. Một nghiên cứu đánh giá hiệu quả của bổ sung thực phẩm tự nhiên giàu dinh dưỡng trước và trong khi có thai tới TTDD, thiếu máu của PNCT và trẻ 24 tuần tuổi là thực sự cần thiết. Vì vậy nghiên cứu sinh lựa chọn triển khai nghiên cứu "Hiệu quả bổ sung thực phẩm cho phụ nữ trước và trong khi có thai đến tình trạng dinh dưỡng, thiếu máu của phụ nữ có thai và trẻ 24 tuần tuổi".
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Đề tài nghiên cứu được thực hiện với hai mục tiêu cụ thể sau:



  1. Đánh giá hiệu quả của bổ sung thực phẩm cho phụ nữ trước và trong khi có thai tới một số chỉ số nhân trắc của phụ nữ có thai và trẻ 24 tuần tuổi huyện Cẩm Khê, Phú Thọ.

  2. Đánh giá hiệu quả của bổ sung thực phẩm cho phụ nữ trước và trong khi có thai tới tình trạng thiếu máu của phụ nữ có thai và trẻ 24 tuần tuổi huyện Cẩm Khê, Phú Thọ.

Giả thuyết nghiên cứu:

Nghiên cứu được thực hiện dựa trên giả thuyết các chỉ số nhân trắc và tình trạng thiếu máu của phụ nữ có thai và của trẻ 24 tuần tuổi ở nhóm phụ nữ được bổ sung thực phẩm tự nhiên giàu sắt, kẽm, vitamin A, folate và vitamin B12­ trước và trong khi có thai được cải thiện hơn so với ở nhóm phụ nữ không được bổ sung thực phẩm.




Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

    1. Khái luận tình trạng dinh dưỡng trẻ em và phụ nữ tuổi sinh đẻ

      1. Tổng quan về tình trạng dinh dưỡng

Tình trạng dinh dưỡng (TTDD) là tập hợp các đặc điểm cấu trúc, chức phận và hoá sinh phản ánh mức đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể [37]. Tình trạng dinh dưỡng của cá thể là kết quả của ăn uống và sử dụng các chất dinh dưỡng của cơ thể. Nhân trắc dinh dưỡng là số đo các kích thước và cấu trúc cơ thể để đánh giá TTDD [38]. Các số đo nhân trắc của cơ thể cung cấp sơ lược sự phát triển hay kích thước cơ thể đạt được hoặc thay đổi qua thời gian, chúng được dùng để mô tả TTDD của cá thể hay cộng đồng [39].

Muốn nhận định các kết quả về nhân trắc cần có bộ tham khảo đáng tin cậy để so sánh. Từ năm 2006, Chuẩn tham khảo của Tổ chức Y tế thế giới WHO 2006 [40] đã được khuyến cáo sử dụng và cho tới nay, đây là thang phân loại được chấp nhận rộng rãi trên thế giới. Đánh giá TTDD ở trẻ 0 - 60 tháng tuổi dựa vào 3 chỉ tiêu z-score cân nặng theo tuổi (SDD thể nhẹ cân), z-score chiều cao theo tuổi (SDD thể thấp còi), và z-score cân nặng theo chiều cao (SDD thể gầy còm) được so sánh với các số đo tương tự của trẻ cùng tuổi, cùng giới của Chuẩn tham khảo WHO 2006, lấy điểm ngưỡng dưới 2 độ lệch chuẩn (-2 SD) được coi là SDD. Ngưỡng -3 SD hoặc -4 SD được sử dụng để đánh giá mức độ SDD.

Ở người trưởng thành, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khuyên dùng "chỉ số khối cơ thể" (Body Mass Index - BMI) để nhận định TTDD. Chỉ số BMI có liên quan chặt chẽ với tỉ lệ khối mỡ trong cơ thể, do đó là một chỉ số được khuyến nghị để đánh giá mức độ gầy béo. Chỉ số khối cơ thể BMI (kg/m2) được tính bằng tỉ lệ của cân nặng tính theo kilogam chia cho chiều cao bình phương theo mét. Chỉ số khối cơ thể BMI từ 18,5 đến 24,9 là bình thường, BMI trên 25 được xác định là có biểu hiện thừa cân, BMI dưới 18,5 là gầy hay còn gọi là thiếu năng lượng trường diễn (CED) [38].



Đói nghèo

Vệ sinh kém, thiếu hiểu biết và thực hành chăm sóc kém, chăm sóc sức khỏe chưa tốt

Nhiễm khuẩn ở trẻ em



Thiếu dinh dưỡng ở trẻ em

Suy dinh dưỡng thời kì có thai

Chậm phát triển nhận thức



Thấp còi

Bào thai kém phát triển

Thành tích học tập kém



Giảm vóc dáng khi trưởng thành

Suy thai mạn tính



Khả năng kinh tế thấp

Khung chậu nhỏ ở phụ nữ thấp bé


Thai chết lưu



Thai không lọt qua khung chậu

Ngạt sơ sinh



Đẻ khó

Tăng tỉ lệ bệnh tật và tử vong ở bà mẹ


Tăng tỉ lệ bệnh tật và tử vong ở trẻ sơ sinh

Hình 1.1: Nguyên nhân tiềm tàng dẫn đến hậu quả lâu dài của suy dinh dưỡng thấp còi (Sơ đồ được phát triển từ mô hình mối liên quan giữa đói nghèo, SDD thấp còi với sự phát triển và thành tích học tập của Grantham-McGregor S. và cộng sự, 2007 [20])

Suy dinh dưỡng thường khởi phát từ trong bào thai và có thể kéo dài trong suốt cuộc đời, có thể diễn ra trong quá trình thai nghén, ở trẻ nhỏ, thanh thiếu niên và tích luỹ dần, gây ảnh hưởng xấu đến tình TTDD của những thế hệ tiếp theo. Trong suốt thời kì bào thai và hai năm đầu đời, nhu cầu năng lượng của trẻ rất cao nhằm hỗ trợ quá trình tăng trưởng và phát triển nhanh của cơ thể. Ở một số vùng, khi trẻ sinh ra đã có chỉ số z-score chiều cao theo tuổi thấp hơn mức chuẩn (dưới 0) và chỉ số này giảm mạnh trong hai năm đầu đời và gần như không thay đổi gì sau đó [41]. Hình 1.1 thể hiện nguyên nhân và hậu quả của SDD thấp còi.

Mẹ bị thiếu máu, hút thuốc lá, ô nhiễm không khí có thể làm hạn chế sự phát triển của bào thai dẫn đến CNSS thấp. Khẩu phần ăn nghèo dinh dưỡng trong thời kì bào thai, sơ sinh và trong những năm đầu đời làm cho trẻ không được nhận đủ chất dinh dưỡng. Ngoài ra, thường xuyên mắc các bệnh nhiễm khuẩn trong 2 năm đầu đời cũng góp phần làm tăng nguy cơ SDD thấp còi ở trẻ.

Suy dinh dưỡng đặc biệt là SDD thấp còi ở trẻ nhỏ gây hậu quả lâu dài, dẫn đến giảm chiều cao ở tuổi trưởng thành và suy giảm các chức năng khác sau này. Khoa học vẫn chưa nghiên cứu hết các hậu quả trực tiếp do SDD thấp còi gây ra, một phần do hầu hết các bằng chứng có được đều rút ra từ các nghiên cứu quan sát. Các bằng chứng cho thấy mối liên quan giữa chậm phát triển chiều cao trong những năm đầu đời với tình trạng sức khỏe, khả năng lao động và học tập kém sau này gần đây đang dần rõ rệt [42], [43]. Suy dinh dưỡng thấp còi ở bà mẹ làm tăng nguy cơ tác động tiêu cực đến bào thai, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ bằng cách ảnh hưởng đến việc chậm phát triển trong tử cung và ảnh hưởng gây đẻ khó [44]. Suy dinh dưỡng còn hạn chế khả năng học tập, lao động, làm trì hoãn sự phát triển của não bộ, giảm khả năng tư duy và thành tích học tập ở trường [45], [46]. Vóc dáng thấp và nhận thức kém ảnh hưởng đến thu nhập khi trưởng thành cũng như làm giảm năng suất, ảnh hưởng đến kinh tế ở cấp quốc gia. Ngoài ra SDD thấp còi còn liên quan đến việc tăng nguy cơ thừa cân, béo phì và mắc các bệnh không lây như đái tháo đường và tim mạch sau này.



      1. Thực trạng dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi

        1. Thực trạng dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi trên thế giới

Năm 2014, trên thế giới có 14,3% tương đương với 95 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị SDD nhẹ cân. Tỉ lệ SDD nhẹ cân tiếp tục giảm nhưng với tốc độ chậm, giảm từ 25% năm 1990 xuống còn 14,3% năm 2014. Khu vực Nam Á vừa có tỉ lệ SDD nhẹ cân cao nhất (30%) vừa có số trẻ bị SDD nhẹ cân cao nhất với 52 triệu trẻ, chiếm hơn một nửa số trẻ SDD nhẹ cân trên toàn cầu. Sau Nam Á là châu Phi có tỉ lệ SDD nhẹ cân 16 - 22% tùy từng vùng với 29 triệu trẻ, chiếm hơn 30% số trẻ SDD nhẹ cân trên toàn cầu. Chỉ riêng hai khu vực Nam Á và châu Phi đã chiếm tới 85% số trẻ SDD nhẹ cân trên toàn cầu [11].

Tỉ lệ SDD thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn cầu năm 2015 là 23,2%. Nhìn chung, SDD thấp còi có xu hướng giảm, giảm từ 39,6% năm 1990 xuống còn 23,2% năm 2015, trung bình giảm 0,66% mỗi năm và số trẻ SDD thấp còi giảm từ 255 triệu xuống còn 156 triệu trẻ trong vòng 25 năm qua. Trừ châu Âu, tỉ lệ SDD thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi năm 2015 cao nhất ở châu Đại dương (không tính Úc và New Zealand), sau đó đến châu Phi, châu Á (không tính Nhật Bản) và châu Mỹ Latinh (lần lượt là 38%; 32%; 24%; và 11%). Số trẻ SDD thấp còi ở châu Á chiếm hơn một nửa và ở châu Phi chiếm hơn một phần ba tổng số trẻ SDD thấp còi dưới 5 tuổi trên toàn cầu [47].

Năm 2015, tỉ lệ SDD gầy còm ở trẻ dưới 5 tuổi trên toàn cầu là 7,4% tương đương với 50 triệu trẻ, trong số đó có 16,4 triệu trẻ bị SDD gầy còm mức độ nặng. Ước tính trên thế giới cứ 13 trẻ thì có 1 trẻ bị gầy còm. Bên cạnh thiếu dinh dưỡng còn tồn tại thừa cân với xu hướng ngày càng tăng. Tỉ lệ thừa cân tăng từ 5,1% năm 2000 lên 6,2% năm 2015, và số trẻ thừa cân tăng từ 31 triệu lên 42 triệu trẻ. So với năm 2000, tỉ lệ trẻ thừa cân năm 2015 tăng nhiều nhất ở châu Phi (tăng 56%, từ 6,8 lên 10,5 triệu trẻ), sau đó đến châu Á (tăng 41%, từ 14,2 lên 20,1 triệu trẻ). Riêng châu Mỹ la tinh và châu Đại dương (không kể Úc và New Zealand) tỉ lệ trẻ dưới 5 tuổi năm 2015 bị thừa cân vẫn giữ nguyên so với năm 2000 [47].

Suy dinh dưỡng có thể bắt đầu từ khi trẻ là thai nhi còn trong bụng mẹ, thể hiện bằng cân nặng và chiều dài thấp khi sinh ra. Cân nặng sơ sinh thấp là nguyên nhân gây chậm phát triển, tăng tỉ bệnh tật và tử vong ở trẻ cũng như khi trưởng thành [48]. Tỉ lệ CNSS thấp trên toàn cầu năm 2004 là 15,5%, tương ứng khoảng 20,6 triệu trẻ sinh ra mỗi năm bị thiếu cân, trong đó 96,5% là trẻ sinh ra ở các nước đang phát triển. Tỉ lệ trẻ có CNSS thấp cao nhất ở Trung Nam Á (27,1%) và thấp nhất ở châu Âu (6,4%) [49]. Tỉ lệ CNSS thấp khác nhau ở các quốc gia khác nhau, chẳng hạn như 17,1% ở Ethiopia [50], 19,3% ở Ấn Độ [51] hay 6,2% ở Trung Quốc [52]. Nguyên nhân CNSS thấp là do thai nhi chậm phát triển trong tử cung người mẹ và sinh non.



        1. Thực trạng dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi tại Việt Nam

Suy dinh dưỡng vẫn là một thách thức quan trọng đối với sức khỏe cộng đồng ở Việt Nam. Từ thập kỷ 80 về trước, các thể SDD nặng như Kwashiorkor và Marasmus khá phổ biến, gặp cả trong bệnh viện và ngoài cộng đồng. Hiện nay, các thể SDD nặng này đã trở nên hiếm gặp mà chủ yếu là thể nhẹ và thể vừa, biểu hiện là trẻ bị nhẹ cân, gầy còm và thấp còi. Theo kết quả điều tra MICS (điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ) tại Việt Nam năm 2014, tỉ lệ trẻ sinh ra có CNSS thấp dưới 2500 g là 5,7% [53]. Tỉ lệ SDD nhẹ cân từ 51% năm 1985 giảm xuống chỉ còn 14,1% năm 2015 [12]. Tỉ lệ SDD thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi đã giảm từ 56,5% năm 1990 xuống còn 24,6% năm 2015. Cả SDD thể nhẹ cân và thể thấp còi ở Việt Nam hiện nay đều ở mức trung bình có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng theo tiêu chuẩn đánh giá của WHO [38]. Suy dinh dưỡng nhẹ cân giảm 19,7%, tương đương với trung bình giảm 1,3% mỗi năm. Tỉ lệ SDD thể gầy còm năm 2015 là 6,4%. Đáng chú ý là bên cạnh thiếu dinh dưỡng, tỉ lệ thừa cân ở trẻ hiện đang có xu hướng tăng lên. Năm 2014, tỉ lệ thừa cân và béo phì ở trẻ dưới 5 tuổi là 3,5% và 1,3%, đến năm 2015, tỉ lệ này là 5,3% và 1,7%.

Theo số liệu điều tra giám sát TTDD bà mẹ và trẻ em năm 2014 [54], tỉ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị SDD thể thấp còi là 24,9%, thể nhẹ cân là 14,5% và gầy còm là 6,8% trong khi tỉ lệ trẻ bị thừa cân là 3,5%, tương đương với gần 1,8 triệu trẻ bị thấp còi, trên 1 triệu trẻ bị nhẹ cân, gần 500 nghìn trẻ bị gầy còm và 250 nghìn trẻ bị thừa cân. Tỉ lệ SDD nhẹ cân tăng dần theo tuổi, SDD tích lũy dần, thấp nhất ở nhóm 0 - 5 tháng tuổi và cao nhất ở nhóm trẻ 54 - 59 tháng tuổi. Xu hướng SDD thể thấp còi theo nhóm tuổi không giống với ở thể nhẹ cân. Tỉ lệ SDD thấp còi tăng nhanh khi trẻ được 6 tháng tuổi, là lứa tuổi trẻ bắt đầu ăn bổ sung, tỉ lệ thấp còi đạt cao nhất ở nhóm tuổi 18 - 23 tháng tuổi và duy trì cho đến khi trẻ được 48 - 53 tháng tuổi. Ngoài ra, tỉ lệ SDD ở trẻ nam cao hơn ở trẻ nữ, tương tự như kết quả phân tích số liệu toàn cầu công bố năm 2015, nguyên nhân có thể là do tỉ lệ CNSS thấp ở trẻ nam cao hơn ở trẻ nữ [11].

Bên cạnh hệ thống điều tra giám sát TTDD trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn quốc được thực hiện hàng năm còn có các nghiên cứu được thực hiện tại các vùng miền khác nhau trên toàn quốc, cho thấy bức tranh tổng thể về thực trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi ở Việt Nam. Theo số liệu tác giả Lê Anh Tuấn và cộng sự công bố năm 2008 cho thấy trên 19.266 ca sinh tại Bệnh viện Phụ sản trung ương có tới 450 trẻ có CNSS thấp, nguyên nhân do sinh non chiếm 85,3% và do SDD bào thai là 14,7% [55]. Nghiên cứu của Phan Bích Nga cũng tại Bệnh viện Phụ sản trung ương cho thấy tỉ lệ CNSS thấp dưới 2500 g là 10,5% và SDD thấp còi sơ sinh là 13,8% [56], trong khi nghiên cứu của Ngô Minh Xuân và cộng sự năm 2009 tại Bệnh viện Từ Dũ cho thấy tỉ lệ suy dinh dưỡng bào thai là 6,2% [57]. Ở nhóm trẻ dưới 5 tuổi, nhìn chung tỉ lệ SDD rất khác nhau ở các vùng miền khác nhau. Tỉ lệ SDD ở Hà Nam [58], thành phố Hồ Chí Minh [59] tương đối thấp trong khi lại rất cao ở Tây Nguyên và các tỉnh miền núi phía Bắc [60], [61]. Nghiên cứu tại Phú Thọ [62], Lào Cai [63], Khánh Hòa [64] cho thấy không có sự khác biệt về tỉ lệ SDD theo giới tính trong khi nghiên cứu tại Hải Dương [64], các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên [61] lại thấy có sự khác biệt về tỉ lệ SDD theo giới tính của trẻ. Các nghiên cứu đều cho thấy tỉ lệ SDD thấp còi ở trẻ 0 - 24 tháng tuổi tăng dần theo nhóm tuổi, và đạt tỉ lệ cao nhất ở trẻ 18 - 24 tháng tuổi.


      1. Каталог: FileUpload -> Documents -> 2017
        Documents -> CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam qcvn 01 78: 2011/bnnptnt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia thứC Ăn chăn nuôi các chỉ tiêu vệ sinh an toàn và MỨc giới hạn tốI Đa cho phép trong thứC Ăn chăn nuôI
        Documents -> TỔng cục dạy nghề
        Documents -> BỘ giáo dụC ĐÀo tạo bộ y tế viện dinh dưỠng nguyễn thị thanh hưƠng thực trạng và giải pháP
        Documents -> Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o bé y tÕ ViÖn dinh d­ìng Ph¹m hoµng h­ng HiÖu qu¶ cña truyÒn th ng tÝch cùc ®Õn ®a d¹ng ho¸ b÷a ¨n vµ
        Documents -> TỜ khai xác nhận viện trợ HÀng hóA, DỊch vụ trong nưỚC
        Documents -> Phụ lục I mẫU ĐƠN ĐỀ nghị ĐĂng ký LƯu hàNH
        2017 -> ĐỂ CẢi thiện tình trạng thiếu máu của phụ NỮ CÓ thai luậN Án tiến sỹ dinh dưỠNG
        2017 -> VỚi sắt acid folic lên tình trạng dinh dưỠng của phụ NỮ mang thai và TĂng trưỞng của trẻ

        tải về 3.27 Mb.

        Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   30




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương